V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Ngày VÍA THẦN TÀI (Mùng 10 Tháng Giêng)

- Sưu tầm và Tổng hợp


Từ xưa Thần Tài, Thần Thổ Địa đã trở thành vị Thần quen thuộc với mọi người dân Việt Nam đặc biệt là những người kinh doanh buôn bán. Phong tục thờ cúng Thần Tài thường diễn ra vào ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch hoặc mùng 10 âm lịch hàng tháng. Tuy thế, nguồn gốc và ý nghĩa của hai vị Thần này thì không phải người dân nào cũng biết.



● Nguồn gốc của Thần Tài, Thần Thổ Địa

Tục thờ Thần Tài có xuất xứ từ Trung Quốc, còn ở nước ta tục thờ Thần Tài xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ XX. Theo truyền thuyết xưa, có một người lái buôn Trung Hoa tên là U Minh, khi đi qua hồ Thanh Thảo tình cờ gặp Thủy Thần, được Thủy Thần cho một người gia nhân tên là Như Nguyện. U Minh đem Như Nguyện về nuôi ở trong nhà, từ đó công việc làm ăn của U Minh mỗi ngày một phát đạt. Trong một ngày Tết, vì một lý do nào đó, U Minh đánh Như Nguyện. Như Nguyện quá sợ hãi bèn chui vào đống rác và biến mất. Từ đó U Minh làm ăn thua lỗ, chẳng mấy chốc nghèo xác nghèo xơ.

Dân gian coi Như Nguyện là Thần Tài và lập bàn thờ Như Nguyện, cũng chính vì thế mà bàn thờ Thần Tài thường nằm ở một góc khuất trong nhà. Theo điển tích này, trong ba ngày Tết có tục kiêng quét nhà, hốt rác vì sợ làm mất thần Tài ẩn trong đống rác. Cũng có quan niệm cho rằng Thần Tài là một dạng thổ thần kiểu Thần Đất (Thần Thổ Địa), vị thần hộ mệnh của xóm làng, cai quản đất đai, phù hộ con người và gia súc trong xóm làng. Khi những người dân Việt đi khai hoang, bước đầu họ gặp nhiều khó khăn và ý niệm về các vị thần hình thành từ đó, làm chỗ dựa tâm linh của họ trên con đường mưu sinh. Thần Đất là vị thần bảo hộ cây trái, hoa màu thể hiện tính nông nghiệp và là vị thần trông coi tiền tài, vàng bạc. Đây cũng là dấu ấn của thời kỳ kinh tế thương nghiệp.

Một điển tích khác lại cho rằng Thần Tài nguyên là Bố Đại La Hán, còn gọi là Nhân Yết Đà Tôn Giả ở Ấn Độ (là một trong thập bát La Hán). Ông là người chuyên bắt rắn, ông mang túi vải to trên lưng vào rừng bắt rắn độc, nhổ bỏ răng độc rồi thả rắn đi. Người Trung Quốc cho là Bố Đại đầu thai tại nước Lương tên là Phó Đại Sĩ, tính tình vui vẻ, ăn mặc xốc xếch, vai mang cái túi vải to, ai cho gì cũng dồn vào túi rồi đem phân phát cho trẻ em. Do đó có tượng Thần Tài đứng có mang túi to, hai tay đưa thẳng lên trời cười thoải mái, tượng trưng cho sự may mắn, thành công.

Mặc dù Thần Tài được xem là một hình tượng khác của Thần Đất nhưng cả hai vẫn mang yếu tố tâm linh giúp con người làm ăn phát đạt, cho nên người ta không thờ Thần Tài một mình mà thường thờ chung với Thổ Địa (vị thần cai quản đất đai nhà cửa). Trong những gia đình làm ăn buôn bán, người ta thờ cúng Thần Tài quanh năm, sáng sớm khi mở cửa bán hàng họ thường thắp hương cầu xin “mua may bán đắt”. Việc thờ cúng Thần Tài là một tín ngưỡng dân gian mang đậm dấu ấn của sự giao lưu văn hoá.

Theo một sự tích khác, ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch là ngày Thần Tài bay về trời. Từ đó, phong tục thờ cúng Thần Tài và Thần Thổ Địa là ngày mùng 10 âm lịch hàng tháng. Chuyện kể rằng dưới trần gian không có Thần Tài, chỉ có Thần Tài trên trời, vị thần cai quản tiền bạc, tài lộc. Trong một lần đi chơi uống rượu. Thần Tài say quá nên rơi xuống trần gian, đầu va vào đá nằm mê mệt không biết gì, sáng ra mọi người thấy một người ăn mặc giống như diễn tuồng cải lương thì lấy làm lạ và tưởng bị điên. Mọi người cũng lột sạch hết quần áo, mũ nón của Thần Tài đem bán, Thần Tài tỉnh dậy không có quần áo trên người và không nhớ mình là ai nữa vì đầu bị va vào đá. Thần Tài không biết làm việc dưới trần gian nên thường đi lang thang khắp nơi xin ăn. Có một cửa hàng kinh doanh buôn bán gà, vịt, heo quay ... ế ẩm, thấy Thần Tài đến ăn xin nên mời vào ăn. Thần Tài ăn rất nhiều và kỳ lạ thay từ lúc Thần Tài vào ăn thì khách ăn khác kéo đến nườm nượp, người bán hàng thấy vậy nên ngày nào cũng mời Thần Tài vào ăn. Khách hàng ở quán đối diện trước nay rất đông khách bỗng dưng cũng chuyển hết qua quán bên này ăn. Được một thời gian, người bán hàng thấy Thần Tài chẳng làm gì mà suốt ngày được ăn uống ngon, lại toàn dùng tay ăn bốc, người thì bốc mùi. Nghĩ Thần Tài sẽ làm khách sợ không dám đến ăn và hao phí đồ ăn cho người ăn mày nên người bán hàng mới đuổi Thần Tài đi. Quán đối diện ngày xưa rất đông khách, nay vắng tanh, thấy vậy liền mời Thần Tài vào ăn, kỳ lạ thay mọi người lại kéo hết sang quán này ăn. Mọi người thấy vậy nên ai cũng giành mời cho bằng được Thần Tài đến ăn hàng quán của mình. Người dân khu vực đó thấy Thần Tài không có quần áo mặc nên dẫn đi mua, mọi người đưa Thần Tài đến cửa hàng nơi quần áo của ông bị bán, sau khi mặc quần áo mũ nón vào thì Thần Tài nhớ lại mọi chuyện và bay về trời. Mọi người coi Thần Tài như là báu vật và lập bàn thờ, tôn thờ từ đó.

● Ngày vía của Thần Tài

Cũng từ sự tích trên, để tưởng nhớ Thần Tài, người dân đã chọn ngày vía của Thần Tài là ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch. Ngày này tất cả mọi nhà, công ty, cửa hàng … có thờ Thần Tài thì đều sắm lễ vật để cúng lấy vía Thần Tài, cầu xin một năm mới làm ăn được thịnh vượng về tài lộc.

Ngày vía của Thần Tài mọi người thường mua: một bình bông, một con tôm, một con cá lóc nướng, một con cua, một miếng heo quay, một bộ giấy tiền vàng mã, một đĩa ngũ quả, chum rượu, để cúng lấy vía Thần Tài, cầu xin cho năm mới làm ăn phát đạt.

● Bài trí bàn thờ hai vị Thần

Bàn thờ Thần tài không được đặt ở trên cao như bàn thờ gia tiên. Bàn thờ thường dán giấy đỏ, để ở một góc hay một xó nào đó. Có thể có bài vị nhỏ, hai bên bài vị có câu đối:

Thổ năng sinh bạch ngọc (Đất hay sinh ngọc trắng)
Địa khả xuất hoàng kim (Đất khá có vàng ròng)

Trên đỉnh bàn thờ, lắp hai ngọn đèn (được thắp sáng khi thắp hương). Hai bên, phía bên trái (từ ngoài nhìn vào) là ông Thần Tài, phía bên phải là Thần Thổ Địa. Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy. Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ là một bát nhang, bát nhang này khi bốc phải theo một số thủ tục nhất định. Để tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ, người ta dán bát nhang xuống bàn thờ bằng keo, băng dính … Nên đặt lọ hoa bên tay phải, đĩa trái cây bên tay trái. Thường nên cắm hoa hồng, hoa cúc hoặc hoa đồng tiền. Trái cây nên sắp đủ ngũ quả (5 loại trái cây). Ngày thường, lễ cúng đơn giản, chỉ có trầu nước và trái cây. Còn trong các dịp giỗ, Tết, các ngày Sóc Vọng, người ta thường bày lễ mặn.

● Nơi cúng lễ

Nhiều người lễ ở nhà riêng thường đặt mâm cúng trước cửa, hay ngoài sân, ban công. Thực tế, cúng ngoài sân hay ngoài cửa dễ có “vãng vong”, dân gian gọi là vong lang thang vào phá. Tốt nhất ở nhà riêng nên đặt mâm cúng trong nhà.

● Một số lưu ý khi chuẩn bị đồ Lễ

- Hương: có nơi cho rằng thắp vào sáng, có nơi cho rằng cần thắp vào chiều tối, thực ra là không cần thiết và không có quy định cụ thể. Có thể chọn giờ tốt cho cúng lễ trong ngày hoặc chọn ngày giờ tốt có sao tốt đến để kích hoạt trường khí dễ hơn.

- Nước: chén để nước cần rửa sạch trước khi lấy nước mới. Chỉ cần một chén nước là đủ, chứ không phải ba hay năm chén. Nước không để quá đầy, cần cách miệng chén khoảng 1cm. Cẩn thận không để nước tràn ra hoặc đổ lên bàn.

- Hoa: bình hoa có thể bằng thủy tinh, gốm sứ ... đều được. Chỉ nên chọn hoa tươi, hoa có nụ và có hương thơm càng tốt. Không nên dùng hoa giả.

- Quả: quả nên chọn loại tươi, ngon, nhìn nguyên vẹn, thường dùng táo, lê, chuối, cam, quýt ... Cũng như hoa, không dùng quả nhựa, quả nhân tạo không ăn được.

- Đèn, nến: đèn cúng là đèn thật như đèn dầu, nến. Không dùng đèn nhấp nháy, đèn điện ... vì đều tạo ra trường khí xấu, ảnh hưởng đến việc thờ cúng.

● Bài văn khấn trong ngày cúng vía Thần Tài (tham khảo)

- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.
- Con kính lạy Thần Tài vị tiền.
- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ Địa cai quản trong xứ này.
Tín chủ con là … Tuổi … Ngụ tại ... Hôm nay là ngày … tháng … năm … (âm lịch). Tín chủ con thành tâm sửa biện, hương hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các thứ cúng dâng, bày ra trước án kính mời ngài Thần Tài tiền vị và chư vị tôn Thân. Cúi xin Thần Tài thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật phù trì tín chủ chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm. Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.

The second victim

- Thich Nhat Hanh



Someone who is angry is someone who doesn't know how to handle their suffering. They are the first victim of their suffering, and you are actually the second victim. Once we can see this, compassion is born in our heart and anger evaporates. We don't want to punish them any more, but instead we want to say something or do something to help them suffer less.

Một người nào đó tức giận là một người không biết làm thế nào để xử lý sự đau khổ của họ. Họ là những nạn nhân đầu tiên của sự đau khổ của họ, và bạn thực sự là nạn nhân thứ hai. Một khi chúng ta có thể thấy điều này, lòng từ bi được sinh ra trong trái tim của chúng ta và giận dữ bốc hơi. Chúng ta không muốn trừng phạt họ nữa, mà thay vào đó, chúng ta muốn nói một cái gì đó hoặc làm điều gì đó để giúp họ vơi bớt khổ đau.
– Google Translate dịch –


Lòng đầy - Giếng vơi

‵ Nguồn: Báo An Ninh Thủ Đô
‵ Lan Tử, Theo Archivesstories



Một vị thiền sư đi ngao du thiên hạ, khi đến một vùng núi nọ thì bị ốm nặng. Ông được một bà goá là chủ quán trà, cứu và đưa về nhà chăm sóc. Mặc dù không biết tung tích vị thiền sư, quán nghèo thưa thớt khách, không có tiền nhưng người phụ nữ vẫn tận tình chăm sóc và cứu chữa cho ông. Hơn ba tháng ròng vị thiền sư mới bình phục. Cảm động ân tình của bà chủ quán, vị thiền sư trước khi rời đi, dành một tuần liền để đào một cái giếng cạnh quán cho bà goá tiện dùng nước, không phải ra tận suối gánh nữa.

Không ngờ, từ khi dùng nước giếng mà vị thiền sư đã đào để pha trà bán, trà của bà goá có mùi thơm thật đặc biệt và vị của trà cũng rất ngon. Ai uống một lần cũng phải quay lại. Tiếng lành đồn xa, quán trà của bà goá khách đến đông nườm nượp. Người đàn bà goá trở nên giàu có từ đó.

Ít lâu sau, vị thiền sư có dịp ghé qua quán để thăm lại ân nhân của mình, thấy cơ ngơi khang trang, vị thiền sư rất mừng cho bà goá. Khi hỏi về giếng nước, bà goá than phiền với thiền sư:

- Giếng nước này tốt lắm, có điều nước cạn liên tục, vài ngày mới lại đầy nên tôi chẳng bao giờ đủ để bán cho khách.

Vị thiền sư nghe xong lắc đầu, nói:

- Không tốn kém gì cả, từ nguồn nước trời cho rồi kiếm ra nhiều tiền mà bà vẫn không thấy hài lòng ư ?

Ông viết lên tường một câu: “Trời đất bao la nhưng lòng tham của con người còn mênh mông hơn thế !” rồi lẳng lặng quay đi, không bao giờ quay trở lại quán nữa. Giếng nước từ ấy cũng cạn dần.

Chúng ta phần lớn giống như bà goá kia, không bao giờ hài lòng với cái mình có mà thường đứng núi này trông núi nọ. Chúng ta thường hay so sánh, hay mong ước viển vông mà quên vui hưởng hiện tại của mình. Hãy nhìn lại để thấy mình đã được may mắn hơn bao nhiêu người chẳng có gì, để biết vui sống, để bớt “lòng tham”, để không phải hối hận về sau.

Danh ngôn (26)

- Khổng Tử



Người làm điều tốt (điều lành, điều thiện) thì trời sẽ trả lại điều phước cho. Người làm điều không lành thì trời sẽ trả lại tai họa cho.

Đừng hưởng hết phước báu

- Trích từ tập sách: “Những chuyện về Luân hồi - Nhân quả - Nghiệp báo”


- Bạn đang nghèo ư …? Bạn đang kém phước. Bạn muốn thay đổi số phận …?
- Bạn đang giàu có ...? Bạn có nhiều phước báu. Bạn có giàu có suốt đời ...?


Có một lời khuyên: “Bạn đừng hưởng hết phước báu, bạn hãy tích phước và kiệm phước !”

Tôi có quen một “thầy bói” rất nổi tiếng. Thầy nói với tôi, trong mấy chục năm xem số cho người, phàm những ai giàu sớm thì thường chết sớm hoặc cuối đời không đâu vào đâu cả. Khi đó tôi không hiểu vì sao, hỏi thầy, thầy cười bảo: “Trẻ nó sướng, cái gì trên đời nó cũng hưởng hết rồi mà không tạo ra được phước mới, còn gì nữa mà không chết sớm hay khổ cực cuối đời.”

Sau này tôi mới nghiệm ra, quả vậy, đàn ông có tiền thì thường sa đọa, nhất là những người trẻ. Vì có tiền trong tay khi còn trẻ, đàn ông thường tìm đến nghiện ngập, rượu và gái. Tuyệt đối không nằm ngoài hai thứ này, chúng nó luôn đi cùng với nhau, gái rượu-rượu gái, một đôi bạn thân. Rượu và gái không chỉ cướp đi sức khỏe mà nó còn cướp đi cả hạnh phúc gia đình và sự nghiệp đang thăng tiến. Thử nhìn lại xem bao nhiêu quan chức trong và ngoài nước bị bắt, bị thất thế, bị khống chế đều “vì gái quên thân”. Bao nhiêu gia đình hạnh phúc cũng tan nát đều “vì dâm phục vụ”.
Trong phạm trù nhà Phật mà nói, đó gọi là tự đánh mất phước báu của mình.

“Đại phú do trời, tiểu phú do cần”, có người sinh ra trong nhung lụa, có người mở mắt đã là ăn xin, khi sinh ra con người chẳng thể chọn được. Đó là phước báu. Phước báu có tuần hoàn, có tăng trưởng và có tiêu diệt. Vậy làm thế nào để phước báu được tăng trưởng ?

Bill Gates biết làm từ thiện ngay khi kiếm được những đồng đô-la đầu tiên từ phần mềm. Khi tài sản chưa là gì so với giới tỷ phú Mỹ, Bill đã nổi tiếng với việc làm từ thiện chuyên cần, không dùng đồ xa xỉ và tiệc tùng nhậu nhẹt. Đến nay tài sản của Bill tăng dần từ vài tỷ lên đến hơn cả 100 tỷ USD, không một ai vượt qua được Bill trong suốt vài thập kỷ qua. Và ông vẫn tiếp tục làm từ thiện đều đều.

Còn ai có phước báu lớn hơn những ông hoàng, bà chúa thời phong kiến khi xưa. Nhưng tại sao hầu hết các triều đại phong kiến đều kết thúc với những cái chết nhục nhã, lẩn trốn và kiệt quệ. Bởi vì hầu hết các triều đại vua chúa, cuối cùng đều đắm chìm trong rượu và gái. Có thể còn đó những nguyên nhân khác nữa nhưng tựu chung lại nói rằng khi đó phước báu đã hưởng hết rồi ! Ngay như cá nhân tôi cũng từng chứng kiến nhiều gia đình bè bạn là đại gia, thậm chí từng là nguyên thủ quốc gia, cũng không có ăn chơi sa đọa nhưng đến cuối đời cũng rơi vào cảnh túng quẫn bần hàn. Bởi vì phước báu họ đã hưởng hết mà không biết cách chăm sóc, vun trồng tạo ra phước báu mới ... Trong cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua biết bao đại gia đã thành kẻ không nhà, đời người chỉ trong một chớp mắt, tất cả đã thành bình địa.

Khi xưa Phật dạy con người để giữ được phước báu, tài sản ta kiếm được thì hãy chia thành bốn phần:

- Một phần để sử dụng hàng ngày, sinh hoạt, kinh doanh.
- Một phần để dự trữ phòng khi bất trắc.
- Một phần để giúp đỡ bà con quyến thuộc, người nhà.
- Và một phần để làm từ thiện, công đức.

Như vậy có tới hai phần là để làm từ thiện, để cho đi. Không biết tay Bill Gates có phải là Phật tử không mà lại làm đúng như vậy. Điều ngược đời là muốn giữ được phước báu thì lại phải cho đi thật nhiều, chứ không giống như quan điểm của đại đa số người đời là anh muốn ôm cả đất, anh muốn ôm cả trời. Tôi có mấy người bạn họ luôn luôn sẵn sàng làm từ thiện mọi lúc mọi nơi. Nhưng dù rằng còn rất khó khăn trong kinh tế nhưng luôn tự nhủ mỗi năm phải làm từ thiện ít nhất là 50 triệu. Tôi tin rằng trong tương lai họ sẽ thành công, họ sẽ là đại gia, ngay bây giờ, họ đã là đại gia trong lòng tôi. Những người này tại sao gương mặt họ luôn bừng sáng, thanh thản và hạnh phúc đến vậy.

Làm người ... sợ nhất là hưởng hết phước báu mà không tạo ra phước mới. Muốn nhận được thì trước tiên bạn hãy học cách cho đi. Mà không cần có tiền và giàu có mới cho đi và bố thí. Ta không có tiền thì bố thí lời nói, trí tuệ, hành động … Chia sẻ cũng là đã bố thí pháp cho mọi người đấy, công đức và phước báu cũng không nhỏ, mọi người nhé !

Xuân viễn xứ

- Thích Tánh Tuệ



Ta lỗi hẹn rồi với Huế xưa
Với chiều phai nắng, với cơn mưa
Với đường hoa sứ hương thoang thoảng
Có lẽ ... hồn quê vẫn đợi chờ

Ta lỗi hẹn rồi ơi Cố Đô
Xuân đi, xuân đến đã bao mùa
Mây về đỉnh Ngự hay xa vắng
Cho nhắn một lời thăm xứ thơ

Ta lỗi hẹn về thăm cố hương
Mùa Đông ngoài nớ vẫn mù sương
Tiếng hò trên bến còn vang vọng
Lay cõi lòng ai gợn sóng buồn

Mấy mùa viễn xứ xuân hoài niệm
Bảo Quốc, Thiên Minh ... những mái chùa
Trầm bổng lời kinh hương khói quyện
Cố quận ... bây chừ trong giấc mơ

Ta lỡ hẹn về thăm bến sông
Một dòng nắng đục với mưa trong
Thần Kinh nhịp sống trôi trầm lặng
Răng khiến người xa xứ nặng lòng

Người ta bảo Huế “đi mà nhớ”
Nào phải là nơi “ở để thương”
Chắc quê hương đó còn duyên nợ
Mấy độ ly hương ... lặng nhớ nguồn

Xuân lỗi hẹn về thăm chốn xưa
Biết ta còn hẹn đến bao giờ ?
Trăng tàn nguyệt tận còn đây Huế
Một mảnh tình quê ... chẳng bến bờ

M A I

- Quách Tấn



MAI - là một đề tài rất thông dụng. Mai kết bạn cùng Tùng, Trúc … luôn làm đại biểu cho giới nam nhi. Liễu luôn đại biểu cho giới phụ nữ. Còn Mai, khi thì đàn ông, khi thì đàn bà. Như thế có phải Mai là Đức Quán Thế m Bồ Tát của loài thực vật có sắc, có hương ?

Phi thị, thị phi cần chi phải biện bạch. Xem thơ mà tìm được cái thú do nhận thức, do tưởng tượng, do suy tư … đó là đạt được mục đích. Bởi đối với chúng ta, xem thơ, nói chuyện thơ, không có mục đích nào khác hơn là hưởng thú, hưởng thú để di dưỡng tính tình, để tăng tiến trên đường học vấn.

Nhưng không nên lý luận suông mà sanh chán.

Xuân Giáp Dần (1974), nhân khóm MAI trong vườn, trong Tháng Giêng, Tháng Hai nở lác đác, sang Tháng Ba mới nở vun cành, tôi cao hứng ngâm được một luật:

Giếng ngọt Giang Nam một khóm già
Xuân ngoài sáu chục nhánh trĩu hoa
Tình Xuân còn đợi duyên công chúa
Hương muộn càng say giấc Tố Nga
Mộng ngấm sương khuya hồn đọng ngọc
Vần gieo gió sớm bút trao già
Hỡi người thức trắng đêm thương nhớ
Tiếng địch thành cao vọng bến xa

Tứ tuy không thoát khỏi phạm vi ảnh hưởng của cổ nhân, nhưng tình cảm chân thiết, nên chép ra lòng không mấy ngại ngùng. Gần đây, nhân thấy một người hàng xóm vất nhánh MAI hết thời nơi xó nhà bếp, tôi cảm tác được bốn vần:

Trước Tết - MAI là hoa
Sau tết - MAI là củi
Trước bao nhiêu nâng niu
Sau bấy nhiêu hất hủi

Nâng niu MAI chẳng mừng
Hất hủi MAI không tủi
Nghìn trước ngẫm nghìn sau
Khe trong lồng bóng núi

Nhìn qua thì an nhiên tự tại, nhưng chíp chắp vẫn thấy chua chát ngậm làm ngon, làm ngon để giữ lòng được an nhiên tự tại. Thi nhân dùng MAI để tượng trưng cho niềm tiết tháo, cho lòng tinh khiết của mình. Chúng ta đã thấy rõ những điểm ấy trong bài thơ MAI chúng ta đã được đọc.

Tâm Xuân

- Thích Tánh Tuệ



Người qua một giấc Đông miên
Trở mình tỉnh thức ... ngoài hiên Xuân về
Gió Xuân lay nhánh Bồ-đề
Chắp tay sen, chợt bốn bề ngát hương

Xuân về xin gửi tình thương
Chan hòa tựa ánh triêu dương rạng ngời
Xuân thiêng liêng giữa đất trời
Ước nguyền đây đó muôn người lạc an

Chuông chùa huyền diệu ngân vang
Lay cành Mai dậy nở vàng trước hiên
Chúa Xuân trong cõi Trạm Nhiên
Khoan thai nhẹ bước ... bình yên vào đời

Thắp mùa xuân giữa môi cười
Thắp Tâm Xuân để lòng người mãi Xuân

Xuân bên Đại Tháp nguyện cầu

- Thích Tánh Tuệ



Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức
Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn
Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc
Mừng Xuân về rộn rã tiếng yêu thương

Trời se lạnh xoa bàn tay thật ấm
Niệm Từ Tâm con đốt nén trầm thơm
Bên Đại Tháp dâng lên lời khấn nguyện
Xin hương lòng theo gió quyện muôn phương

Xuân đã đến nguyện cầu cho thế giới
Một mùa xuân an lạc với thanh bình
Niềm hạnh phúc theo nhau về trên lối
Người thương người, tươi đẹp kiếp nhân sinh

Xuân đã đến nguyện cầu cho Đạo Pháp
Mãi rạng ngời, bất diệt giữa trần gian
Đạo kiên cố như Bồ-đề Đại Tháp
Mặc phong ba, biến đổi ... cõi nhân hoàn

Mùa xuân đến rồi Xuân qua thầm lặng
Nguyện muôn loài, nhân thế mãi lòng Xuân
Xin còn có quả tim này dâng tặng
Cho đời kia mà chẳng chút bâng khuâng

Ngày Xuân mới, gióng hồi chuông thức tỉnh
Kinh Từ-bi xin hát tặng muôn người
Trên Pháp tọa Thế Tôn vừa xuất định
Ồ! Hào quang bừng chiếu, rạng muôn nơi ...

CUNG CHÚC TÂN NIÊN

- Thích Tuệ Minh



Giữa ngàn hoa thắm, đón xuân vui
Giáp Ngọ qua đi, gọi Ất Mùi
Vạn niềm mơ ước, đời rộng bước
Phúc thiện vun bồi, bách tấn niên

Đêm giao thừa nghe một khúc dân ca

- Võ Đông Điền



Đêm giao thừa nghe một khúc dân ca
Bài dân ca tha thiết đậm đà
Người xa quê nghe bài dân ca
Câu dân ca ấm lòng người đi xa
Nghe nôn nao như chiều ba mươi Tết
Bếp than hồng Mẹ nấu bánh chưng xanh

Lời dân ca như phù sa con sông
Thương quê hương, thương vườn cau luống rau
Câu dân ca giao thừa nơi xa xứ
Có mùa xuân đến tự quê nhà

Hát nữa đi em bài hát dân ca
Câu dân ca mang tình xuân bao la
Câu dân ca cho mùa xuân nở hoa
Cho xuân về từ khúc hát dân ca
Ai mang xuân từ thư hồng hoa thắm
Em mang xuân từ một lời ca

Đêm giao thừa nghe một khúc dân ca
Bài dân ca tha thiết đậm đà
Từ tha hương nghe bài dân ca
Câu dân ca ấm lòng người đi xa
Em mơ sao một ngày xuân năm ấy
Có anh về cùng hát khúc dân ca

Lời dân ca như dòng sông quê ta
Như hương cau, hương dừa đang trổ hoa
Như đêm trăng bên đường em tát nước
Chiếc gàu con múc cả trăng vàng

Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán

- Hoàng Thị Tố Nga

Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của Việt Nam, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Tết Nguyên Đán Việt Nam có ý nhĩa nhân văn vô cùng sâu sắc, thể hiện sự trường tồn cuộc sống, khao khát của con người về sự hài hòa Thiên - Địa - Nhân.

Tết Nguyên Đán là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong tinh thần văn hóa nông nghiệp, với gia tộc và xóm làng trong tính cộng đồng dân tộc, với niềm tin thiêng liêng, cao cả trong đời sống tâm linh.




1. Tết Nguyên Đán

Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ đơn giản: Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Nguyên nghĩa của chữ “Tết” chính là “Tiết”. Hai chữ “Nguyên Đán” có gốc chữ Hán - “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán” (Tết Nguyên Đán được người Trung Quốc ngày nay gọi là Xuân tiết, Tân niên hoặc Nông lịch tân niên).

Do cách tính của Âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên Đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác. Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch, mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

2. Nguồn gốc Tết Nguyên Đán

Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng Giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng Chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng Mười Một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.

Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 tCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng Mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 tCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng Giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.

Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có thêm lợn, ngày thứ tư sinh dê, ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa, ngày thứ bảy sinh loài người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng một cho đến hết ngày mồng bảy.

3. Ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán Việt Nam

Tết Nguyên Đán biểu hiện sự giao cảm giữa trời đất và con người với thần linh

Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết - do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông - có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính.

Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời ... người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.

Tết Nguyên Đán là ngày đoàn viên của mọi gia đình

Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong ba ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà ... được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu dấu. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.

Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình cảm gia đình, tình cảm thầy trò, bệnh nhân với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri ...

Tết cũng là ngày đoàn tụ với cả những người đã mất. Từ bữa cơm tối đêm 30, trước giao thừa, các gia đình đã thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên và những người thân đã qua đời về ăn cơm, vui Tết với con cháu (cúng gia tiên). Trong mỗi gia đình Việt Nam, bàn thờ gia tiên có một vị trí rất quan trọng. Bàn thờ gia tiên ngày Tết là sự thể hiện lòng tưởng nhớ, kính trọng của người Việt đối với tổ tiên, người thân đã khuất với những mâm ngũ quả được lựa chọn kỹ lưỡng, mâm cỗ với nhiều món ngon hay những món ăn quen thuộc của người đã mất.

Từ đây cho đến hết Tết, khói hương trên bàn thờ gia tiên quyện với không khí thiêng liêng của sự giao hòa vũ trụ làm cho con người trở nên gắn bó với gia đình của mình hơn bao giờ hết. Để sau Tết Nguyên Đán, cuộc sống lại bắt đầu một chu trình mới của một năm. Mọi người trở về với công việc thường nhật của mình, mang theo những tình cảm gia đình đầm ấm có được trong những ngày Tết để hướng đến những niềm vui trong cuộc sống và những thành công mới trong tương lai.

Tết Nguyên Đán là ngày “làm mới”

Tết là ngày đầu tiên trong năm mới, mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và “làm mới” mọi việc. Việc làm mới có thể được bắt đầu về hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa trang trí lại nhà cửa. Sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh bóng. Bàn ghế tủ giường được lau chùi sạch sẽ.

Người lớn cũng như trẻ con đều tắm rửa và mặc quần áo mới. Đây cũng là dịp mọi người làm mới lại về phần tình cảm và tinh thần để mối liên hệ với người thân được gắn bó hơn, tinh thần thoải mái, tươi vui hơn ... Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới. Với mỗi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối quan hệ được tốt đẹp.

Người Việt Nam tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm báo hiệu một năm mới tốt đẹp sẽ tới. Năm cũ đi qua mang theo những điều không may mắn và năm mới bắt đầu mang đến cho mọi người niềm tin lạc quan vào cuộc sống. Nếu năm cũ khá may mắn, thì sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau.Với ý nghĩa này, Tết còn là ngày của lạc quan và hy vọng.

Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi. Vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Người lớn có tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ và các cụ già để chúc các cháu hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn học giỏi, còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ để con cháu được báo hiếu và hưởng ân phúc.

Tết Nguyên Đán là ngày tạ ơn

Người Việt chọn ngày Tết làm cơ hội để tạ ơn. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, lãnh đạo cũng cảm ơn nhân viên qua những buổi tiệc chiêu đãi hoặc quà thưởng để ăn Tết ...

4. Những biến đổi do tác động tiếp xúc văn hoá Đông-Tây trong Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Với một hệ thống lễ nghi vô cùng phong phú và giàu ý nghĩa nhân văn sâu sắc, tết Nguyên Đán đã trở thành ý thức hệ dân tộc, thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tết Nguyên Đán là một phong tục đẹp mà nhân dân ta còn duy trì tới ngày nay. Thế nhưng trong thời kỳ toàn cầu hoá như hiện nay, cách ăn Tết của người Việt Nam phần nào đã thay đổi. Một số tập tục trong ngày Tết xưa không còn phù hợp với xã hội hiện đại đã dần bị loại bỏ. Ngày nay người dân ăn Tết đã có phần đổi khác hơn so với trước kia, dường như dân ta ăn Tết “Tây hoá” dần đi, sự thay đổi đó phần nào được thể hiện qua cách đón tết và trong việc sắm Tết. Đời sống kinh tế được nâng cao đi kèm với những giá trị hưởng thụ về văn hoá tinh thần và vật chất, nhu cầu ăn ngon mặc đẹp là tự nhiên và có thể đáp ứng ngay khi cần chứ không phải đợi đến Tết như ngày xưa. Hơn nữa, ngày nay trong một năm có rất nhiều ngày lễ khác đang chi phối tầm quan trọng của ngày Tết cổ truyền. Vì vậy, dường như Tết bây giờ có phần nhạt hơn so với Tết xưa.

Trong đời sống hiện đại, việc sắm Tết cũng “hiện đại” theo và sự ảnh hưởng văn hóa phương Tây rất rõ nét. Giờ đây người dân ít hào hứng với việc mua thực phẩm về tự chế biến mà đặt mua đồ đã chế biến sẵn cho tiện. Mâm cỗ ngày Tết giờ cũng phong phú hơn và đa dạng hơn. Bên cạnh những món ăn truyền thống của người Việt như bánh chưng xanh, giò, các món rau, món xào thì còn có những món ăn được du nhập từ Phương Tây.

Trải qua bao biến thiên của thời đại, đến nay, quan niệm về Tết đã có nhiều thay đổi cả về mặt khái niệm lẫn hành vi. Bây giờ người ta quan niệm là “nghỉ Tết”, “chơi Tết” chứ không còn là “ăn Tết”. Khi cái ăn cái mặc không còn là vấn đề quan trọng trong ngày Tết thì người ta hướng đến tinh thần nhiều hơn. Tết hiện đại mọi người thích nghỉ ngơi thoải mái, đi chơi nhiều hơn, nhân dịp Tết nhiều gia đình đã lên lịch trình cho một chuyến du lịch với người thân trong nhà hoặc cùng bạn bè, đồng nghiệp.

Quà Tết bây giờ cũng khác. Trước đây, mọi người có thể chúc Tết nhau bằng cặp bánh, cân giò, với tấm lòng trân trọng mến thương. Bây giờ người ta có thể tặng nhau những món quà có giá trị cao nhưng tình cảm trong đó hầu như không có mà xen vào đó là lợi ích cá nhân, lợi ích kinh tế. Quả thật, quá trình tiếp xúc văn hoá Đông – Tây đã làm cho Tết thay đổi, những đồ ăn nhanh, làm sẵn đã làm mất đi không khí chuẩn bị vui tươi của ngày tết. Trẻ con không còn ngồi xem bố mẹ, ông bà gói bánh chưng và mong chờ còn ít gạo vét để gói chiếc bánh ống với nhiều đậu và một miếng thịt to, không còn vui thú khi vùi củ khoai nướng trong lúc trông nồi bánh chưng, các cô thiếu nữ đã dần quên thói quen đi ngắm hoa đào, hoa mai trên phố chợ. Những điều thay đổi đó khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng “bao giờ cho đến Tết xưa”.

Tuy nhiên, tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã làm cho ngày Tết của người Việt có nhiều thứ mới lạ hơn, thực phẩm vừa ngon vừa phong phú đa dạng, những đồ ăn sẵn thật là thuận tiện, mâm cỗ cúng gia tiên có thêm chai rượu vang thì thật là sang trọng. Ngày Tết được đi du lịch với cả gia đình, bạn bè, đồng nghiệp khiến mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, gạt bỏ được những căng thẳng trong một năm làm việc vất vả, tìm được sự bình yên, thư thái trong tâm hồn.

Chúng ta không thể phủ nhận mặt tích cực của hội nhập văn hoá đem lại. Nếu chúng ta “khép” cửa “ăn Tết” với nhau thì Tết Việt đương nhiên chỉ là một sản phẩm của văn hoá thuần túy đơn lẻ, nó sẽ không thể trở thành sản phẩm văn hoá đặc trưng của quốc gia trong mối quan tâm của bạn bè quốc tế. Sự mở cửa giao lưu, tiếp xúc lại chính là những phương thức tốt nhất giúp chúng ta giới thiệu đến bạn bè quốc tế về Tết cổ truyền của người Việt Nam. Vấn đề ở đây là chúng ta phải làm chủ được quá trình tiếp xúc với văn hóa phương Tây để tết cổ truyền của người Việt vẫn giữ được bản sắc riêng của mình mà không bị “Tây hoá”.

Có thể nói, Tết Nguyên Đán vẫn là một sinh hoạt văn hoá vừa lưu giữ những giá trị truyền thống vừa thích nghi với nhịp sống hiện đại. Trong ngày Tết vẫn còn nhiều phong tục tốt đẹp và đậm tính nhân văn mà chúng ta cần giữ gìn và phát huy để Tết Nguyên Đán mãi là nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Việt Nam.

Bài thơ BÊN CỬA SỔ

- Bùi Sỹ Nguyên



Đếm những điều ra đi
Bằng tháng năm khờ dại
Đếm những điều còn lại
Bằng mỗi sớm mai hồng


Và rồi em biết không
Cuộc đời bao ngả rẽ
Mỗi khi khô giọt lệ
Hãy khóc bằng tâm hồn

Hãy tách đôi vỏ buồn
Tìm chồi nhân hy vọng
Giữa ánh dương vừa mọc
Bàn tay gieo nhẹ nhàng

Nếu ước mơ úa vàng
Em hãy tô lại đỏ
Nếu con đường nhiều gió
Hãy bước đều đôi chân

Nếu em nhớ mùa xuân
Khi hạ vừa tắt nắng
Hãy giữ hồn tĩnh lặng
Rồi cỏ non sẽ về

Một cuộc tình mải mê
Chỉ làm tim xơ xác
Một kẻ đi phiêu bạc
Chỉ xanh thêm đợi chờ

Hãy viết nốt bài thơ
Rồi để bên cửa sổ
Mặc chiều hôm và gió
Cuốn muộn phiền ra đi

Đếm những điều ra đi
Bằng tháng năm khờ dại
Đếm những điều còn lại
Bằng mỗi sớm mai hồng


Xuân về trong cõi mộng

- Thích Tánh Tuệ



Xuân đi Xuân đến đã bao lần
Mang lại vui buồn bao thế nhân
Hoa Xuân nở rộ chờ rơi rụng
Đây người tống cựu, đó nghinh tân

Ai người thấy được ánh hào quang
Ẩn lớp sương mù của thế gian
Giao thừa pháo nổ hay tim vỡ
Tỉnh giấc Đông miên quá ngỡ ngàng

Vui Xuân chưa thỏa bỗng Xuân tàn
Dòng đời như nước cuộn mênh mang
Hoa cười chưa thắm, hoa tàn tạ
Chưa kịp mừng Xuân … dạ ngổn ngang

Xuân về thay áo vạn vật tươi
Riêng Xuân không mới được con người
Đưa tay níu lại mùa Xuân trước
Để ngắm xưa hồng những nét môi

Mỗi độ Xuân sang mỗi độ già
Bước lần đến mộ cõi đời xa
Củi khô tứ đại thêm tàn hoại
Rước lửa vô thường đốt chẳng tha

Xuân trong cõi thế, Xuân hằng mộng
Thôi hãy về … cho dạ bớt sầu
Xuân-Tâm, ấy mới xuân lồng lộng
Tươi cánh mai ... hoài chốn biển dâu

Kho báu trong tim

- Lê Đức Tân

“... Mở cửa trái tim là một việc không có gì khó nhưng cũng không phải là dễ. Không khó bởi nó không cần tài năng hay vốn liếng gì. Nhưng không dễ bởi cánh cửa này luôn có thể sập vào bất kỳ lúc nào.”

Alibaba chỉ cần đọc câu thần chú: “Vừng ơi, mở cửa ra !”, thế là cánh cửa vào kho báu chứa bao nhiêu vàng bạc, của cải mở ra.

Tôi cũng biết một câu thần chú có thể mở ra một kho báu vô tận: “Tim ơi, mở cửa ra !”, nhưng đó không phải là trái tim của ai khác mà chính là trái tim mình.

Trong nhiều năm tôi đã cố hết sức để tìm được câu thần chú mở cửa trái tim người khác, không chỉ trong tình yêu nam nữ mà còn là trong nỗ lực tìm kiếm sự đón nhận, yêu thương, coi trọng, tôn trọng của mọi người, của xã hội. Tôi không hề nghĩ rằng kho báu có thể lại nằm ngay trong tim mình.

- Tôi đã không thấy rằng bất cứ khi nào trái tim tôi mở ra thì bực bội, giận dữ, khó chịu, ghen ghét, hận thù, tham lam, sợ hãi, lo lắng, cô đơn, buồn phiền và các dạng thức đau khổ khác cũng theo đó mà đi ra.

- Tôi đã không nhận ra rằng bất kỳ khi nào tôi thấy trong lòng mình có yêu thương, có mong muốn cho tất cả đều được hạnh phúc thì khi đó tôi cũng thấy trong lòng mình không có đau khổ.

- Tôi đã không thấy rằng mở cửa trái tim mình là con đường để thoát khỏi đau khổ.

Bực bội, giận dữ, khó chịu, ghen ghét, hận thù, tham lam, sợ hãi, lo lắng, cô đơn, buồn phiền … giống như những bóng ma chỉ có thể tồn tại trong bóng tối của một trái tim đóng cửa. Những bóng ma này sẽ tan biến khi cửa được mở ra cho ánh sáng của tình thương tràn vào. Nếu tôi đặt cho mình mục tiêu là tìm cách mở cửa trái tim người khác hay đạt cho được cái này, cái kia, như kiến thức, công việc, xe cộ, nhà cửa, danh vọng ... cùng những giá trị tinh thần khác thì cũng tức là tự tôi phân chia thế giới thành hai cực bạn và thù, thành những người có thể giúp cho mình đạt được mục đích và những người cản trở, gây khó khăn. Như vậy chẳng phải, chính tôi chứ không phải ai khác, đã tự tạo ra kẻ thù cho mình ? Tự tôi đưa mình vào thế đối đầu, đua tranh, giành giật với người khác ? Tôi thấy bực bội khi gặp khó khăn, thất vọng khi mục đích không đạt được, ghen ghét khi người khác thành công, lo lắng khi chưa được việc, cô đơn khi không ai giúp đỡ …

Còn nếu như tôi đặt mục tiêu cho mình là mở cửa trái tim, là nuôi dưỡng yêu thương, nuôi dưỡng cái mong muốn cho tất cả đều được hạnh phúc thì mọi chuyện sẽ hoàn toàn khác. Khi đó kẻ thù sẽ không thể còn tồn tại, không còn người cản đường, tranh giành với tôi. Người ta chỉ có thể nuôi dưỡng yêu thương, chẳng có thể nào lại tranh giành, so bì yêu thương. Ngay cái thời khắc tranh giành, so bì thì trong lòng đã chẳng có yêu thương rồi.

Khi mục tiêu là nuôi dưỡng cái mong muốn cho tất cả đều được hạnh phúc, cho tất cả chứ không phải là chỉ cho người này hay nhóm này, thế thì con đường thật thênh thang, bằng phẳng, ở đâu, ai cũng là điều kiện, là cơ hội cho mình làm cái việc đó.

Tôi chẳng còn phải đối đầu, tranh đua, hơn thua với ai. Tôi chẳng còn cần phải giỏi hơn ai, tốt hơn ai, hạnh phúc hơn ai.

Mở cửa trái tim là một việc không có gì khó nhưng cũng không phải là dễ. Không khó bởi nó không cần tài năng hay vốn liếng gì. Nhưng không dễ bởi cánh cửa này luôn có thể sập vào bất kỳ lúc nào. Khi để ý đến trái tim mình tôi thấy nó có thể mở cửa với người này nhưng lại đóng với người khác, hoặc ngay cả với cùng một người nó cũng lúc đóng, lúc mở. Có khi mới phút trước còn thấy yêu thương, phút sau đã thấy khó chịu, bực bội.

Cánh cửa này rất dễ bị đóng lại bởi vì từ nhỏ tới giờ tôi đã gieo không biết bao nhiêu hạt giống, tạo không biết bao nhiêu điều kiện cho bực bội, giận dữ, khó chịu, ghen ghét, hận thù, tham lam, sợ hãi, lo lắng, cô đơn, buồn phiền và các dạng thức đau khổ khác sinh sôi nảy nở. Rất nhiều hành vi đã trở thành thói quen, thành nghiện. Chúng như những bóng ma giữ chặt cánh cửa trái tim để bóng tối - môi trường sinh sống của chúng - luôn ngự trị. Vì vậy nếu tôi thực sự muốn trái tim mình lúc nào cũng mở thì tôi phải canh chừng từng phút từng giây.

Kho báu của Alibaba thì phải canh chừng vì sợ bị người khác lấy trộm.

Còn kho báu trong tim thì phải canh chừng cho cửa đừng đóng lại.

Càng mở ra thì nó càng đầy thêm.

Tim ơi, mở cửa ra !

Chọn người xông nhà đầu năm

- Thích Tuệ Minh

Theo truyền thống Tết người Việt, thì ngày đầu năm vô cùng quan trọng, không chỉ được xem là sự khởi đầu của năm mới mà còn là xu hướng chủ đạo của cả năm.



Vì quan niệm hằng cố này mà người Việt ta rất cẩn trọng mong mỏi, lựa chọn người đến chúc tết đầu tiên (còn gọi là xông nhà đầu năm) sao cho thuận hạp, tốt lành nhất. Có người thì chọn theo TÊN người đến chúc. Thí dụ đầu năm mà anh LỘC, anh PHÁT, anh TÀI, anh PHƯỚC ... gì đến viếng trước tiên nhất thì người gia chủ vô cùng hoan hỷ, niềm nở đón tiếp và tin rằng năm nay sẽ có nhiều TÀI, LỘC, PHƯỚC, ĐỨC đến với gia đình họ, ngược lại nếu anh nào mà tên TIỆN, BẦN, HÀN, MỰC ... gì mà đến viếng đầu họ sẽ tìm cách tránh né khéo léo, hoặc nếu tránh không được thì bằng như rằng năm ấy họ tin mình gặp xui xẻo, không may mắn.

Vì cái lẽ này cho nên những người nhỡ có cái tên không hay, không đẹp thì ngày đầu năm họ cũng rất kiêng dè, không dám đến sớm kẻo lại bị người ta nghi ngại làm mất vui ngày Tết. Rồi lại có người chọn người xông nhà mình đầu năm theo Tử Vi, tức là theo Tam Hạp, hay Tứ Xung gì đấy. Tam Hạp thì có:

‵ Tỵ - Dậu - Sửu
‵ Thân - Tý - Thìn
‵ Hợi - Mẹo - Mùi
‵ Dần - Ngọ - Tuất

Vậy nếu gia chủ mà tuổi Tỵ thì tìm ai trong số bằng hữu, thân quyến có tuổi trong tam hạp với mình (Dậu, Sửu) để đến xông. Vậy thì dưới góc nhìn của Phật Giáo điều này là hữu ích hay chăng ?

Có HỮU ÍCH, mà cũng là VÔ ÍCH !

Hữu ích khi việc chọn người đến viếng đầu năm là người đức độ, nhân nghĩa, liêm khiết, như vậy thì phần âm phước của người đó là vô cùng lớn lao, sâu dày, khi họ đến viếng nhà ta thì một phần may mắn âm đức đó cũng sẽ được hòa trộn trong khắp cùng hư không giới, và như vậy quả tình thì ta cũng sẽ có một phần thuận duyên trong năm. Bằng ngược lại, nếu kẻ đó là người vô đức, bất nghĩa, gian tham, tạo nhiều nghiệp xấu, thì dù cái tên có mỹ miều ra sao, cái tuổi có thuận hạp với gia chủ thế nào cũng vẫn là người mang đến điềm dữ, không thuận cho mình trong năm mới.

Cho nên cái quan niệm chọn theo TÊN, hay theo TUỔI đều là quan niệm lệch lạc, sai lầm, rất là may rủi, chọn cũng như không chọn mà thôi. Còn nếu mọi người tin vào điều này, cần chọn người mang đến cho mình may mắn, thì hà tất câu nệ chuyện Tên, Tuổi. Chỉ cần đó là người có ĐẠO ĐỨC, SỐNG CHAN HÒA, BÁC ÁI, TẠO NHIỀU THIỆN NGHIỆP,
PHÚC LÀNH, thì đó chính là người ta cần mời đến.

Theo cách nhìn của Thầy thì mọi người có thể chọn các cháu bé thông minh, kháu khỉnh, ngoan hiền đến xông nhà sẽ là cách chọn tốt nhất. Bởi các cháu dưới tuổi căn thì nghiệp hiện kiếp chưa được tính tạo, như tờ giấy trắng. Tức là bằng 0 nếu các cháu không có phúc duyên, còn nếu các cháu có phúc duyên thì sẽ mang đến cho mình một phần may mắn trong năm mới.

KÍNH CHÚC TẤT CẢ MỌI NGƯỜI MỘT NĂM MỚI AN LẠC, TOẠI CHÍ

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Nụ cười “KIÊNG” Tất Niên

- Thơ VUI



I.
Tết đến nhà kia đủ thứ kiêng
Sắm chi cũng sợ gánh ưu phiền
Mua CHUỐI, sợ làm ăn khó “ngóc”
Mua LÊ, sợ mách lẻo xóm giềng
Mua BOM, sợ suốt năm toàn “nổ”
Mua XOÀI, sợ thiếu thốn triền miên
Mua CAM, sợ âm thầm chịu đựng
Mua TÁO, sợ rồi … bón cả niên
Ô hô ! Đã vậy đừng sắm sửa
Trụi lủi trụi lơ, khỏi tốn tiền

II.
Năm nay bàn cúng Tết trống không
Chỉ cần ... dĩa MỨT với bình BÔNG
DƯA thì em sợ ... dây dưa mãi
Bánh TÉT, ôi chà ... rách cả năm !
Xin XĂM chắc phải nên kiêng cữ
Vì ngại năm mới bị ... xâm xoàng
SẦU RIÊNG lại càng không dám rớ
MĂNG CỤT kẹt lối chẳng hanh thông
Cũng cần kiêng cữ trái THANH LONG
Bởi lo vận số sẽ long ... đong
Trái TẮC lại càng nên kiêng đấy
Bế tắc mọi điều xui cả năm
Bánh ÍT không được ăn ngày Tết
Tiền chẳng vào lưng lấy một đồng

Xuân đến Xuân đi, ba ngày Tết
Đỡ lo bánh trái, mừng ra phết
Thôi thì em chưng HOA với QUẢ
CẦU, DỪA, ĐỦ, XOÀI ... hỏi được không ?

Lưu ý khi tiễn Ông Táo về trời

- Thích Tuệ Minh



Hằng năm ngày 23 tháng chạp người ta làm lễ tiễn ông Táo về chầu Ngọc Đế.

Riêng có một lưu ý mà thầy không nhắc kẻo mọi người hay quên, đó là trong suốt thời gian cúng lễ thì bếp nhà ta phải đỏ lửa suốt, khi nào xong thì mới thôi !

Vì ông Táo chủ quản về thức thực và những chuyện trong nhà cho nên khi bếp đỏ lửa thì thần khí mới được khai mở, còn nếu cúng mà không đỏ lửa trong bếp thì không có thần khí, không cảm được cũng không có đi được. Ai xài bếp từ thì dùng giấy hay củi gì đó đốt trong một cái chậu sành, chậu sứ để thay bếp.

Thêm một điều nữa là về văn khấn. Mọi người khấn thế nào là tùy tâm, nhưng cần bao hàm những điều này:

- Thứ nhất: gọi Táo Công là Cửu Ngự Chi Ích Chánh Thần (đó mới là danh xưng thật sự của ông ấy trong các chiếu, hồi Ngọc Đế).

- Việc thứ hai là hóa vàng mã chiếu lệ mà thôi, bởi nó chỉ là cảm tưởng.

- Việc thứ ba là thả cá chép nên thả con lớn, có trứng càng tốt.

- Không nên khấn xá tội gì, bởi ông ấy không xá được tội đâu, chỉ nên khấn phò trợ cho năm nay gia đạo bình an, may mắn, thuận xuôi. Trợ duyên cho thân chủ gieo tạo công đức, tạo nhiều thiện phước cho mình cho đời.

Danh ngôn (25)

- Cảnh Hành Lục



Lấy lòng ngay tình thảo để lại cho con cháu thì thịnh vượng.
Lấy trí trá mưu mô để lại cho con cháu thì suy vong.
Lấy khiêm tốn mà ở đời thì mạnh.
Lấy điều thiện để giữ mình thì tốt lành.

Ở chốn không lời

- Thích Tánh Tuệ



Nghìn thu, Đá ngủ say mèm
Chiều nay thức giấc bỗng thèm nghe Kinh
Xót xa nhỏ lệ thương mình
Thùy miên lũy kiếp vô minh, mịt mù

Đá lên tiếng hỏi nhà Sư
Nặng nề kiếp Đá, răng chừ thoát thai ?
- Hỏi mình, này chớ hỏi ai
Đừng ôm núi ngủ, đừng say giấc đời !

Thiên thu dưới ánh mặt trời
Đầy hồn bóng tối chưa dời một phen
Trong lòng Đá có hoa Sen
Sao hoài xa lạ, chưa quen một lần ?

Trông kìa, mấy cụm nhàn vân
Trôi về phương nớ hồng trần nhẹ tênh
Cuộc đời vốn dĩ mông mênh
Chôn chân từ độ lãng quên, buộc ràng

Đá nghe vỡ mộng, bàng hoàng
Thở dài một điệu mang mang đất trời
Rồi Sư cùng Đá bật cười
Cả hai ở chốn không lời gặp nhau

Phóng sự - Ký sự: TRỞ LẠI CHÙA THƠ

- Nguyễn Đông Nhật



Chữ “chùa” thường dễ khiến người ta liên tưởng đến những … chữ khác như kinh-kệ-chuông-mõ-sư-sãi … Xa hơn, có thể gợi nhớ đến chữ … thơ (vì, tu sĩ và thi sĩ vốn là bằng hữu, trong truyền thống lịch sử Phật giáo). Nhưng đi nhiều nơi trong nước, chùa mà có nhiều thơ được “lên” bia đá, thì có lẽ hiếm nơi có được. Ấy là tại chùa Đây - suối Đó.

Ở phía Nam thành phố Phan Thiết khoảng 60km, cách trung tâm thị xã La Gi khoảng bảy cây số, nằm bên dòng suối Đó, là chùa Đây. Địa danh Suối Đó không biết có tự đời nào nhưng chùa Đây là cái tên do vị tu sĩ Tấn Tuệ gọi, khi sư đến đây vào năm 1990, dựng một cái chòi tạm bợ làm nơi tu học. Chẳng biết “hàm ý” của cái danh xưng đó-đây ấy có phải là một khái niệm trong tư tưởng Phật giáo hay không ?

Chùa nằm ở vùng ngoại vi, xa khu vực đô thị, dọc theo dòng suối, cảnh quan đơn sơ của một chốn … ít tiền, không có gì đặc sắc. Chỉ trong sân chùa, có vài chục tấm bia, trên đó có những dòng thơ, bài thơ. Là của bằng hữu và khách xa cảm khái viết nên, khi ghé thăm chùa.
Cũng không lạ, bởi vì tu sĩ trụ trì vốn là người làm thơ, có thơ in trên nhiều tờ báo Phật giáo và có nhiều kết giao trong giới làm thơ, cả những “tên tuổi” như Bùi Giáng, Ngân Giang nữ sĩ, Tế Hanh, Huy Cận, Nguyễn Bắc Sơn …

Thơ dường như là một mối … hiểm nguy cho người tu, bởi đối với nhà thiền, sự vọng tưởng là trở ngại lớn trong quá trình nỗ lực đoạn tận vô minh-ái thủ. Hơn ai hết, thầy Tấn Tuệ - Đinh Hồi Tưởng hiểu rõ điều ấy. (Cái bút danh Đinh Hồi Tưởng, nói lái là … Đương Hồi Tỉnh, một phần nào cũng đã “minh thị” cho sự trung thực của chính thầy trong quá trình tu tập. Bởi, ai cũng là phàm phu cả, khác chăng là ở chỗ có tự nhận biết chính mình hay không ?)

Sư bày tỏ: “Làm thế nào để biến cái Có thành ra cái Không, đó chẳng phải là sự nói chơi mà là con đường vô cùng gian khó, phải vượt qua vô vàn cản ngại của tâm thức. Không biết có đủ phước đủ duyên không ? Và như thế, thơ vừa không có gì quan trọng nhưng cũng vừa không thể xem nhẹ …”

Trở lại chùa Thơ lần này, thấy nơi đây vẫn là một chốn lan nhã … ít tiền. Ngôi chánh điện nhỏ, diện tích 9x12m khởi công đã ba năm rồi mà vẫn chỉ mới xong phần móng và trụ. Nhưng bốn con rồng đá được đúc-chạm theo phong cách điêu khắccủa bốn triều đại Đinh-Lê-Lý-Trần đang chuẩn bị để gắn trên mấy bậc tam cấp, do một gia đình Phật tử ở Ninh Bình vừa hiến cúng, dường như là biểu trưng cho lòng trân trọng đối với văn hóa dân tộc của vị Thượng tọa trụ trì.

Việc xây dựng ngôi chánh điện nhỏ bé ấy dù chưa xong, nhưng tâm nguyện của thầy là mai-kia-mốt-nọ sẽ xây một cái tháp thơ. Cũng nhỏ thôi, nhưng sẽ là nơi an nghỉ-tưởng nhớ cho những nhà thơ nào có mong muốn được nằm xuống bên dòng suối ấy, trong ngôi chùa này. Cái ý tưởng khá độc đáo nọ, đến nay vẫn đang còn là … một “tưởng ý”, vì chưa gặp được người phát tâm cúng dường.

Bên chén trà buổi sớm, Sư trầm ngâm: “Nhiều khi, nói Phật sự nhưng cũng chỉ là thế sự thôi !” - Nghe vậy, tôi mừng. Vì Sư đã tiến đến chỗ nhận ra được mình và người. Khi kể lại chuyện ấy cho một vị tu sĩ bằng hữu khác, thầy lại cười-bổ-sung: “Nói thế sự, là còn … lịch sự đó. Có khi, không phải Phật sự mà là … ma sự”.

Với tư cách là một Phật tử, tôi lại mừng hơn nữa. Vì mạng mạch vững bền-sâu xa của Phật giáo dân tộc Việt Nam chính là nằm ở chỗ này: Đội ngũ trí thức trong hàng ngũ tăng sĩ và sự chuyển hóa tư tưởng của Đức Phật vào trong những cái bình thường nhất của cuộc sống hằng ngày …

Trên một tấm bia thơ, chợt thấm thía tấm lòng chân thành sâu xa của nhà văn Trần Duy Lý:

Con của Mẹ giờ tóc nhiều sợi bạc
Đã vượt qua bao sóng gió thăng trầm
Mẹ, Mẹ ơi “Con vua cũng thua con Phật”
Câu nói người xưa giờ con thấy thật rồi
Câu nói người xưa giản dị ít lời
Mà mãi đến cuối đời con mới hiểu …


Còn ở một tấm bia khác, là sự miêu tả cái ước mong của chốn lan nhã này:

Như mãi mùa xanh trí nhớ
Bên thời gian lặng Chùa Đây
Như niềm không dưng Suối Đó
Sau bao bờ bãi vô cùng …


Riêng đối với “chủ nhân” Chùa Đây - Suối Đó, thì tất cả chỉ gói lại trong một … câu hát, như cây kim chỉ nam trên con đường:

Gỡ phương trời ấn vào tâm
Bừng soi mặt đất ướp vầng trăng thu
Không bằng hữu. Chẳng kẻ thù
Chùa Đây - Suối Đó nằm ru hát thiền …


Rời chùa Thơ một ngày cuối năm nhẹ. Lấp loáng trên ánh nước dòng suối xuôi về phương Đông, dường như từ những bào ảnh của cuộc phù thế thấp thoáng hiện ra những câu hỏi, không ngừng đặt ra cho con người. Thơ và Đạo, Cảnh và Tâm, Ý và Tình … Những “đối đãi” đó, phải làm ra sao và đến khi nào để trở thành cái sự thực Không-Hai-Khác ? Đó không phải là chuyện mà một kẻ phàm phu như người viết bài này dám lạm bàn.

Nhưng Chùa Thơ thì có thể là nét dịu dàng cho những khách du muốn tìm đến một nơi mộc mạc …

Chưa hề có “T Ô I”

- Thích Tánh Tuệ



Cái “Tôi” là cái chi chi
Mà hoài quanh quẩn chưa khi nào rời
Thuở còn bé dại nằm nôi
Đã cao giọng khóc cho đời biết tên
Điều gì cũng dễ lãng quên
Cái Tôi, sâu đậm nhớ bền chẳng phai

Sớm ra đã ngắm hình hài
Thế gian kia hỏi mấy ai hơn mình
Điểm tô, trau chuốt dáng hình
Thèm thuồng thiên hạ cái nhìn, xuýt xoa
Cái Tôi theo tháng ngày qua
Măng non thành cụm tre già dặn hơn
Trong nhà, cuối xóm, đầu thôn
Tôi là số một, tôi “ngon” hơn người
Tôi khóc, không muốn ai cười
Ai thành đạt thấy tôi thời chẳng vui
Tôi nói ngược, chớ nói xuôi
Một khi tôi muốn có trời mới can
Tôi thành cái rốn không gian
Bên ngoài nảy nở, bất an trong lòng

Truy tìm hai chữ Thành Công
Nên đường Danh-Lợi cõi hồng ngược xuôi
Chiều cao chỉ một mét thôi
Nhưng muốn đời phải ngước đôi mắt nhìn
Muốn nhân tâm hướng về mình
Dành bao thiện cảm, tâm tình cho tôi
Tôi đi, tôi đứng, tôi ngồi
Là trung tâm điểm cho người ước mơ …


- Chiều nay, bỗng thật tình cờ
Vào chùa Sư cụ ngó lơ, Tôi buồn !
Sư rằng: “Vạn sự Vô Thường ...
Thân - Tâm chiếc bóng trên tường, huyễn hư
Con người khổ bởi khư khư
Ôm cái giả ngã, Chân Như đoạn lìa …”

Ôi, thanh âm chốn Bồ Đề
Nghe như tan vỡ u mê nghìn đời
Còn “Tôi”, còn nặng luân hồi
Buông tôi, nghe nhẹ đất trời thênh thang
Từ tôi, trăm mối lo toan
Vắng “Tôi'”, đời sống bình an mọi bề

Lời Sư, trăng rọi lối về
Xưa nay ngủ mộng, chưa hề có TÔI
Ngước hư không, bẽn lẽn cười
Thương “cái tôi” của một thời trẻ con

Lời nguyện cầu mùa xuân

- Lam Khê



Mỗi sáng khi cầm chổi quét sạch những chiếc lá rụng đầy trước sân chùa, tôi thường tự hỏi:

- Người ta nếu không vì mục đích nào đó mà phấn đấu, để tin yêu, thì cuộc đời này ắt sẽ nhàm chán lắm. Cũng như công việc tôi đang làm đây vậy. Mỗi sáng chiều ngoài giờ tụng niệm, tôi chỉ lo quét dọn gom lá đem vào cho nhà trù đun nấu. Những chiếc lá vàng cứ vô tư rơi rụng từ hạ sang đông, chắc cũng thấy mình có ích đôi chút khi được góp phần tu tạo phước điền trong cảnh Già Lam yên tịnh.

Lâu dần tôi cũng quen và cảm thấy thích thú với công việc chấp tác thường ngày. Chẳng là khi mới vô chùa, quý sư cô luôn bảo với tôi rằng:

- “Khi cầm chổi quét sạch rác chính là con đang quét sạch tâm mình. Hằng ngày tâm người ta phải chịu sự tác động của cuộc sống nên bụi trần dễ bám vào. Chỉ có người biết nhìn lại mình qua mỗi công việc, mỗi động tác, thì mới có thể giữ tâm cho thật trong sạch, thanh tịnh …”

Tôi chẳng biết mình có quét sạch hết những bụi bám trong tâm hay không. Nhưng sáng sớm được hít thở bầu không khí trong lành mát dịu, được ngắm nhìn vài cụm mây trắng bay lơ lửng trên không, lòng cảm thấy thật khoan khoái dễ chịu. Cũng lắm khi nhìn lướt qua khuôn viên của mình, tôi lại ngẫm nghĩ đến những chiếc lá vàng tội nghiệp quanh năm chỉ biết rơi rụng theo chiều gió, mà thương cho những phận đời trôi nổi. Những lúc ấy, vừa cầm chổi quét tôi vừa tâm niệm nguyện cầu cho cuộc sống quanh mình luôn được chở che dưới ánh đạo từ bi an lạc.

Suốt tuần lễ nay, trời cuối đông bỗng dưng trở lạnh. Vậy mà khi vừa bước ra sân tôi đã thấy có người đang quỳ lạy trước đài Quan Âm. Cảnh chùa vùng quê yên tĩnh, ban đêm ít khi đóng cổng rào. Trước sân chùa có một ao sen nhỏ, nơi ấy tọa lạc một đài Quan Âm lộ thiên trông rất uy nghi trầm mặc. Mỗi ngày sau khi quét dọn xong, tôi thường đến trước Bồ Tát khấn nguyện. Ngài là vị hóa thân chắc chắn sẽ có mặt khắp nơi để nghe hết những lời nguyện cầu tha thiết của chúng sanh. Chúng sanh có vô biên chướng nghiệp, Bồ Tát cũng nguyện đem vô lượng từ tâm ra cứu độ.

Bồ Tát cứu độ chúng sanh thì đâu còn phân biệt màu da quốc tịch. Vì thế mà lúc này đây ... trước mặt tôi lại xuất hiện một cô gái ngoại quốc. Cô bé có khuôn mặt thơ ngây bầu bỉnh với làn da trắng trẻo, đôi mắt xanh to cùng mái tóc màu vàng hoe được thắt bính gọn gàng. Cô vận áo thun trắng quần tây xanh - kiểu đồ thể thao, chân mang giày bata. Dân quanh vùng sáng sớm đi bộ cũng thường ghé vào chùa lễ lạy cầu nguyện trước đài Quan Âm. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi gặp một người nước ngoài xa lạ đến lễ Phật hết sức thành kính như vậy. Sự thành kính của cô lại biểu lộ một vẻ bi hoài thương cảm. Cô gái hầu như không thấy nghe những gì đang xảy ra quanh mình, ngay cả tiếng chổi quét xào xạc vang trên nền đất sỏi cũng không làm cho con người đang quỳ kia chú ý ngẩng đầu nhìn lên.

Mấy ngày liền tôi vẫn không thể trò chuyện với cô gái lạ, bởi một lẽ ... e ngại ngôn ngữ bất đồng. Hơn nữa, tôi sợ khuấy động sự thành tâm của cô, sợ làm cho đôi mắt xanh ngơ ngác như chú nai tơ phải ngần ngại không thể bày tỏ hết nguyện ước của mình giữa chốn tôn nghiêm. Khi trời sáng hẳn, cô đứng dậy khẽ cúi đầu chào tôi, nói lí nhí vài câu cảm ơn bằng tiếng Việt rồi lặng lẽ ra về. Mọi việc rồi cũng trở lại bình thường khi cô không còn đến chùa mỗi sáng nữa. Tôi lại chú tâm vào công việc của mình. Thỉnh thoảng nghĩ đến cô như một bông hoa lạ bỗng lạc loài vào tận thôn trang vắng lặng mà vẫn giữ được dáng vẻ vững vàng tự tin. Một cô gái đến từ phương xa, khác hẳn về phương ngôn sắc tộc. Nhưng tôi vẫn thấy ở cô toát lên một phong cách của người Á Đông qua sự thành kính lễ lạy, qua ánh nhìn của đôi mắt có chiều sâu thăm thẳm. Sáng nay khi tôi đang chuyên chú vào việc quét sân thì cô gái hôm nọ lại đến. Cô đi cùng một phụ nữ, chắc là người ở vùng này.

- Thưa cô ! Đây là Lisa, cháu gái của tôi từ Pháp về - người đàn bà khẽ chào tôi và nói, nó bảo tôi dẫn đến đây để cám ơn cô trong mấy ngày đến chùa cầu nguyện. Lisa nói tiếng Việt chưa rành lắm. Bà ngoại cháu là người ở đây nên thỉnh thoảng cháu cũng theo mẹ về thăm quê ngoại.

Lisa, cái tên nghe thật hay. Tôi nhìn cô bé, lúc này không còn xét nét ngại ngần, nhưng trong đôi mắt trong xanh ấy cứ dịu vợi những nỗi buồn xa vắng nào đó. Cô nói chuyện với âm giọng trầm buồn lơ lớ, tôi phải cố gắng nghe và suy nghĩ mới đoán hiểu.

- Hôm nay Lisa đến để từ giã cô. Đáng lẽ Lisa và mẹ ở lại ăn Tết cổ truyền với ngoại, nhưng vì lý do đột xuất, phải theo mẹ trở về vào ngày mai.

- Dường như Lisa có điều gì buồn lắm thì phải. Chắc tại cảnh vật ở miền quê này chẳng có gì thú vị ...

- Không, Lisa thích ăn tết với ngoại lắm. Lisa muốn được đến chùa cầu nguyện. Ở đây Lisa cảm thấy yên ổn thoải mái vô cùng. Lisa vẫn buồn vì …

Cô bé nghẹn lời … Đôi mắt buồn ẩn chứa nhiều tâm sự như tôi đã đoán ra ngay từ lúc mới gặp. Rồi người Dì kể lại câu chuyện về cô cháu gái. Bố Lisa làm việc cho một hội từ thiện quốc tế. Ông đi nhiều nơi. Đến các vùng bị thiên tai động đất hoành hành, đến cả những nơi chiến sự đang nóng bỏng để cứu trợ giúp đỡ mọi người. Và trong chuyến đi định mệnh đầu mùa xuân năm ngoái, ông bị bọn khủng bố sát hại cùng nhiều người khác. Lisa suy sụp sau cái chết của bố, và gần như mất hết phương hướng, niềm tin vào cuộc sống. Cô bé bỏ luôn kỳ thi đại học. Người mẹ phải đưa con về quê ngoại cho khuây khỏa.

- Lisa rất thích nghe ngoại tụng kinh. Dù không hiểu gì nhưng Lisa thấy tâm hồn mình được nhẹ nhàng yên tĩnh, vơi bớt nỗi thương tâm. Ngoại bảo Lisa đến chùa cầu nguyện với Quan Âm Bồ Tát. Vậy mà mai này … Lisa phải theo mẹ trở về …

Giọng cô bé lại đượm buồn, tôi phải cố lựa lời an ủi:

- Cuộc đời luôn chứa đựng nhiều nỗi bất an đau khổ Lisa à. Đức Phật khi vừa chứng đạo quả Bồ Đề cũng đã nói “Đời là biển khổ”. Khổ vì sanh lão bệnh tử, khổ vì thương yêu chia lìa, khổ vì gặp điều bất như ý. Từ trong biển khổ ấy Lisa đã biết hướng lòng về nguồn sống tâm linh để tìm một nơi an ổn thuần thiện chơn chánh. Chính điều này sẽ giúp cô lấy lại lòng tin vào cuộc sống, cũng như giúp cô can đảm chấp nhận với thực tại, can đảm vươn lên trong nỗi đau thương mất mát này …

Tôi nói một hơi mà quên là Lisa có thể chẳng thể hiểu hết bao nhiêu lời đó. Nhưng cô bé vẫn chăm chú lắng nghe. Vầng trán thông minh khẽ nhíu lại như cố ghi lại vài câu triết lý mà tôi vừa thốt ra. Một lúc lâu sau cô mới lên tiếng đáp lời, vẫn là những âm thanh nhỏ nhẹ đều đều qua mấy lời bộc bạch chân thành:

- Lisa luôn tự hào về người cha của mình. Sự mất mát về một người thân yêu thật không có gì bù đắp được. Nhưng rồi ngày tháng trở về sống nơi quê ngoại, nhất là được nghe Kinh, đọc sách mà ngoại và quý thầy đưa cho, đã giúp Lisa cảm nhận ra nhiều điều. Và Lisa hiều rằng mình phải can đảm chấp nhận thực tại. Như cô vừa nói, cuộc đời quả đầy dẫy nỗi bất an đau khổ. Hạnh phúc thì mong manh, sự bất hạnh luôn dày vò ... Chỉ khi lòng người ta biết hướng thượng, biết nghĩ đến những điều tốt đẹp thì đời sống mới có ý nghĩa. Một tâm hồn biết chia sẻ luôn đón nhận niềm an vui hạnh phúc thực sự.

Đến lúc này tôi lại lắng tâm để nghe cho hết lời Lisa. Cô nói rõ ràng mạch lạc. Tuy đôi lúc cũng ngập ngừng dừng lại và người Dì phải bổ sung vài từ để cho cô diễn đạt tiếp. Trò chuyện với hai dì cháu, tôi được biết Lisa dù tinh thần đang chao động sau cái chết của bố, song cô cũng có nhiều dự tính cho tương lai. Rồi đây cô sẽ chọn ngành Đông Phương hay Xã Hội học. Lisa muốn đi theo con đường của bố. Muốn làm một nhà từ thiện xã hội chơn chánh. Cô sẽ tìm đến những nơi cần đến để xoa dịu bao vết thương đời tang tóc.

- Lisa không sợ nguy hiểm à ?

- Nếu Lisa có đủ niềm tin và nghị lực thì không có gì đáng sợ. Chẳng phải Bồ Tát Quan Âm thường hóa thân đi khắp nơi để cứu giúp muôn loài đang kêu cứu đó sao ? Lisa không dám ví mình như vậy. Nhưng Lisa sẽ học theo hạnh nguyện đó. Hằng ngày Lisa vẫn cầu nguyện Bồ Tát và điều đó giúp Lisa thêm vững vàng nội lực. Dù ở đâu Lisa vẫn không quên cầu nguyện. Mùa Xuân đang trở về. Mùa Xuân ở đây thật yên lành vui vẻ. Điều mà Lisa luôn cầu nguyện là làm sao cho mọi người đều được giác ngộ trong ánh sáng từ bi của Bồ Tát, cùng chung sống chan hòa, cùng biết yêu thương san sẻ đến muôn người …

Tiễn khách ra khỏi hàng rào dâm bụt, tôi trở vào lo công việc của mình. Tiếng chổi quét sân nhẹ lướt trên thềm lá đổ. Mặt trời cũng vừa lên. Lá vàng tung bay trong gió. Lòng tôi lúc này đang phấn chấn nên thấy cảnh vật như có muôn ngàn bài thơ xuân sắc. Trong vườn … những cây mai vàng trút lá vừa kết vài nụ hoa đầu tiên giữa tiết trời đông giá.

Xuân bên cội Bồ Đề

- Thích Tánh Tuệ



Sáng nay có con chim nhỏ
Dậy sớm hót vang đất trời
Báo tin Xuân về đây đó
Hương Xuân lan tỏa ngàn nơi

Vạn vật dường thay áo mới
Sau giấc ngủ dài Đông miên
Bên cội Bồ Đề tĩnh lặng
Nhà Sư vẫn thế ngồi yên

Đông phương ánh dương bừng rạng
Một vầng tỉnh thức, hạo nhiên
Bước chân kinh hành nhè nhẹ
Đời vui ngan ngát hương thiền

Xuân về bên ngôi Tháp Cổ
Bụt mỉm miệng cười như nhiên
Xuôi dòng thời gian Xuân vắng
Môi ai vẫn nụ cười hiền

Bốn mùa nhịp nhàng luân vũ
Kiếp người theo đó loay hoay
Vững thân bên Bồ Đề thụ
Ơ, Tâm Xuân tại nơi này

Xuân gióng hồi chuông tỉnh thức
Nguyện cầu: “Hải yến Hà thanh”
Hương Bồ Đề - Tâm sực nức
Lan xa ... đây đó yên lành

Ngày xuân tay tròn sen búp
Dâng hương hoa ngát cõi đời
Cúi xin Như Lai về ngự
Trong lòng nhân thế nơi nơi

Thảnh thơi

- Minh Niệm

● Bây giờ hoặc không bao giờ

Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình an và hạnh phúc với chính nó mới đích thực là nhu yếu sâu sắc nhất của con người. Cho nên trong truyền thống Phật giáo hay nói đến từ an lạc. Bình an sẽ đưa đến hạnh phúc. Bình an càng lớn thì hạnh phúc càng lớn. Bình an là sự dừng lại mọi mong cầu và chống đối, nó chấp nhận mọi điều kiện đang diễn ra trong thực tại một cách tự nhiên, đầy bao dung và hiểu biết.
Hạnh phúc mà không có bình an là hạnh phúc giả tạm, nó chỉ là một sự thỏa mãn nhất thời, nhưng để lại tàn dư là nỗi cô đơn day dứt.

Có nhiều khi ta thấy lòng mình thật bình an và hạnh phúc, nhưng ta hãy nhìn kỹ lại có phải mình đang sống trong những điều kiện quá thuận lợi như công việc ổn định, những người thân rất hiểu và rất thương, không có bất cứ sự tấn công hay tổn thất nào, cũng chẳng có một điều gì đáng phải bận tâm giải quyết nữa. Tuy ta đang bằng lòng với thực tại nhưng ta vẫn đứng trên nền tảng của sự vay mượn, chỉ khi nào ta sống trong những nghịch cảnh mà vẫn vui vẻ chấp nhận vì ta không còn đòi hỏi gì ở bên ngoài nữa thì lúc ấy cái bình an và hạnh phúc kia mới thực sự là của ta.

Đó là cái an lạc chân thật, và chỉ có nó mới chứa đựng tính chất thảnh thơi. Không có an lạc thì không có thảnh thơi, an lạc càng lớn thì thảnh thơi càng lớn. Trong vài truyền thống hay nói đến từ “giải thoát” hoặc “tự do” theo nghĩa là ta đã vượt thoát khỏi sự khống chế ràng buộc của một đối tượng hay hoàn cảnh nào đó, có khi phải lìa xa cả thế giới này mới giải thoát được. Trong khi “thảnh thơi” thì không cần chạy đi đâu cả, cũng không cần xua đuổi đối tượng hay hoàn cảnh nào cả, ta vẫn sống ung dung tự tại giữa khó khăn ràng buộc bởi vì những phiền não mong cầu và chống đối trong ta đã rơi rụng. Lòng ta giờ nhẹ như mây trôi mãi giữa không gian vô tận mà không có gì có thể ngăn ngại được.

Nếu ta nói rằng bây giờ ta đâu có rảnh rang, còn quá nhiều việc phải làm, phải đối đầu với muôn ngàn áp lực thì làm sao thảnh thơi cho được. Nói kiểu đó là ta chỉ có khái niệm về thảnh thơi chứ chưa thật sự cảm nhận trực tiếp hương vị của sự thảnh thơi. Làm sao ta tin chắc rằng khi ta giải quyết xong những hoàn cảnh khó khăn trước mắt, hoàn thành những dự án kế hoạch, đạt được những tâm nguyện là ta sẽ được thảnh thơi ? Ta đã tập dượt cho mình thói quen căng thẳng lo lắng, suy tưởng mông lung, bỏ hình bắt bóng, đứng ngồi không yên … thì dù hoàn cảnh đã lắng dịu rồi ta cũng không tài nào lắng dịu nổi, cũng lại kiếm chuyện để lăng xăng.

Vấn đề là ta phải có ý thức giữ tâm chứ không giữ cảnh thì ta mới có thể chạm tới sự thảnh thơi được. Tuy ta còn cần tới vài điều kiện tiện nghi bên ngoài, nhưng nó chỉ là phương tiện tạm thời chứ không phải là mục đích chính của cuộc đời ta. Mà cái chính yếu ta không tiếp xúc được ngay bây giờ, ta cứ hẹn lần hẹn lựa ở tương lai, thì chừng nào ta mới tiếp xúc được ? Còn đùn đẩy cho tương lai là ta chưa ý thức sâu sắc về bản chất của sự thảnh thơi, ta vẫn còn nghĩ thảnh thơi thuộc về sự thuận lợi của hoàn cảnh bên ngoài chứ không phải chính nơi tâm mình.

Vì vậy ta có thể nói thảnh thơi là bây giờ hoặc không bao giờ. Bây giờ mà ta không biết cách thảnh thơi, vẫn bị hoàn cảnh lôi kéo và khống chế, dù đó là hoàn cảnh đặc biệt cỡ nào thì ta sẽ không bao giờ nắm được sự thảnh thơi trọn vẹn. Dĩ nhiên nếu ta chưa đủ giỏi, chưa gạn lọc sạch hết những cấu bẩn phiền não thì sự thảnh thơi cũng có giới hạn, sẽ khi đầy khi vơi, nhưng bắt buộc ta phải đang đứng trên con đường thảnh thơi chứ không phải đứng trên con đường khác. Nghĩa là thảnh thơi phải luôn có mặt trong từng bước đi chứ không phải nằm ở cuối con đường. Tại vì sự thật không có con đường nào đưa tới sự thảnh thơi mà bản thân nó không thảnh thơi.

● Phương tiện là cứu cánh

“Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu”


Chắc ai trong chúng ta cũng quen thuộc những câu ca dao này. Chữ “phong lưu” có nghĩa đen là gió cuốn trôi, tức là phải nhẹ lắm thì gió mới cuốn đi được, còn nghĩa bóng là sự sung sướng, thoải mái, không phải lo toan gì nữa. Vì ta thấy mình còn thiếu thốn nhiều thứ, ta không tin rằng với bấy nhiêu điều kiện mà mình đang sở hữu là có thể hạnh phúc, nên ta cứ tự nhủ thôi ráng “cày bừa” cực khổ đi rồi ngày mai sẽ hưởng. Ngày mai mình sẽ hưởng cái gì ? Có kho thóc vàng thì mình sẽ ăn sung mặc sướng, nhưng liệu nó có đủ trang trải hết những nhu cầu về hạnh phúc của con người không ? Nó giải quyết nổi những buồn tủi, cô đơn, phản bội hay tuyệt vọng không ?

Đó là chưa nói khi no ấm rồi thì ta lại hay sanh tật, trong điều kiện thuận lợi con người thường hay dễ dãi với chính mình, tự mình thưởng cho công lao làm việc khó nhọc của mình bằng những chuyến đi hoang bất tận. Trong khi “cực” không nhất thiết phải đưa tới “khổ”. Nếu mình chấp nhận được cái cực nhọc đó vì mình ý thức rằng muốn hưởng thì phải làm, không có cái sung sướng bền vững nào từ trên trời rớt xuống cả, cái cực nhọc sẽ tôi luyện cho thể chất và tinh thần mình vững chắc nên mình sẽ không than van, không trả giá hay không tìm cách tránh né nó. Cái khổ thường có là do mình không thích nó, mình muốn nó đừng có mặt mà nó vẫn tới.

Nhưng hai câu ca dao sau thật hay thật giá trị:

“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”


Khung cảnh có chồng có vợ cùng san sẻ gian lao trên từng cánh đồng cạn hay dưới đồng sâu, rồi có thêm con trâu bầu bạn thì chẳng phải là điều kiện của hạnh phúc sao ? Có phải ta đã từng thấm thía rằng cái vất vả gian lao thể xác không là gì so với cái chia lìa mất mát không ? Có kho thóc vàng thì điều kiện hưởng thụ sẽ cao hơn, nhưng nó cũng không phải là mục đích tối hậu của con người. Vậy nên, không vì bất cứ lý do gì mà ta đánh mất giá trị an lạc và thảnh thơi của mình, dù công việc hay hoàn cảnh kia có đặc biệt như thế nào thì ta cũng quyết không để mình tiếp tục trôi dạt vào những cơn hôn mê cảm xúc vô nghĩa.

Người ta hay nói “an cư lạc nghiệp”, tức là mình cần phải có cơ ngơi ổn định, tiện nghi vật chất kha khá, thì mới có thể tạo dựng một cuộc sống hạnh phúc được. Cái quan điểm này gạt gẫm không biết bao nhiêu lớp người rồi. Vì ngay khi họ đang sống trong những điều kiện của hạnh phúc nhưng họ không dám tận hưởng hay không dám tin mình làm như vậy là đúng, phải phấn đấu không ngừng, phấn đấu đến khi nào thấy không còn thua sút hay có thể ngẩng cao đầu nhìn người khác thì họ mới an tâm. Thật ra, chữ “an cư” nghĩa là mình đã thật sự dừng lại, không chạy ngược chạy xuôi nữa, ta bằng lòng với những gì mình đang có thì gọi là an cư. “An” ở đây không phải là do hoàn cảnh ổn định, mà chính những mộng tưởng đảo điên đã không còn có lãng đãng trong tâm ta nữa.

Vậy thì khi tâm an thì ở đâu hay lúc nào mình cũng thảnh thơi được cả. Ngày mai có kho thóc vàng hay không, có thêm những điều kiện tiện nghi nữa hay không thì nó không thay đổi lẽ sống của mình được. Phương tiện không thể làm hư hại mục đích, và mình phải xem phương tiện cũng chính là mục đích. Mình có thể cắt đời sống mình ra thành từng mảnh nhỏ, mỗi giây phút mỗi công việc mình đang tiếp xúc là một cơ hội để mình sống sâu sắc và nhận diện ra sự có mặt của thực tại mầu nhiệm đang không ngừng nuôi dưỡng ta. Ta sẽ không còn mơ mộng tương lai nữa, không chạy đi tìm cái gì nữa, không còn nôn nóng vội vàng nữa, vì tất cả những gì làm nên một đời sống đúng nghĩa đã có sẵn ở đây cả rồi.

● Sống như người biết sống

Cách đây vài thập niên người ta còn quan niệm ai sống thảnh thơi là người đó đã biết cách điều hợp cuộc sống, đã thành công. Bây giờ nếu ta nói ta đang tận hưởng những giây phút của hiện tại, ta không có gì quan trọng phải làm, thì mọi người sẽ nhìn ta sửng sốt. Ta phải nói ta luôn bận rộn (busy) thì ta mới biết sống, ta mới có giá trị. Ở Mỹ, người ta không nói công ty đắt khách hàng mà họ nói công ty rất bận rộn. Người trẻ còn muốn tăng thêm mức bận rộn nữa, bận rộn tới mức quay cuồng thì họ mới chịu, họ tự hào là họ đang rất “crazy” với công việc ở công ty, tại vì theo họ nếu không “crazy” tức là ế ẩm, thà điên cuồng mà có tiền xài thì cũng không sao.

Chung quanh ta ai cũng lao tới phía trước như điên, thậm chí có kẻ bất chấp cả những phương tiện tồi tệ nhất, nên ta cũng không dám chậm chân. Đôi khi lại bị những người thân thúc đẩy là nếu đi chậm như vậy thì lấy gì sống, tương lai sẽ đi về đâu, nên ta hốt hoảng rồi thả mình trôi theo dòng chảy của xã hội. Ai sao ta vậy, ta khó có được chánh kiến hay bản lĩnh để tự tách mình ra khỏi sức hút mãnh liệt ấy. Nhưng ta hãy làm thử đi, ta có tài năng chinh phục kẻ khác để làm gì mà ta không thể thiết kế đời sống thảnh thơi cho mình được. Có thể ban đầu ta sẽ thấy lạc lõng, nhưng dần dần ta sẽ tìm thấy được chính mình, tìm thấy được cái tâm vốn rất an lạc và thảnh thơi mà ta đã lạc mất từ những ngày chập chững bước vào dòng đời.

Không phải trở thành một nhà tâm linh thì ta mới có thể thảnh thơi được, tại vì chung quanh ta có nhiều nhà tâm linh vẫn còn đầy dẫy những khắc khoải mong cầu, vẫn chưa chấp nhận thực tại một cách tuyệt đối. Họ nhân danh những công tác cao cả mà đánh mất khả năng sống thảnh thơi của mình thì làm sao có thể dẫn dắt kẻ khác đến nơi bình yên chân thật được. Không thành công trong hiện tại, họ bày vẽ tương lai bằng những viển cảnh cực kỳ hấp dẫn để dụ dẫn những kẻ lòng non dạ yếu. Cho nên chủ trương đi tìm thế giới tự do đã trở thành xu hướng mạnh mẽ của những kẻ không định vị được mình trong cuộc sống, không cắm rễ vào sự sống, bất lực và muốn bỏ chạy trước những hoàn cảnh trái ngang mà họ cho đó là số phận.

Không có cái số phận nào cả, nếu ta biết luôn quay về để nhận diện và chuyển hóa những phiền não của chính mình, dừng lại cuộc truy đuổi theo những đối tượng khác. Tâm tham cầu và tâm chống đối càng bị triệt tiêu thì cảnh giới an lạc và thảnh thơi sẽ hiện ra lập tức. Mỗi khi ta suy tư, nói năng hay hành động điều gì thì ta hãy tự hỏi ta có thảnh thơi không, ta có đang nắm giữ mục đích cao cả của kiếp người không ? Nếu không, ta hãy can đảm buông bỏ nó đi. Buông bỏ những ưu tư phiền muộn để giữ gìn tâm bình an phải cần đến một sự luyện tập nhất định nào đó chứ không chỉ có ý chí mà làm được. Dù vậy, ta vẫn tin chắc một điều là an lạc và thảnh thơi luôn có sẵn trong ta, chỉ cần biết cách và đủ can đảm để sắp xếp lại guồng máy hoạt động của tâm thức của mình sao cho thuận với nguyên tắc của vũ trụ. Nguyên tắc ấy là vô ngã, không có cái tồn tại biệt lập đáng để tự hào, kiêu ngạo hay thù hận.

Ngồi yên trong thảnh thơi
Tiếp xúc với mây trời
Buông cái tôi bé nhỏ
Thấy mình hiện muôn nơi

Vọng tiếng Kinh xưa

- Thích Tánh Tuệ



Ta ngỡ hồn ta những miếu đền
Từ trong vạn cổ kiếp không tên
Vẳng nghe như tiếng ngàn xưa gọi
Tâm thức trở mình sau lãng quên

Chung bước ta về nơi cõi Tâm
Giữa vùng Thạch động chốn nghiêm thâm
Dập đầu phủ phục bàn chân Phật
Mà nghe rơi rụng những mê lầm

Dòng thời gian chảy ngang trần thế
Muôn sự chìm trong lẽ Sắc-Không
Tiền nhân nay biết tìm đâu nữa
Bài Kinh vách đá đã rêu phong

Ta trở về thăm chốn tịch liêu
Ôi đời thanh thản biết bao nhiêu !
Bôn ba vạn kiếp nơi trần mộng
Sao bằng khoảnh khắc sống tiêu diêu

Ta ngỡ hồn ta những mái chùa
Sau làn sương phủ kiếp hoang sơ
Ta về gióng lại hồi chuông sớm
Một thoáng Thiền tâm ... chạm bến bờ