V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Lời đã nói

- Trích “Phép Tắc Người Con”,Bài 18
- Theo Zhengjian,Kiến Thiện biên dịch



Phàm nói ra, tín trước tiên
Lời dối trá, sao nói được
Nói nhiều lời, không bằng ít
Phải nói thật, chớ xảo nịnh
Lời gian xảo, từ bẩn dơ
Thói chợ búa, phải loại trừ

Diễn giải

Những lời đã nói thì nhất định phải giữ chữ tín. Nói chuyện lừa dối người khác hoặc tùy tiện nói bừa bãi thì làm sao có thể nói được ? Nói nhiều quá mà không làm được thì chi bằng nói ít đi một chút thì tốt hơn. Hơn nữa, nói chuyện phải chân thực, không được mồm mép tép nhảy, liến thoắng, hoặc nói những lời hoa mỹ khéo léo xu nịnh lấy lòng người khác. Những lời cay nghiệt khắc bạc, ngôn từ không nhã nhặn và ngữ khí thô tục đều nên thay đổi sửa lại cho đúng mực.

Câu chuyện tham khảo: QUÝ TRÁT TREO KIẾM

Quý Trát là công tử của quốc quân nước Ngô thời nhà Chu, là một vị quân tử rất có khí chất và tu dưỡng. Một lần, Quý Trát phải đi sứ nước Lỗ nên đã đi qua nước Từ, thế là ông tiện đường vào bái kiến quốc quân nước Từ. Trong khi hai người đàm đạo, ánh mắt của Từ Quân luôn luôn bị cuốn hút bởi thanh bảo kiếm mà Quý Trát đeo bên hông.

Từ Quân trong lòng thầm nghĩ: thanh bảo kiếm này của Quý Trát được chế tạo ra không những có khí phách mà còn có mấy viên đá quý nạm vào nữa, đẹp cổ điển mỹ lệ mà lại không mất đi vẻ trang trọng. Chỉ có người quân tử như Quý Trát đây mới xứng đáng đeo thanh kiếm này. Mặc dù Từ Quân rất thích thanh bảo kiếm này nhưng không nỡ lòng nói ra, chỉ một mực nhẫn nại ngắm nhìn thanh kiếm. Quý Trát biết tâm ý của Từ Quân, trong lòng thầm nghĩ rằng, đợi đến sau khi hoàn thành sứ mệnh đi sứ nước Lỗ trở về, nhất định sẽ quay lại tặng Từ Quân thanh kiếm này.

Sau đó, khi Quý Trát từ nước Lỗ trở về, đến nước Từ, ông mới biết Từ Quân đã qua đời rồi. Quý Trát buồn rầu đến bên mộ Từ Quân, lấy thanh bảo kiếm ra treo lên cây, đồng thời trong lòng mặc niệm rằng: “tuy Ngài đã qua đời rồi, nhưng lời hứa trong tâm tôi vẫn còn, hôm nay tôi đem thanh kiếm này tặng cho Ngài, cũng là dùng thanh kiếm này để nói lời vĩnh biệt với Ngài”.

Quý Trát cúi mình trước bia mộ lễ bái, sau đó quay người ra đi. Hành động này của Quý Trát khiến những người tùy tùng cảm thấy rất nghi hoặc khó hiểu, họ không nén nổi bèn hỏi: “Từ Quân đã qua đời rồi, Ngài treo thanh kiếm ở đây là có dụng ý gì ?”. Quý Trát đáp: “tuy ông ấy đã qua đời rồi nhưng trong tâm ta đã có lời hứa với ông ấy rằng sau khi ta từ nước Lỗ trở về nhất định sẽ tặng kiếm cho ông ấy, là một người quân tử thì cái cần coi trọng là thành tín và đạo nghĩa, sao có thể vì người ta chết rồi mà phản bội lại thành tín mà con người cần phải có chứ ?”

Đức hạnh giữ chữ tín này của Quý Trát khiến người đời sau vô cùng kính trọng và cảm động.

Phụ chú

Nguyên văn Đệ Tử Quy

凡 出 言 信 為 先
詐 與 妄 奚 可 焉
話 說 多 不 如 少
惟 其 是 勿 佞 巧
刻 薄 話 穢 污 詞
市 井 氣 切 戒 之

Âm Hán Việt

Phàm xuất ngôn, tín vi tiên
Trá dữ vọng, hề khả yên
Thoại thuyết đa, bất như thiểu
Duy kỳ thị, vật nịnh xảo
Khắc bạc thoại, uế ô từ
Thị tỉnh khí, thiết giới chi

Chú thích

- Xuất ngôn: lời nói ra. Ngôn: nghĩa là lời nói.

- Tín: chữ tín, thành tín.

- Trá: dối trá, lừa dối.

- Vọng: nói xằng bậy, nói lung tung.

- Hề: tại sao. Biểu thị ngữ khí nghi vấn.

- Yên: từ ngữ khí, đặt cuối câu biểu thị nghi vấn.

- Duy: hy vọng, chỉ, duy nhất.

- Nịnh xảo: người giỏi ăn nói hoa mỹ khéo léo xu nịnh. Nịnh nghĩa là mồm mép khéo léo, giỏi biện luận, xiểm nịnh. Xảo nghĩa là giảo hoạt, hư giả, giả dối.

- Khắc bạc: mỉa mai, châm chọc, giễu cợt người khác. Khắc: nghĩa là làm tổn thương. Bạc: nghĩa là không đôn hậu.

- Uế: dơ bẩn, không sạch sẽ.

- Thị tỉnh khí: khẩu khí thô tục, chợ búa.

- Giới: sửa đổi cho đúng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét