V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Tọa sàng

- Trích: “Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất” - Bạch Lạc Mai
- Chương II - Hoa rơi còn đa tình hơn nàng



Muốn gọi một con chim, nhờ nó đưa tin đến phương xa, tiếng hót nghẹn ngào của nó dường như cho Ngài biết, nó sống chẳng hề tự do, dù nó có một đôi cánh bay lượn, vậy mà vẫn thân bất do kỷ.

Lại nằm mơ, trong mơ tôi đã đến cung Potala, trong ảo ảnh giấc mơ, tôi nhìn thấy hải thị thần lâu(1). Rất nhiều người thành kính quỳ lạy dưới chân Phật Đà. Kinh phướn phấp phới, lay động tín ngưỡng kiếp này, kinh luân chuyển động, thức tỉnh ký ức kiếp trước. Cả tòa cung điện dưới nắng nóng hầm hập của cao nguyên, thật là tráng lệ huy hoàng, thật là độc đáo vô song. Tòa cung điện này ngưng tụ lịch sử loang lổ tang thương, cất giữ những câu chuyện tự cổ chí kim, rơi đầy bụi trần mù mịt của năm tháng. Thế nhưng nó trong sạch, thanh bạch đứng sững trên Hồng Sơn mênh mang. Lại rất mực khoan dung, tấm lòng bao la có thể thu nạp vạn vật trên đời.

Khi tỉnh lại, mới phát hiện người ở trong cung Potala là Tsangyang Gyatso. Một thiếu niên xuất thân từ địa phương nhỏ Monyu, nào đã thấy cung điện to đẹp đàng hoàng như vậy. Trong cuộc sống của Ngài, xưa nay chỉ có đất lề quê thói chất phác, chỉ có bãi cỏ, khe suối, nhà tranh, bờ cừu. Mở mắt ra, Ngài không nhìn thấy bạn bè thuở nhỏ cùng khôn lớn, không nhìn thấy cô gái đã nguyện lời hẹn ước làng bên, không nhìn thấy mẹ hiền tha thiết yêu thương Ngài. Cảnh tượng trước mắt giống như giấc mộng kê vàng(2), lầu gác cung điện, nhà vàng thềm ngọc, mang một khí thế khoan thai và quý phái không thể diễn tả thành lời. Cung Potala chính là một kho báu văn hóa dân tộc Tạng cực lớn, cất giấu quá nhiều văn vật lịch sử và báu vật. Còn Tsangyang Gyatso cứ thế rơi vào trong một giấc mơ hoa lệ của kiếp trước, không ngừng không nghỉ mơ tiếp, chẳng biết tới ngày nào mới có thể hoàn toàn tỉnh lại.

Tháng 10 năm 1697, một điển lễ tọa sàng long trọng đã tổ chức ở Lhasa, Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi chính thức vào làm chủ nhân của cung Potala, trở thành Đạt Lai Lạt Ma thứ 6. Ngài được nâng lên tầm cao của Thần Phật, được muôn người quỳ bái dù khi đó Ngài vẫn mơ hồ, vẫn bất lực, và cả một chút kinh ngạc vui mừng. Ngài dập đầu cảm thán: “Làm trái lệnh của Thượng Sư(3), thật cảm thấy hổ thẹn” . Lúc đó, Ngài cảm giác bản thân thật sự là Phật, chúng sinh dưới chân là con dân của Ngài, sứ mệnh của Ngài chính là độ hóa họ, dốc hết tất cả, vì họ tiêu trừ khổ nạn. Thế nhưng Ngài thật sự có pháp lực vô biên của Phật chăng ? Chẳng lẽ chỉ cần vừa ngồi lên ngai Phật cao ngất, Ngài liền thật sự thành Phật, có thể khiến tất thảy khiếm khuyết của thế gian biến thành trọn vẹn ?

Không, không phải như vậy. Mãi đến sau này, Tsangyang Gyatso mới biết, trên con đường dẫn đến cõi Phật này, Ngài cô độc, không có người đồng hành và người xướng họa, con đường này đầy rẫy chông gai, khiến Ngài vết thương chồng chất. Đó là vì trái tim của Ngài trước sau vẫn mang tình yêu chân thật nhất của nhân gian, không vượt qua được rào cản của tình yêu hồng trần, cho nên dù Ngài có linh tính của Phật, cuối cùng chỉ là rước thêm tiếc nuối. Thế gian này xưa nay không có sự việc hoàn mỹ, giống như trăng tròn trăng khuyết, hoa nở hoa tàn, tụ hợp ly tan. Khi bạn dốc lòng lao vào, muốn bất chấp tất cả vì một người, vì một việc, tất nhiên phải tiếp nhận sự trừng phạt của vận mệnh.

Vị Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi anh tuấn - Tsangyang Gyatso - ngồi trên ngai Phật ngất ngưởng, ngay cả Đệ Ba Sangye Gyatso và Ban Thiền đương thời đều đối với Ngài rất mực cung kính. Ngài thầm nhủ với bản thân, từ đây Ngài chính là vua của cung Potala, nắm giữ từng cành cây ngọn cỏ, từng viên gạch viên ngói của nơi này. Ngài thật sự quá ngây thơ, Ngài không biết rằng bản thân chẳng qua là một vị vua hữu danh vô thực, đừng nói không thể thống trị chúng sinh, ngay cả vận mệnh của mình cũng không thể làm chủ. Theo quy định điều lệ chuyển thế của Phật sống, linh đồng chuyển thế phải tròn mười tám tuổi mới có thể đích thân chủ trì chính sự. Lúc đó Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi, cho nên Ngài nhất thiết phải đợi đến ba năm sau mới có thể tự mình chấp chính. Trước lúc đó, tất cả chính sự sẽ đều do Đệ Ba và Ban Thiền cùng xử lý.

Tsangyang Gyatso giữ địa vị thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, sống ở cung điện cao nhất của cung Potala, được nhiều sư sãi bao quanh. Thế nhưng Ngài cô độc, thậm chí sống rất vất vả và mệt mỏi. Vì thân phận của Ngài đặc biệt, linh đồng chuyển thế trước đây từ bốn năm tuổi trở đi đã tọa sàng tiếp nhận giáo dục chính thức. Còn mười lăm năm này của Tsangyang Gyatso đều sống nơi làng quê nhỏ bé xa xôi, bầu bạn cùng dòng suối hoa núi, cỏ dại bò cừu, những bản tình ca xao xuyến lòng người, và nụ cười khoe hàm răng trắng bóng của cô gái làng bên. Dù Ngài cũng từng học kinh văn ở tu viện Basang, nhưng thầy dạy kinh lúc đó quản thúc Ngài không nghiêm, hơn nữa đó là học tập định kỳ, không thuộc chế độ cả ngày. Lúc đó Tsangyang Gyatso còn chưa biết thân phận của mình, chỉ nghĩ là cha mẹ sắp đặt, muốn Ngài học kinh, tham thiền, đọc hiểu từ bi.

Giờ đây Tsangyang Gyatso hàng ngày phải đối mặt với sự đốc thúc nghiêm khắc của thầy dạy kinh, tất cả thời gian của Ngài đều là ngồi yên đọc kinh, rất nhiều kinh văn liên miên không dứt bày trước mặt Ngài, khiến Ngài cảm thấy mệt mỏi chưa từng có. Lúc đó Sangye Gyatso bắt đầu hơi sốt ruột, y biết rõ thiếu niên này đã bị gió hoang cao nguyên thấm nhuộm, muốn triệt để gột bỏ tính buông thả trên người Ngài, không phải là chuyện có thể làm được trong một sớm một chiều. Ba năm, y phải dùng thời gian ba năm, thuần phục đứa trẻ đã bỏ bê mười lăm năm này, khiến đứa trẻ đó trở thành một vị Đạt Lai thứ 6 hoàn hảo, lãnh tụ chính trị vĩ đại. Chỉ là sau ba năm, Sangye Gyatso thật sự nỡ đem chính quyền cả đời khổ tâm vun vén, hai tay dâng cho Tsangyang Gyatso hay sao ? Không ai có thể đưa ra một câu trả lời khẳng định, bao gồm bản thân Sangye Gyatso.

Thật ra, chúng ta đều là nô lệ của danh lợi, biết rõ đời người chẳng qua nổi trăm năm, vẫn phải chém giết tranh đoạt, liều mạng đến nỗi máu chảy đầu rơi. Hôm nay bạn giẫm lên hài cốt người khác ngồi hưởng thiên hạ, ngày mai ai sẽ vì bạn thu thập ván cờ tàn của giang sơn ? Các bậc vua chúa lúc có thiên hạ, liền tìm kiếm thuốc tiên khắp nơi, tu luyện đan dược, hy vọng có thể trường sinh bất tử, e sợ giang sơn cực khổ giành được sẽ theo sự kết thúc của sinh mệnh, chớp mắt hóa thành số không. Họ biết rõ trên đời này không hề có phương thuốc bất tử, nhưng vẫn nghĩ đủ mọi cách kiếm tìm. Có lẽ đó là vì không cam tâm, không cam chịu tâm huyết một đời của mình phó mặc cho dòng nước cuốn trôi. Thế nhưng sức người thật sự có thể làm gì được số trời ? Vua chúa được tôn xưng là con trời (thiên tử), nhưng con trời và người thường cũng chẳng có phân biệt. Còn Đạt Lai Lạt Ma được tôn xưng là Phật sống, họ cũng là xương phàm thai tục, dù có linh hồn không chết, lại chẳng có thể xác không già.

Có lẽ Tsangyang Gyatso trước giờ đều chưa từng nghĩ phải ngồi ôm thiên hạ, hô mây gọi gió. Từ khi vào ở trong cung Potala, Ngài mới biết, cuộc sống ở đây còn lâu mới tốt đẹp như tưởng tượng trong lòng, nhìn thấy trong mắt. Ngài như một chú chim sẻ lông vàng, bị nhốt vào chiếc lồng đẹp đẽ sang trọng, mỗi ngày đợi người chủ cho ăn, thỉnh thoảng cùng y đi dạo trước lầu sân vắng, ngắm phong cảnh mênh mông vô biên phương xa, muốn bay lượn, lại phát giác sớm đã bị vận mệnh chặt đứt lìa đôi cánh. Ngài khát vọng tự do, ngày ngày cô độc ngóng nhìn ngoài cửa sổ, hy vọng sẽ có người đi qua, sinh lòng thương xót giúp Ngài trốn thoát. Lúc đó, Ngài hầu như quên mất, bản thân là Phật, quên rằng sứ mệnh Ngài vào ở trong cung Potala là để cứu rỗi chúng sinh, để họ không phải chìm đắm trong bùn lầy trần thế.

Đúng vậy, chìm đắm, giờ đây người thật sự chìm đắm là Ngài. Hàng ngày đọc kinh văn khô khan, tham ngộ Phật pháp phức tạp. Thầy dạy kinh của Tsangyang Gyatso đối với Ngài đặc biệt nghiêm khắc, vì chỉ cần một chút lơi lỏng là sẽ bị Đệ Ba trừng phạt khắc nghiệt. Sangye Gyatso bận rộn xong chuyện chính sự, có lúc còn đích thân giảng bài cho Tsangyang Gyatso, điều này khiến Ngài càng thêm lo sợ không yên. Chúng ta dường như có thể tưởng tượng được tình cảnh ba trăm năm trước, một thiếu niên mười lăm tuổi bị nhốt trong cung điện phồn hoa của cung Potala: tay ôm sách kinh, ngồi nằm không yên, Ngài luôn nghĩ cách làm sao để có thể thoát ly khỏi trói buộc, trở lại cảnh tiêu dao ngày xưa của mình.

Trên thực tế, Phật sống các đời đều từ lúc thơ ấu đã được chỉ định là linh đồng chuyển thế, kiếp này của họ cũng chỉ là đứa trẻ bình thường, lại phải gánh vác trách nhiệm của kiếp trước mà họ không hề hay biết. Bất kể họ có bằng lòng hay không, nhất định phải có sự khác biệt với những đứa trẻ khác. Không thể trưởng thành thuận theo tự nhiên, không thể sống tự do tự tại, khi họ còn rất nhỏ đã bị nhốt vào chiếc lồng tu hành, tiếp nhận phán xét của số mệnh. Suốt đời này, ngay cả quyền lợi chọn lựa họ cũng không có, định sẵn phải dùng hạnh phúc bình thường đổi lấy kính ngưỡng của muôn dân. Cô độc ngồi trên ngai Phật, sách kinh là tri âm, tràng hạt là giai nhân, Phạn(4) âm là tình ca, đèn bơ là ánh sáng duy nhất.

So ra, Tsangyang Gyatso bay nhảy ngang dọc mười lăm năm chốn phàm trần, chẳng phải may mắn hơn các linh đồng chuyển thế khác ư ? Ít nhất Ngài từng có thời gian tự tại an nhàn, từng tắm trong gió núi trăng sáng dịu dàng, từng cùng cô gái xinh đẹp đa tình nói chuyện yêu đương. Chỉ chẳng qua hết thảy những điều tốt đẹp này như hạc vàng đi xa, không trở lại nữa. Đào hồng rụng rồi vẫn sẽ có khi lại nở, trăng sáng lặn xuống phía Tây rồi sẽ có lúc mọc lên, người yêu ly biệt vẫn còn có ngày gặp lại, nhưng Tsangyang Gyatso thì mãi mãi vĩnh biệt cõi hồng trần rối rắm.

Không kịp rồi, tất cả đã quá muộn. Anh Túc thật sự rất đẹp, nhưng khi bạn ăn vào mới biết đó là một loại thuốc chứa kịch độc. Sau khi hiểu rõ thì đã trúng độc quá nặng. Bạn muốn trở thành vua của cung Potala, thì tất nhiên phải trải qua dày vò người thường không thể chịu đựng. Tsangyang Gyatso không quản nóng lạnh, vất vả học tập Phật pháp ở đây, dù trong lòng Ngài ít nhiều không tình nguyện, thậm chí nóng nảy không yên, nhưng Ngài rốt cuộc vẫn là linh đồng chuyển thế, trong cốt cách có tính Phật và linh tuệ. Trong thời gian ngắn ngủi, việc học tập của Tsangyang Gyatso đã tiến bộ vượt bậc, điều đó khiến Sangye Gyatso cảm thấy an ủi, đôi khi lơ đãng, sẽ mỉm cười với Ngài.

Nụ cười đó đối với Tsangyang Gyatso thật nhợt nhạt yếu ớt. Mỗi khi màn đêm buông xuống cung Potala, mọi người tản hết, mỗi một đồ vật ở đây đều tẩy hết lớp trang điểm phấn son ban ngày, tỏ ra yên tĩnh vô cùng. Lúc này lòng Tsangyang Gyatso bị nỗi cô độc gặm nhấm, Ngài nhớ làng nhỏ triền núi đã cho Ngài tất cả những điều tốt đẹp. Nhớ màu bầu trời đêm ở đó, nhớ hương thơm của hoa dại, nhớ hình ảnh người dân Monpa uống rượu ca hát bên đống lửa, nhớ người mẹ khâu vá da chồn dưới đèn, càng nhớ tình cảm dịu dàng khi Ngài cùng ý trung nhân hò hẹn dưới trăng.

Trong kiếp này ngắn ngủi
Được sủng hạnh vô cùng
Kiếp sau thời thơ ấu
Phải chăng lại tương phùng ?

Sau khi tỉnh mộng, Ngài đã lệ rơi đầm đìa, cả cung Potala rộng lớn này chỉ có ánh trăng hắt xuống giường Phật của Ngài. Muốn gọi một con chim, nhờ nó đưa tin đến phương xa, tiếng hót nghẹn ngào của nó dường như cho Ngài biết, nó sống chẳng hề tự do dù nó có một đôi cánh bay lượn, vậy mà vẫn thân bất do kỷ. Vạn vật trên đời đều đang sống, đều đang hô hấp, và cũng đều thân bất do kỷ.

---

(1) Hải thị thần lâu: hiện tương quang học trong tự nhiên, tia sáng khúc xạ sinh ra ảnh ảo ở cự ly xa hoặc trên bầu trời.

(2) Giấc mộng kê vàng: Theo “Chẩm trung ký” của Trầm Ký Tế đời Đường, có chàng Lư Sinh, gặp vị đạo sĩ Lữ Ông trong quán trọ Hàm Đan, Lư Sinh than nghèo khó, đạo sĩ cho chàng mượn một chiếc gối, bảo chàng gối lên mà ngủ. Bấy giờ chủ quán đang nấu một nồi cơm kê vàng. Trong mơ Lư Sinh hưởng trọn một đời vinh hoa phú quý, khi tỉnh dậy, cơm kê vàng vẫn chưa chín. Sau dùng để ví với sự vỡ mộng, chuyện tốt muốn thực hiện rốt cuộc xôi hỏng bỏng không.

(3) Thượng Sư: dịch từ tiếng Phạn “guru”, nghĩa là Đại Sư, Đạo Sư, Đại sĩ, đối ứng với “Lạt Ma” trong tiếng Tạng.

(4) Phạn âm: chỉ tiếng đọc kinh.

Nghiệp - Duyên

- Chánh Bảo Trung



Ánh sáng bình minh xua tan đêm tối
Sự, vật, con người biến đổi theo duyên
Sanh tử luân hồi khổ đau muôn kiếp
Trôi dạt vô bờ biết thuở nào ra

Ta sẽ được gì sau khi nhắm mắt
Một nắm tro tàn hư danh của cải
Để lại cho đời năm tháng dần tan
Bọt bể bèo trôi sương đêm tia chớp

Duyên nghiệp theo mình sanh trong bể khổ
Nghiệp thức xoay vần sáu cõi hư vô
Tự tánh viên tròn không hai không khác
Chân lý muôn đời thật thể Chân Không

Pháp Phật soi đường dẫn lối khai Tâm
Tám vạn bốn nghìn pháp môn tự thoát
Phiền não ưu sầu trói buộc do ta
“Thiên thượng thiên hạ độc tôn duy ngã”

Danh ngôn (64)

- Đông Nhạc Thánh Đế



Bớt của người mà thêm cho mình, điều này nên tự cấm. Dù làm điều thiện nhỏ nhoi cũng nên toan tính lợi cho người. Dù điều ác nhỏ nhoi cũng khuyên người chớ làm.

Nghiệp báo khó tránh

(Trích “Nhặt lá Bồ Đề – HT. Thích Thanh Từ”)



Trong Tương Ưng Bộ Kinh chép:

Có vị Tỳ Kheo đem lời ác đến mạ nhục Ngài Xá Lợi Phật và Mục Kiền Liên. Phật ba lần can gián nhưng vị Tỳ Kheo này không biết cãi hối. Thời gian sau, vị Tỳ Kheo ấy thân bị ghẻ lở, khắp mình đau nhức rồi chết. Khi chết thần thức đọa vào địa ngục. Phật dùng thiên nhãn nhìn thấy bèn họp chúng dạy: “Xét người ở đời búa để trong miệng. Sở dĩ giết người bởi do lời ác” (Phù sĩ xử thế phủ tại khẩu cung, sở dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn). Thế nên Tỳ Kheo các ngươi phải tự răn dè.

Lời bình:

Bài kinh này Phật nhắc lại quả báo của lời nói ác để răn dạy các thầy Tỳ Kheo. Lời nói ác độc hại hơn lửa dữ, hơn rắn độc, nó có thể gây khổ đau cho người ta hiện đời cũng như nhiều kiếp. Qua câu chuyện Phật kể trên chúng ta đã thấy rõ.

Giờ thử tìm hiểu nguyên nhân người ta lại nói lời độc ác. Sở dĩ buông ra những lời độc ác là do nóng giận mà ra. Vì vậy muốn không khởi lời nói ác, Phật dạy chúng ta phải tu hạnh nhẫn nhục: nhịn chịu những lời nói trái tai, những hành động nghịch ý, những cử chỉ thiếu lễ độ … của kẻ khác để tâm ta luôn luôn mát mẻ dịu hiền. Phải luôn luôn nhớ câu Phật dạy: “Lời nói ác như búa để trong miệng, sỏ dĩ giết người do lời nói ác” để tự răn mình.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: “Người ác hại người hiền như ngược gió tung bụi, bụi không đến người mà mình bị lấm. Lại cũng như ngước mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt chẳng đến trời mà rơi xuống mặt mình.”

Xét lại lời Phật nói trên thật là chí lý. Lời nói ác chỉ tự chuốc họa vào thân mình mà thôi. Tục ngữ có câu: “ngậm máu phun người miệng mình dơ trước” là vậy. Một điều lợi ích rất lớn khi người ta biết dằn cơn nóng giận, không để thốt lên lời nói ác. Trong Kinh Pháp Cú có câu: “Nếu bị người ta mắng mà không mắng lại, là tự cứu mình và cứu người”. Tại sao ? Vì nếu người ta cãi với mình mà mình làm thinh, thì họ hết cãi (trái lại thì sanh ấu đã). Họ sân với mình mà mình không sân tức là mình đã chinh phục được họ.

Người thế gian không hiểu lý này, cho là ngu si hay yếu đuối. Sự thực đây là việc làm của kẻ có trí tuệ và đầy đủ nghị lực. Phải mạnh lắm mới có thể nhẫn được, nếu yếu ớt nghe một câu trái tai tức nổi giận liền. Vậy muốn thân tâm mát mẻ, lời nói ra có đạo đức hiền từ, chúng ta phải dứt tâm phân biệt hơn thua, phải quấy, khi tâm hơn thua phải quấy dứt thì lòng yêu ghét không còn, tâm nóng giận cũng theo đó mà hết. Hiện đời ta được an lạc và tương lai cũng tránh được quả báo khổ đau, đó là người hùng trong đạo vậy.

Cát bụi đường bay(55 - 63)

- Thơ Hàn Long Ẩn
- Đoản khúc 55 - 63



55.
Tử Kỳ khóc nhớ Bá Nha
Thiên thu bằng hữu cầm ca một vài
Trăng soi bóng nước trâm cài
Bờ kia sao cứ mãi hoài cách ngăn

56.
Tóc xanh em thuở nguyệt rằm
Xuân nay ngó lại nụ hồng phai phôi
Nẻo về gót ngọc chia đôi
Ai ngồi nhặt hạt thu rơi cuối mùa ?

57.
Đành thôi dệt mộng hương xưa
Dư âm ngày cũ đã vừa xanh xao
Mở mắt thì giấc chiêm bao
Nhắm đôi mắt lại lạc vào cung mơ

58.
Sầu em hãy cứ lập lờ
Để ta còn mãi bài thơ nửa chừng
Sương rơi ướp nụ hoa rừng
Bình minh rải hạt vô thường sớm mai

59.
Từ trong hạt bụi bay bay
Có Tam Thiên Giới bờ này bến kia
Đâu là ngộ, đâu là mê ?
Mưa lên trăm hướng cũng về biển xa

60.
Nắng vàng nhuộm mảnh Cà Sa
Thiền môn rớt tiếng chim ca đầu mùa
Em mang phẩm vật lên chùa
Ra về chợt nhớ cái vừa đã quên

61.
Ngón tay điểm bóng trăng huyền
Qua bờ hư ảo thả thuyền sông trôi
Ngàn năm mây nước bên trời
Thiên thu tự tánh vỡ lời hư không

62.
Lang thang từ cõi phiêu bồng
Sương đầu ngọn cỏ nắng hồng song thưa
Buồn em khóc gió thu mưa
Buồn ta gửi lại cho vừa hồng hoang

63.
Về xa mỏi cánh chim bằng
Tà dương bạc tóc Hương Giang gợn buồn
Điệu sầu ví khúc tơ vương
Thuyền ai chở mảnh trăng đơn lạc dòng

Trái tim Bồ Tát

- Huỳnh Trường Long



Ngày nao, lửa thiêng âm thầm cháy
thiêu xác thân của Ngài
ôi tiếng Kinh u hoài
hồn thiêng, xa thoát miền trần gian

Từ bi, tránh xa muôn hờn oán
mang Đức Tin cho đời
trong lửa thiêng sáng ngời
Ngài theo bước chân Phật cao siêu

Không gian buồn tênh, tâm tư triền miên
lòng đau tim buốt, ôi đất nước tràn tuôn
biết bao nhiêu niềm thương
một bóng hình … ngàn sau không mờ

Ai gieo sầu đau, xin trên trời cao
người thôi gieo oán cho đất nước bình an
Đức Tin soi cùng khắp như ánh vàng
người người tin yêu

Lửa thiêng, đốt tan bao xiềng xích
đem đến cho muôn người
tình yêu thương nhân loại
tự do … tiếng chuông chùa vọng ngân

Ngàn năm, mãi lưu tim Bồ-tát, cho thế nhân noi Ngài
Từ bi ghi nơi lòng, người ơi, ánh đạo vàng trong tâm


Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương X, Thích Nhất Hạnh

Trong khi đó quốc vương Suddhodana tỏ ý muốn Siddhatta thân cận với vua hơn để có cơ hội thực tập về chính sự. Thái tử được mời dụ những buổi họp quốc sự, khi thì riêng với phụ vương, khi thì chung với quần thần. Chàng để hết tâm ý vào các vấn đề chính trị, kinh tế và quân sự được đưa ra và chàng nhận ra rằng căn bản của các vấn đề nằm ở nhận thức và tư dục của người làm chính sự. Khi mà tâm người đã trấn ngự bởi ý thức về quyền lợi cá nhân, gia đình và dòng họ rồi thì mọi quyết định về chính sách không thể nào còn khách quan nữa, và như vậy chính sách không còn thực sự nhắm vào việc lợi nước lợi dân.

Siddhatta ngồi nghe và đoán biết được tâm lý của những người cộng sự với phụ vương chàng. Chàng thấy được những tư dục của họ, có khi chàng thấy được cái mặt trái giả đạo đức của họ và đồng thời cũng thấy một niềm tức giận nảy sinh và tràn dâng trong lòng, nhưng Siddhatta biết mình phải kềm chế niềm tức giận ấy. Chàng biết chàng có thể nói huỵch toẹt ra giữa triều đình những điều không mấy tốt đẹp ấy nhưng chàng đã ngậm miệng không nói, bởi vì chàng không có hoặc chưa có phương pháp gì đối trị. Nói ra chỉ là để gây đổ vỡ mà thôi, và như vậy lại tạo thêm những khó khăn cho phụ vương chàng.

- Tại sao con không góp ý kiến với triều thần mà chỉ ngồi im lặng thế ?

Vua Suddhodana hỏi chàng, sau một buổi chầu trong đó các quan đã bàn luận rất lâu về chính sự. Siddhatta nhìn cha:

- Không phải là con không ý kiến, nhưng những ý kiến của con, nếu nói ra, cũng không có ích lợi gì, vì chúng chỉ có thể nêu ra chứng bệnh, mà chưa phải là phương thuốc trị bệnh. Con thấy con chưa có đủ khả năng để thay đổi tâm trạng của các quan. Tư dục của họ còn nặng nề lắm và con biết con chưa có thể làm việc được với họ. Phụ vương nghĩ xem. Quan phụ chính đại thần Vessamitta là một người có quyền lực rất lớn trong triều đình. Phụ vương biết rằng ông ta không liêm khiết và nhiều khi ông ta lấn cả quyền của phụ vương. Ấy vậy mà phụ vương vẫn phải dùng ông ta. Tại sao ? Tại phụ vương biết nếu không dùng ông ta thì triều đình có thể rối loạn.

Vua Suddhodana nhìn con, im lặng một hồi lâu. Rồi vua nói:

- Nhưng con cũng biết là để cho yên nước yên nhà, nhiều khi ta phải chịu đựng. Ta biết quyền lực ta có giới hạn, nhưng nếu con tập làm chính sự, sau này con sẽ giỏi hơn ta và con sẽ có đủ tài năng để thanh lọc lại hàng ngũ của chính quyền mà không gây ra những xáo trộn cho xứ sở.

Siddhatta đưa tay lên trán. Chàng thở dài:

- Con không tin rằng tài năng là yếu tố căn bản. Con nghĩ rằng vấn đề căn bản là giải phóng được cho tâm mình. Con biết là chính con, con cũng bị khuynh đảo bởi những tình cảm như buồn giận, ganh ghét, sợ hãi và những ham muốn bình thường.

Những cuộc đàm luận ngắn như thế giữa hai cha con càng ngày càng làm cho vua lo lắng. Vua thấy Siddhatta là một người có nhận thức rất sâu sắc nhưng cũng là một người ưa đòi hỏi cái tuyệt đối. Vua thấy được sự khác biệt giữa mình và thái tử. Tuy vậy trong lo lắng, vua vẫn cố nuôi hy vọng. Vua hy vọng rằng nếu Siddhatta tiếp xúc lâu ngày với người và với việc, thái tử sẽ có thể một ngày nào đó chấp nhận cái tương đối trong cuộc đời.

Trong lúc ấy, Siddhatta không bao giờ ngưng học hỏi. Ngoài công việc học tập chính sự và giúp đỡ Yasodhara, chàng tìm cách tiếp xúc với các vị Bà-la-môn và sa môn nổi tiếng trong xứ để học hỏi thêm. Chàng biết rằng học đạo không phải chỉ là học những tư tưởng uyên áo chứa đựng
trong các thánh thư mà còn là học phép thiền định để đạt tới sự giải phóng tâm ý. Chàng rất ưa đi tìm những vị sa môn ẩn cư để học hỏi và thực tập, và chàng đem những gì đã được học về để thực tập ngay trong cung điện. Thỉnh thoảng Siddhatta cũng đem những điều mình đã học và đang thực tập ra để chia sẻ với Yasodhara. Chàng hay nói với nàng:

- Này Gopa, có lẽ em phải thực tập thiền định thì tâm em sau này mới an được và em mới có thể làm việc xã hội được lâu dài.

Gopa là tên ngày còn nhỏ của Yasodhara, chàng hay gọi nàng bằng tên này một cách âu yếm. Yasodhara nghe lời chàng. Tuy bận rộn công việc, nàng vẫn thường chịu thiền tập. Có khi hai người ngồi chung trong im lặng. Tất cả các người hầu cận đều phải rút lui trong những giờ giấc ấy, những đoàn ca vũ được hai người cho đi làm việc ở những nơi khác.

Từ hồi ấu thơ, Siddhatta đã từng được nghe về bốn giai đoạn trong đời sống của một người Bà-la-môn. Tuổi trẻ, người con trai Bà-la-môn phải học kinh Vệ Đà. Đó là giai đoạn đầu. Giai đoạn thứ nhì, thành người, là giai đoạn lập gia đình, nuôi dưỡng con cái và phục vụ xã hội. Giai đoạn thứ ba, khi con cái đã lớn khôn, thì có thể rút lui làm ẩn sĩ, và trong giai đoạn thứ tư, buông bỏ mọi ràng buộc với cuộc đời, người Bà-la-môn có thể sống đời sống xuất thế.

Siddhatta nghĩ rằng bốn giai đoạn ấy của cuộc đời đã được chia ra một cách quá rạch ròi. Đợi đến già mới học đạo thì sẽ trễ tràng quá. Chàng không thể chờ đợi được. Tại sao ta không thể sống bốn cách ấy ngay trong một giai đoạn ? Tại sao không tập sống đời xuất thế ngay khi ta còn có gia đình ? Nghĩ vậy, Siddhatta có ý bắt đầu học đạo và hành đạo ngay trong đời sống hiện tại. Tuy nhiên, chàng không thể không nghĩ tới những đạo sĩ nổi danh đang hành đạo ở phương xa, mãi tận Savathi hay Rajagaha. Chàng tin rằng nếu được du phương học đạo với những bậc thầy nổi danh, chàng sẽ có thể đạt đạo mau chóng. Các bạn và ngay các vị sa môn ẩn cư mà chàng đi thăm đều có nhắc đến tên những sa môn nổi tiếng như Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Ai cũng ước mong được tiếp xúc và học hỏi với các vị này.

Càng ngày Siddhatta càng thấy niềm mong ước của mình trở nên thúc bách. Một buổi chiều Yasodhara đi làm việc về mặt buồn rười rượi. Nàng đăm chiêu không nói. Em bé bị thương hàn mà nàng chăm sóc từ hơn một tuần nay vừa mới chết. Mấy hôm nay nàng đã làm đủ mọi cách mà không rứt em ra khỏi tay tử thần. Buồn quá, nàng ngồi thiền định. Nàng không ngăn được cảm xúc, Siddhatta vừa dự một buổi họp triều chính về. Trông thấy chàng, Yasodhara òa lên khóc, Siddhatta ôm nàng trong hai tay và hỏi han cớ sự. Chàng tìm cách an ủi nàng:

- Gopa, ngày mai ta sẽ đi với em để dự đám tang của em bé. Em cứ khóc đi cho nhẹ bớt nỗi khổ trong lòng. Sinh, già, bệnh, chết là những gánh nặng đè lên vai của tất cả mọi người, những gì xảy đến cho em bé đều có thể xảy ra cho chúng ta, bất cứ lúc nào.

Yasodhara thổn thức:

- Càng ngày em càng thấy điều điện hạ nói là đúng. Khổ đau thì vô cùng mà hai bàn tay thì nhỏ bé. Lòng em cũng đầy sự bất an. Anh ơi, anh chỉ cho em cách nào để em đối trị được những khổ đau và lo lắng trong lòng đi anh.

Siddhatta ôm Yasodhara chặt trong hai tay chàng:

- Em ơi, chính anh cũng đang đi tìm con đường để đối trị những khổ đau và lo lắng trong anh. Anh đã nhìn thấy thực trạng của xã hội và của con người, nhưng anh chưa thấy được nẻo thoát dù anh đã bỏ công học hỏi và tìm kiếm. Tuy nhiên anh tin rằng một ngày nào đó anh sẽ tìm ra được con đường cho tất cả chúng ta. Gopa, em hãy có lòng tin nơi anh.

- Em bao giờ mà không có lòng tin nơi anh. Em biết một khi đã quyết định một điều gì thì anh sẽ đi đến cùng để thực hiện cho kỳ được điều ấy. Em biết một ngày nào đó anh sẽ bỏ hết phú quý giàu sang và ngai vàng để ra đi tìm đạo, nhưng anh ơi, xin anh đừng bỏ em trong giai đoạn này. Em rất cần anh.

Siddhatta nâng cằm Yasodhara lên, nhìn vào mắt nàng:

- Không, không, anh không bỏ em bây giờ đâu. Chừng nào, chừng nào ...

Yasodhara bịt miệng Siddhatta lại:

- Siddhatta anh, anh đừng nói gì vội. Em muốn hỏi anh điều này, nếu anh có một đứa con với em, thì anh muốn đó là con trai hay là con gái ?

Siddhatta giật mình, chàng nhìn Yasodhara chăm chú:

- Em nói sao, Gopa ? Có phải em đã, em đã ...

Yasodhara gật đầu, nàng chỉ vào bụng và nói:

- Em rất sung sướng vì em đang được mang trong em hoa trái của tình yêu chúng ta. Em muốn nó sẽ là con trai, và có khuôn mặt giống anh, thông minh như anh, và hiền đức như anh.

Siddhatta đưa hai vòng tay ôm lấy Yasodhara vào lòng. Trong nỗi vui mừng lớn lao, chàng chợt nhận ra những hạt giống của sự lo lắng. Tuy nhiên chàng tươi cười nói với Yasodhara:

- Em sinh con trai hay con gái thì anh cũng mừng như nhau. Miễn là con chúng ta sẽ vừa nhân từ vừa thông tuệ như em. À này, Gopa, em đã báo tin này cho mẹ biết chưa ?

- Em chưa cho ai biết hết, trừ anh ra. Chiều nay em sẽ vào cung Thánh Từ báo cho lệnh bà Gotami. Nhân tiện để em học hỏi với mẹ về cách nuôi dưỡng thai nhi, em cũng sẽ báo tin này cho phu nhân Pamita mẹ của em ngày mai. Chắc mọi người sẽ mừng lắm.

Siddhatta gật đầu. Chàng biết là khi nghe tin này, dì mẫu của chàng sẽ báo tin ngay cho phụ vương chàng. Phụ vương sẽ rất hài lòng và sẽ tổ chức một lễ ăn mừng lớn. Siddhatta có cảm tưởng là những sợi dây ràng buộc chàng với cuộc đời ở cung điện càng ngày càng siết chặt lại.

Ân oán chập chùng

- Thích Nhật Từ



Ôi … ân oán chập chùng như con múa rối
Làm lòng người điên đảo triền miên
Oán trả oán, nỗi thù thêm chất ngất
Với tình thương hỷ xả, thù hận tiêu liền

Ân gieo mãi nhưng không cần đền trả
Oán thù kia chớ để bợn cõi lòng
Hãy mở gút cho tâm an, thong thả
Khúc đoạn trường nhất quyết sẽ rụng rơi

Chuyện người bác sĩ già

- Quà tặng cuộc sống



Chuyện người bác sĩ già, câu chuyện làm thay đổi cuộc sống, mang đầy ý nghĩa giáo dục đạo đức, lối sống, nhân văn, hướng con người hoàn thiện bản thân hơn.

Tâm bệnh của mỗi người

- Phan Kim Oanh



Con người sống trên đời không ai trọn vẹn. Cố chấp – Hờn ghen – Sân hận – Si mê – Căng thẳng – Tự ti – Trầm uất … hẳn ai cũng có. Những trạng thái đó gây nhiều phiền não cho bản thân và luôn ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ, vì tự trong tâm nên nó cũng là tâm bệnh, vậy thuốc gì chữa tâm bệnh và chữa như thế nào ?

- CỐ CHẤP: trong tâm can luôn chất chứa các lỗi lầm của người khác, các mâu thuẫn lớn nhỏ mà không trút ra, gì gì cũng ôm hết vào tâm tư, nó chất đầy dần và sẽ hết chỗ chứa – nó tích tụ để khi quá tải tiềm ẩn sự đổ vỡ … Bệnh tâm này liên quan đến ứ đọng máu huyết dễ hình thành u cục trong cơ thể, cho nên, để thanh thản hãy học cách buông bỏ. Hãy nghĩ buông là buông bệnh tật, cách đó sẽ dễ buông nhất.

- HỜN GHEN: (nói chung cả tính hay ganh tỵ, đố kỵ nhé) ghen với vợ với chồng, ghen với đồng nghiệp, ghen với bạn đồng trang lứa … nó làm ta luôn bị hướng về phía đó và làm ta trở thành kẻ nghe ngóng và luôn bất an với mọi thứ. Bệnh tâm này liên quan đến huyết mạch và nó cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến tim mạch. Hãy thử xem nếu hay ghen bạn sẽ được gì, cách chữa bệnh ghen là luôn yêu bản thân và tự tin về mình. Nếu ai đó hơn cứ để họ hơn, hãy nghĩ giữ tâm người chứ không nên giữ phần xác vô hồn của ai đó.

- SÂN HẬN: sự thù hận luôn hằn trên gương mặt mà chỉ người ngoài mới nhìn rõ nhất … khi gặp tình huống nào liên tưởng hoặc liên quan cũng dễ làm bạn bùng cơn giận dữ. Các mạch máu và dây chằng quanh mắt, quanh miệng sẵn sàng biến dạng. Khi một người luôn có kẻ để thù hận, bạn sẽ làm việc thiếu sáng tạo và không hiệu quả, bạn sẽ rất nhanh già khi luôn sân hận trong tâm … Hãy nghĩ đến nóng giận luôn tiềm ẩn bệnh cao huyết áp không tốt cho tim mạch, từ bỏ sân hận chính là bảo vệ sức khoẻ cho bản thân mình.

- SI MÊ: tất cả sự mất kiểm soát luôn từ si mê đưa đến. Còn trẻ si mê yêu đương dẫn đến hờn ghen, luôn kiểm soát và giữ người yêu, giữ vợ, giữ chồng như tù giam lỏng, bạn sẽ thành kẻ … ích kỷ trong mắt mọi người. Hãy học cách yêu thương chứ đừng nghĩ đến việc sở hữu một cách độc đoán, bạn sẽ thấy thật sự mạnh khoẻ yêu đời khi chẳng si mê gì cả. Hãy sống cân bằng sẽ cho bạn luôn yêu thiên nhiên cây cỏ và luôn lạc quan trong cuộc sống … Và chắc chắn tâm thanh thản bệnh tật sẽ đẩy lùi.

- CĂNG THẲNG: bất cứ việc gì đến với bạn cũng luôn căng thẳng vì luôn muốn thực hiện chuẩn chỉ, chính xác, và mong kết quả mỹ mãn. Bạn luôn bắt bản thân theo một tiêu chí đã định nên sẽ dễ thất vọng khi không được như ý. Trên khuôn mặt bạn luôn cho người khác thấy sự lo lắng, bạn sẽ mất tự tin khi sống một cách bình thường, khi chẳng có áp lực bạn vẫn thế. Học cách coi mọi thứ thật bình thường, thua keo này bày keo khác, bạn sẽ thấy sống vui vẻ khoẻ mạnh khi không rơi vào căng thẳng.

- TỰ TI: luôn thấy mình không có điểm gì tốt, luôn thấy mình nghèo, luôn thấy mình không may mắn … Cách suy nghĩ tạo ra một người chẳng dám bắt tay vào vấn đề gì, và đó cũng là sự thiếu tích cực trong lối sống, và đó cũng làm bạn bế tắc trong cuộc sống. Một người tự ti luôn dừng bước, luôn nhút nhát và dễ mắc các bệnh tim mạch … Không sống tự ti cũng tự làm mình khoẻ mạnh.

- TRẦM UẤT: bất cứ việc gì bạn cũng luôn suy nghĩ, một lời nói, một ánh mắt cũng làm tâm tưởng của bạn nặng nề. Nghe thấy ai đó nói gì cũng vơ vào mình và không thể buông được ra. Tính cách như vậy dễ dàng có lối sống trầm uất rất hại cho sức khoẻ. Vậy hãy học cười hàng ngày, tiếng cười vang luôn giải phóng tâm trầm uất và đó là cách tốt cho sức khoẻ nhất mà cả thế giới đang hướng tới.

Và chúng ta muốn TÂM THANH THẢN, không mỏi mệt, cơ thể mạnh khoẻ, sống lâu, hãy tự chữa tâm bệnh cho mình. Xin chia sẻ và mong mỗi người nói chung và chị em phụ nữ nói riêng … hãy cố gắng vì sức khoẻ của bản thân mình.

Dòng thời gian ghê ghớm thiệt

- Mặc Giang



Dòng thời gian đập giũa ghê gớm thiệt
Khi thời gian đã tuần tự đi qua
Bất cứ việc gì rồi cũng tiêu ma
Chứ đừng nói cái già xua cái trẻ

Từ vạn vật, cũng bào mòn, sứt mẻ
Đến ngọc ngà, cũng tàn tạ, hư hao
Thân con người, đâu có nghĩa chi nào
Nhất là lúc đã xế chiều xuống dốc

Kiếp trăm năm chia ra nhiều điểm mốc
Thuở còn thơ cho đến lúc đôi mươi
Mảnh hồn nhiên treo miệng thắm môi cười
Bức trong trắng phơi mành vô tư lự

Ba mươi năm kế tiếp, bôn ba đủ thứ
Để chen vai sánh bước giữa cuộc đời
Dù thế nào, rồi đời cũng chơi vơi
Khi đứng tuổi là bắt đầu khựng lại

Nghiêng bóng xế chiều về buông đi mãi
Qua lục thập lại đến thất lai hy
Những hăng say, xốc vác đã từ ly
Cực chẳng đã chứ chẳng gì ham muốn

Vươn lên bát, là cái già đã luống
Đeo lão làng lụ khụ thở hết hơi
Mang lẩm ca lẩm cẩm khổ chi đời
Leo tới cửu, xẫu mình trông đại thọ

Trông lú lẫn và sống hờ, cho có
Gốc tàn khô, cây đổ, lá trơ cành
Dòng thời gian ngẫm lại, trôi thật nhanh
Thế là hết, một đời ba vạn sáu !

Ai thân, ai sơ ?

- HT. Thích Thanh Từ



Hiệp Sơn cùng Ðịnh Sơn đồng đi đường cùng nói chuyện với nhau.

Ðịnh Sơn nói:

– Trong sanh tử, không Phật tức phi sanh tử.

Hiệp Sơn nói:

– Trong sanh tử, có Phật tức chẳng mê sanh tử.

Cả hai cùng lên núi lễ vấn Thiền sư Ðại Mai Pháp Thường. Hiệp Sơn đem câu nói của hai người thuật lại sư nghe, và hỏi:

– Chưa biết chỗ thấy của hai người ai được thân (gần gũi).

Sư bảo:

– Một thân một sơ.

– Ai được thân ?

– Hãy đi sáng mai lại.

Sáng hôm sau Hiệp Sơn lại đến hỏi sư, sư bảo:

– Người thân thì chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng thân.


Lời bình:

Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Chỗ lý cùng tột vốn không thân sơ, thân sơ là tại nơi người”. Bởi có tâm kia đây mới thấy có gần với đạo hay cách xa đạo. Nếu tâm “không hai” thì còn chỗ nào là thân là sơ ? Thế nên, người hỏi thân sơ là còn kẹt trong niệm phân biệt ắt rơi vào thức tình, không hợp với đạo. Nếu chúng ta lại theo đó mà đáp hoặc thân hoặc sơ tức cũng đồng bị kiểm điểm như họ … Ðại Mai thì chẳng như thế, sư khôn khéo gạt đi một câu: “Hãy đi sáng mai lại”, sau một đêm trằn trọc nôn nóng muốn biết ai thân ai sơ, nên sáng hôm sau Hiệp Sơn đến trước hỏi: “Ai được thân ?”, rõ ràng bày quả tang không còn nghi ngờ. Do đó Ðại Mai liền bảo: “Người thân thì chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng thân”, Hiệp Sơn đành hổ thẹn trở lui.

Thật đau biết mấy ! Ðây là một bài học đích đáng cho những ai còn có niệm tranh chấp thân sơ, đúng sai. Người mà thật “thân” tức một câu nói ra đã đầy đủ tự tin, dù cho ai có phê phán thế nào cũng không nghi, trái lại, nói ra mà còn hồi hộp chờ đợi phê phán đúng sai tức còn mơ màng chưa phải “thân” rồi.

Từ đó suy ra những cuộc tranh chấp thông thường cũng vậy. Giả sử hai người cãi nhau đem đến chúng ta đòi xử ai đúng ai sai, chúng ta chỉ cần lấy đây xét đoán khỏi phải tranh chấp nhiều lời. Vì nếu xử người này đúng, người kia sai, tức kẻ sai liền cho chúng ta bênh vực người này mà ghét bỏ họ, ắt sanh tỵ hiềm với nhau khó mà dung hòa. Cho nên chỉ cần bảo: “người đúng thì chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng đúng”, để mọi người tự xét lấy. Nên nhớ rằng kẻ trông mong cho mình đúng là có tâm muốn hơn người, nếu bị cho sai tức sanh phiền hận, đó là bệnh. Thế nên biết, vừa khởi tâm đúng sai, thân sơ là đã trật rồi. Huống là chỗ “chí đạo” vốn bặt kia đây, dứt tâm chọn lựa, lấy đâu mà nói thân nói sơ, nói đúng nói sai. Vậy ai là người trí hãy khéo xét kỹ, chớ để một chút sai lầm càng xa lý thật.

Túi gạo của Mẹ

- Sưu tầm



Cái nghèo, cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này nhưng dường như nỗi cơ cực, bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con trai bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh, hai mẹ con tự tay mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết định không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi, chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai lớn lên, ngoan ngoãn học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oằn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, bây giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói gì đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học.

- Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn mỗi tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra.

- Có thế nào con cũng không được nghỉ học. Con là niềm tự hào của mẹ, chỉ cần con chăm chỉ học hành, những chuyện khác con không cần bận tâm.

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình phải khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu vào má, cậu mới sững người lại. Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nở. Nghe mẹ cậu khăn gói vào trường nhập học, lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần.

Ít lâu sau, có người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ xin nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu mới nem nép đi vào.

Thầy Hùng giáo vụ nhìn chị nói:

- Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra để tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi. Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy bỗng cau lại, giọng lạnh băng:

- Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tại sao phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, có cả cám gạo, đây còn có cả ngô nữa. Thử hỏi, gạo thế này chúng tôi làm sao có thể nấu cho các em ăn được. Thầy vừa nói vừa lắc đầu.

Nhận vào - Thầy nói không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh.

- Tôi có 50.000 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thầy ?

- Thôi chị cầm lấy để đi đường uống nước.

Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng lên, chân tay thừa thải vì chẳng biết làm gì. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về. Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi cau mày lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm.

- Chị lại nộp loại gạo như thế này sao ? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì chúng tôi cũng nhận nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao nấu cơm cho ngon để các em ăn được ? Chị nghĩ thử xem với loại gạo hổ lốn như thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không ? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao ?

- Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế ! Người phụ nữ bối rối trả lời.

- Thật buồn cười cái nhà chị này. Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng được hàng trăm thứ lúa thế sao ?

Nhận vào - Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.

Người mẹ im bặt. Mặt chị trở nên trắng bệch, nhợt nhạt. Chị lí nhí cảm ơn thầy, rồi lặng lẽ bước thấp bước cao ra về. Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa. Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến. Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị. Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn lên mặt thầy. Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc cho người phụ nữ ấy nhớ:

- Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi thế này. Chị mang về đi, tôi không nhận.

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén lâu ngày bỗng nhiên bùng phát, chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ, khóc vì lực bất tòng tâm. Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế. Chị kéo ống quần lên, để lộ ra đôi chân dị dạng, một bên chân đã quắt queo lại.

- Thưa với thầy. Gạo này là do tôi … tôi đi ăn xin bao ngày gom góp lại mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con trai tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm … Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất.

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế. Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng ngõ hẻm của xóm khác để xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về, chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh là thầy Hùng. Thầy đứng lặng một hồi lâu rồi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ:

- Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ. Chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị. Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với nhà trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hỗ trợ học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:

- Xin thầy, tôi có thể lo cho cháu dù không đủ đầy như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như một người mà chị mang hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về. Lòng thầy xót xa.

Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu nhà trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra học lực của cậu rất khá đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của nhà trường. Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất thủ đô. Trong buổi lễ vinh danh những học sinh ưu tú, khi tên của cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có một điều lạ rằng, trên sân khấu hôm ấy có ba bao tải dứa xù xì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dễ dàng thấy được. Ai cũng thắc mắc, không hiểu bên trong ấy chứa những gì. Trong buổi lễ trang nghiêm ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động kể lại câu chuyện về người mẹ trẻ đi xin ăn nuôi con học thành tài. Cả trường lặng đi vì xúc động. Thầy hiệu trưởng ra hiệu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về. Thầy nói:

- Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ thương con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, tiền vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng đi vì kinh ngạc. Tất cả đều dồn mắt về người phụ nữ chân chất quê mùa, đang được thầy Hùng dìu từng bước khó nhọc lên sân khấu. Cậu con trai cũng quay đầu lại nhìn. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

- Chúng tôi biết, kể câu chuyện này ra sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý, đáng được trân trọng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời vì tương lai con em …

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa, mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc, và ánh mắt ấm áp yêu thương ấy đang hướng về cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì đứng trước đám đông, run run vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng dành cho mình. Với chị, đơn giản chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị dành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.

Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy đến ôm chầm lấy mẹ và mếu máo khóc thành tiếng:

- Mẹ ơi, mẹ của con …

Danh ngôn (63)

- Lão Tử



Lo liệu việc khó từ khi nó còn dễ, làm việc lớn từ khi nó còn nhỏ. Việc khó trong thiên hạ nhất định phải làm từ chỗ dễ, việc lớn trong thiên hạ nhất định phải làm từ chỗ nhỏ bé. Vì vậy bậc thánh nhân suốt đời không làm việc gì lớn cho nên có thể làm nên việc lớn

Sống trong dâu bể

- Thích Nhật Từ



Bao ruồng rẫy giúp tâm ta nhẫn nại
Bao khinh khi giúp ta sống an nhiên
Bao dâu bể giúp ta xem thường thành bại
Bao thế thái giúp ta bỏ não phiền

Sống là để trải tâm ra vạn loại
Sống là hiến dâng, bố thí, cúng dường
Sống là để mang cho đời phúc lợi
Sống để cho nhân loại nhuộm tình thương

Làm sao để tránh phải nói: “TIẾC QUÁ, TÔI LẠI MẮC SAI LẦM NÀY LẦN NỮA RỒI !”

- Tác giả: Brett Israel, Vanderbilt University
- Dịch giả: Thanh Huyền



Các nghiên cứu về tự kiểm soát cho rằng, việc nhận ra các sai lầm trong quá khứ là một phương cách tốt để tránh lặp lại những sai lầm đó. Nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng có thể còn có nhiều thứ liên quan đến vấn đề này.

Để tìm ra đáp án, họ đã quyết định kiểm tra các mức độ hồi tưởng – và đã phát hiện ra rằng tập trung vào các hành vi trong quá khứ không phải lúc nào cũng là ý tưởng đúng đắn. Phó giáo sư marketing thuộc Đại học Vanderbilt Kelly Haws chia sẻ: “Hết sức cẩn thận khi bạn yêu cầu bất cứ ai đào sâu vào những kinh nghiệm quá khứ, vì đó có thể là một cách rất không hiệu quả để thay đổi hành vi trong tương lai cho một cuộc sống tốt đẹp hơn.”

Ở thí nghiệm đầu tiên trong một loạt các thí nghiệm đã được xuất bản trong Journal of Consumer Psychology (Tạp chí Tâm lý Người Tiêu dùng), các nhà nghiên cứu đã chia các đối tượng ra làm hai nhóm. Họ yêu cầu một nhóm nhớ lại những lần tự kiểm soát “thành công”, chẳng hạn như mua giày giảm giá thay vì bỏ tiền để mua những đôi Jimmy Choos mới. Nhóm còn lại đã được yêu cầu nhớ về các lựa chọn yếu kém hoặc “thất bại”.

Sau đó họ đã tạo thêm một sự thay đổi, vì họ muốn biết xem sự thoải mái khi hồi tưởng sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc tự kiểm soát. Để làm điều này, họ đã sử dụng một phương pháp nổi tiếng trong môn tâm lý học nhận thức – họ đã yêu cầu một số đối tượng nhớ nhiều ví dụ hơn những đối tượng khác.

Phương pháp này là hợp lý vì nhìn chung việc gợi lại hai ví dụ trong quá khứ thì thoải mái hơn là mười ví dụ. Vì vậy, những người được yêu cầu nhớ lại hai ví dụ về việc chi tiêu thông minh có thể nghĩ họ đã đưa ra những lựa chọn tuyệt vời, vì sự hồi tưởng này khá dễ dàng. Mặt khác, những người được yêu cầu nhớ mười ví dụ về các quyết định tài chính đúng đắn có thể nghi ngờ đến sự tự kiểm soát của họ. Haws nói: “Bạn bắt đầu lấy sự khó khăn mà bạn đang có để chứng tỏ bạn là ai và bạn giống cái gì.”

Cuối cùng, Haws đã đưa ra cho những người tham gia một ngân sách, sau đó hỏi họ, họ sẽ chi tiêu bao nhiêu cho một mặt hàng mà họ không có đủ khả năng mua – một đôi giày, một cái túi hay một trò chơi video. Trên tổng thể, những người được yêu cầu nhớ chỉ một vài ví dụ thành công đã chi tiêu trong phạm vi cho phép của bản thân. Nhưng những người được yêu cầu nhớ thêm nhiều ví dụ tốt lại thể hiện sự tự kiểm soát kém hơn – họ đã có xu hướng tiêu xài vào các mặt hàng mà họ không đủ khả năng mua. Các kết quả này nhấn mạnh một số yếu tố thú vị về mối quan hệ giữa việc hồi tưởng và sự tự kiểm soát. Có lẽ điều ngạc nhiên nhất là đào sâu vào quá khứ có thể tác động tiêu cực đến hành vi, phụ thuộc vào sự thoải mái của việc hồi tưởng, kể cả khi các ví dụ trong quá khứ là tích cực.

Chúng ta không ngừng viết lại những câu chuyện chúng ta tự kể về bản thân chúng ta – đó là điều làm cho việc hồi tưởng trở thành một phương tiện không đáng tin cậy cho sự tiến bộ, Haws nói. Thay vì đắm chìm trong quá khứ, một chiến lược tốt hơn, khiến hành vi thay đổi một cách tích cực, có thể là đặt ra những mục tiêu cho tương lai, đừng mua đôi bốt 700đô chỉ vì bạn muốn đi nó trong chuyến đi đến Châu u, hay học tập thay vì tiệc tùng để đạt điểm cao cho bài kiểm tra ngày mai.

Tóm lại, nếu chúng ta muốn có sự tự kiểm soát tốt hơn, Haws nói:

“HÃY HƯỚNG VỀ TƯƠNG LAI. ĐỪNG NHÌN LẠI QUÁ KHỨ”

Cát bụi đường bay(46 - 54)

- Thơ Hàn Long Ẩn
- Đoản khúc 46 - 54



46.
Tâm kinh kết nụ bao mùa
Sáng nay bừng nở bên bờ sao sương
Mảnh gương đầu gió rung chuông
Cành khô tiếng động chú chuồn chuồn bay

47.
Nhớ ai dấu lệ lên mây
Đợi ngày Đông Chí mưa gầy ngõ hoa
Bụi đường ví mảnh hồn ta
Tơ bay ngọn cỏ la đà mặt sông

48.
Cuộc chơi nào chẳng phiêu bồng
Cuộc đi nào chẳng âm thầm tiêu tương
Đầm đìa sương khói tà dương
Thả buồn lên suối du phương mịt mờ

49.
Em về chưa kịp giấc mơ
Bàn tay xấp ngửa đã mờ nét phai
Tóc mây kết nụ hoa lài
Kìa trong đôi mắt dấu hài còn in

50.
Thuyền soi bóng nước im lìm
Giữa thinh không một dấu chim hao gầy
Ngày tàn bóng đổ về Tây
Áo trăng phơ phất bên này lạch sông

51.
Thôi em hãy cứ phiêu bồng
Để ta kiết giới tu đông một mình
Soi gương đối diện bóng hình
Đập gương chợt thấy mông mênh đất trời

52.
Nằm đây ta ngắm mây trôi
Gửi thiên thu cả nụ cười hư vô
Môi em chín mọng bao giờ
Sáng nay rụng giữa hai bờ Chân Như

53.
Khi trời phủ bóng sương mờ
Chuyện ngày xưa cũ lời thơ về tràn
Quê hương bến nước đò ngang
Dòng sông hát khúc tơ vàng đón em

54.
Dế buồn cất tiếng kêu đêm
Trúc lay gió động bên rèm sao xanh
Về đi cát bụi chung tình
Về đi Hoàng Hạc nghiêng mình sông ca

Không biết đủ thì bao nhiêu cho đủ

- Tâm Nguyễn



Nhiều người nuôi tham vọng rất lớn, mong muốn điều này lại mong muốn điều kia. Ai sinh ra cũng muốn cuộc sống êm đẹp, dòng đời mang đến cho nhiều may mắn và lựa chọn, nhưng cuộc sống là muôn màu muôn lối, có người này người kia, nếu so sánh sẽ luôn là khập khiễng và luôn có người trội hơn người khác, và người khác nữa lại thua kém người này người kia. Biết bao nhiêu cho đủ, chỉ khi tâm chúng ta an hòa, hài lòng với những gì mình có và biết ơn những thứ, những điều ta đang có, đó mới là mang lại cho tâm hồn chúng ta sự an tịnh.

Thời gian cứ trôi qua mỗi giây phút rồi mỗi ngày mỗi tuần mỗi năm, thấm thoát một cái đã hết một cuộc đời một thế hệ, dòng đời là sự nối tiếp. Mọi sự mọi việc bình bình là đáng quý, song có người lại cho rằng đó là nhàm chán, là tầm thường. Một số người có tham vọng trong cuộc đời, họ có suy nghĩ rằng phải làm nên gì đó ví như công danh phải thành đạt hay danh vọng tiền tài địa vị, cứ ngỡ thành đạt là mục đích mục tiêu then chốt, nhưng đến khi đạt được mục tiêu đó thì mục tiêu khác lại hiện ra giống như chiếc bóng vô hình cứ treo lơ lửng đằng trước mặt chúng ta. Khi ta đang lái con đường đời của ta đi, nếu cứ dang tay mà với chiếc bóng đó thì cũng không với được bởi chúng là luôn ở đó và luôn đứng đằng trước chúng ta, cách chúng ta một khoảng không gian nhất định, như miếng mồi ngon mà ta muốn có nhưng chưa có được. Một số người thành đạt lại cảm thấy tâm hồn trống trải và cô đơn như không có gì có thể bù đắp đủ, họ cố gắng tiêu phí thật nhiều tiền của để chi tiêu và trang trải cho những an ủi tiện nghi cuộc sống, nhưng một góc khuất nào đó họ vẫn thấy lạnh lẽo và cô đơn trong tâm hồn, hay vì họ đã hy sinh đánh đổi thật nhiều những trải nghiệm, những thú vui khác để chạy đua theo thời gian, hay vì một lẽ nào đó .v.v.v.

Khi trái tim chưa biết đủ cứ truy cầu điều này thứ kia, chúng ta sẽ vội vàng thiếu đi sự điềm tĩnh, sự an nhiên để hưởng thụ từng ngụm thời gian, từng hơi thở và sự tồn tại của thời không xung quanh ta, của nhân sinh cảm ngộ, của những lẽ rất giản dị đời thường nhưng có ý nghĩa vô giá, của những thảnh thơi biết hài lòng với những gì mình đang có. Sống chậm lại và bằng thiện tâm mỗi ngày bạn sẽ thấy cuộc sống này thật ý nghĩa, thật nhân sinh và rất nhiều điều bao hàm ẩn chứa trong đó mà chúng ta sẽ cần học hỏi được chứ không phải chỉ những so bì tranh đấu hơn thua.

- Một người khi bệnh tật mới thấy lúc khỏe mạnh là hạnh phúc ước ao.

- Một người khi sinh ra trong cảnh tàn tật hay không may rơi vào cảnh tàn tật mới thấy được bình thường nguyên lành tạo hóa ban cho là ý nghĩa và đáng ước ao biết bao. Nếu người đó có giàu tỉ phú đi chăng nữa cũng không thể mua được hai chữ tự do mà tạo hóa mang lại.

- Một người dẫu có sinh ra trong một gia đình mà mỗi bước chân đều đi trên thảm vàng nhưng không may bị thiểu năng, thiểu não thì cũng không thể biết cách xài những đồng tiền vàng và của cải mà anh ta có một cách bình thường như bao người bình thường khác.

- Có mất đi tự do mới biết trân quý những gì có lúc tự do, có mất đi những gì tạo hóa ban cho mới biết trân quý chúng, vậy chúng ta hãy biết ơn và trân quý những gì chúng ta đang có, đừng để như ai đến lúc mất đi rồi mới nuối tiếc sao khi xưa không cảm nhận là đang may mắn nhường nào.

- Một người sống trên một đất nước nhiều thiên tai và động đất mới trân quý sự bình yên của đất trời, còn chúng ta đang sống trên một đất nước yên bình không động đất, ít thiên tai hơn thì cũng cần trân quý những gì ta đang được hưởng và càng cần phải gìn giữ những gì mà tự nhiên và tạo hóa ban tặng, để con cháu chúng ta mãi cũng sẽ được hưởng sự bình yên như vậy.

Tất cả dường như để phục vụ cho chúng ta, một khi con người sống hài hòa thuận với đất trời, người người đều mang những thiện tâm đồng hóa với vũ trụ thì vũ trụ sẽ mang đến những thuận lợi cho con người. Người xưa có câu “Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa”, ngẫm kể cũng không sai. Khi con người sống bon chen ganh ghét nhau, so đo và đấu tranh quyền lợi, tham lam, chỉ mong muốn có lợi cho cá nhân và ích kỷ vị tư chỉ lo nghĩ cho bản thân, mưu sinh giết hại lẫn nhau thì đất trời cũng như muốn gầm rú thét gào với nhân loại chúng sinh. Cuộc sống sẽ đơn giản hóa hơn nhiều nếu bạn biết ơn, hài hòa và hài lòng với những gì bạn đang có, và bạn sẽ học được cách buông bỏ những phiền muộn không đáng có để điều hướng, lái con thuyền đời bạn rẽ sóng nhẹ lướt trên dòng đời.

Bạn nhìn đời bằng những yêu thương, đời dành cho bạn những yêu thương, bạn nhìn đời bằng những hờn ghen giận dỗi, đời trả lại bạn những hờn ghen nặng trĩu tâm tư, tất cả là do bạn chọn và nuôi dưỡng, bạn nuôi dưỡng thiện tâm thì trái tim bạn và tâm hồn bạn sẽ đầy ắp thiện tâm, cao hơn của thiện là lòng từ bi, từ bi sẽ lan tỏa dịu ngọt sang những người thân yêu của bạn cũng như những người xung quanh bạn và cuộc sống này càng thêm yêu thương, càng thêm đáng sống. Ngược lại bạn nuôi dưỡng hậm hực hận thù và hờn ghen, trong tâm bạn sẽ chứa chất toàn ghen ghét và thù hận, khi đó cuộc sống của bạn và những người xung quanh bạn càng thêm mệt mỏi, thuyền đời bạn và cả họ cũng nặng trĩu phiền muộn ưu tư.

Vậy thì bạn sẽ chọn nuôi dưỡng thiện tâm hay giận dữ, hãy bất đầu từ hôm nay, nếu bạn chưa cho đi những tình cảm yêu thương trong lòng mình, bạn hãy mở tấm lòng nhân ái cho đi những thiện tâm. “Vạn sự khởi đầu nan” - có thể bạn sẽ gặp những dội ngược từ chính trái tim bị tổn thương của bạn, từ chính những thói quen giằng co kéo buộc bạn, nhưng một khi quyết tâm và cố gắng, chúng sẽ không cách nào níu kéo giữ chân được bạn, và bạn sẽ học được cách cho đi, bạn sẽ thấu hiểu rằng cho đi chính là nhận lại.

Có những quy luật nghe thì tưởng đơn giản nhưng để hiểu và thực hiện được có khi là cả một quá trình, có khi có người cả cuộc đời đến tuổi xế chiều muộn mới nhận ra.

Thuyền đời nặng trĩu sao nhẹ lướt
Quẳng gánh lo đi khỏi ưu phiền


Mười hai điều nhân quả

- Thích Viên Thành



Thích cho đi ngày càng nhiều phước báu
Thích cảm ơn điều thuận lợi nhiều hơn
Thích giúp người ta thường gặp quý nhơn
Thích oán trách ngày thêm nhiều phiền não

Thích mãn nguyện niềm vui hay lai đáo
Trốn tránh thời thất bại rất chua cay
Thích sẻ chia bè bạn đến hằng ngày
Thường giận dữ ngày càng nhiều bệnh tật

Thích chiếm dụng sau này thành hành khất
Bố thí thường ngày càng được giàu sang
Thích hưởng thụ nợ khổ lắm đeo mang
Thích học hỏi ngày càng tăng trí tuệ

Buông bỏ là một loại trí tuệ

- Mai Trà biên dịch



Chúng ta thường nói muốn buông bỏ, nhưng rốt cuộc là muốn buông bỏ điều gì chúng ta đã hiểu rõ chăng ? Trong cuộc đời, nếu biết buông bỏ những loại tâm dưới đây, bạn nhất định sẽ được bình thản và hạnh phúc.

1. BUÔNG BỎ TRANH LUẬN
Có rất nhiều người không nhận thức được rằng mình cũng có sai phạm mà luôn hy vọng mình vĩnh viễn đúng. Thực tình là đã không biết rằng, điều này là rất nguy hiểm trong các mối quan hệ với người khác. Ngoài ra nó còn đem lại cho chúng ta và cả người khác áp lực và sự thống khổ lớn. Vì vậy, lúc mà bạn muốn vùi đầu mình vào tranh luận đúng hay sai hãy hỏi lại mình xem làm như vậy có thực sự tốt không ? Nó thực sự đem lại lợi ích cho cả mình và người khác sao ?

2. BUÔNG BỎ HAM MUỐN KHỐNG CHẾ
Hãy buông bỏ ham muốn kiểm soát người bên cạnh của bạn. Bất luận họ là người yêu, đồng nghiệp, người thân, bạn bè hay chỉ là một người quen biết. Đồng thời hãy buông bỏ dục vọng muốn khống chế hoàn cảnh và sự vật, hãy để chúng được tự nhiên với trạng thái của mình. Như vậy, bạn có thể cảm nhận những điều tốt đẹp từ họ.

3. BUÔNG BỎ TRÁCH CỨ
Đừng đi trách cứ người khác, cũng đừng dựa vào cảm nhận của mình để đi oán trách người khác. Nếu chỉ biết trách cứ người khác, có thể bạn sẽ làm hại họ.

4. BUÔNG BỎ TÂM THÁI BI THƯƠNG, HỐI HẬN
Rất nhiều người thống khổ là bởi vì họ luôn nghĩ đến những điều xấu, tiêu cực đã xảy ra. Nếu một việc gì đó không đúng đắn hay mình đã làm sai, đã nhận thức được rồi thì hãy nhìn về phía trước để bước tiếp. Nếu chỉ ngồi đó mà hối hận thì bạn chỉ chìm trong sự giày vò đó mà thôi.

5. BUÔNG BỎ HẠN CUỘC BẢN THÂN
Việc gì là mình có thể làm, việc gì mình không thể làm ? Hãy buông bỏ suy nghĩ này bởi vì nó khiến bạn bị hạn chế trong một vòng cấm. Hãy mở rộng cách suy nghĩ ra, có thể bạn sẽ bay cao hơn những gì bạn tưởng tượng trong suy nghĩ.

6. BUÔNG BỎ TÍNH PHÀN NÀN
Buồn vui là do chính mình lựa chọn, đừng phàn nàn người khác. Trước khi phàn nàn người khác, tại sao bạn không nghĩ cách thay đổi chính mình. Thay đổi cách nhìn nhận của chính mình có thể khiến hoàn cảnh thay đổi, hãy suy nghĩ tích cực.

7. BUÔNG BỎ TÂM PHÊ BÌNH
Kỳ thực mỗi người chúng ta là khác nhau, đừng nên đi phê bình người khác, bởi vì tuy là khác nhau nhưng ai ai cũng mong muốn được vui vẻ, hy vọng được người khác yêu thương và thông cảm.

8. BUÔNG BỎ TÂM HƯ VINH
Đừng nên nói hay làm gì chỉ để lấy lòng người khác. Chỉ có khi bạn sống thật là chính mình bạn mới có thể thực sự khiến mọi người yêu quý.

9. BUÔNG BỎ TÂM PHÁN ĐOÁN TÙY TIỆN
Đừng tự đi định nghĩa những người và những sự việc mà bạn không liễu giải được. Có những điều thoạt nhìn bên ngoài rất kỳ dị không đẹp mắt nhưng những điều tốt đẹp bên trong đó có thể thay đổi hoàn toàn tâm tính của bạn.

10. BUÔNG BỎ CÁI CỚ
Phần lớn chúng ta đều tự hạn chế mình, cho đó là cái cớ để không cố gắng. Phải biết rằng 99% cái cớ đó đều là hư giả.

11. BUÔNG BỎ QUÁ KHỨ
Biết rằng điều này là rất khó nhưng bạn phải hiểu những gì ở hiện tại mới thực sự là điều bạn đang có. Đừng mê hoặc chính mình, cuộc đời là một hành trình tiến về phía trước chứ không phải là điểm kết thúc.

12. BUÔNG BỎ CHẤP TRƯỚC, CHẤP NHẤT
Chấp nhất là sự dính mắc của con người vào một thứ gì đó và sợ hãi mất đi nó. Buông bỏ chất nhất chính là bàng quan, buông bỏ hết thảy. Buông bỏ được chấp nhất con người sẽ trở nên bình thản vô cùng. Đây là một trạng thái siêu việt ngôn ngữ.

BUÔNG, là một loại trí tuệ của cuộc đời
BUÔNG, là một loại thản nhiên, không phải là vứt bỏ, bỏ cuộc.
BUÔNG, là một loại rộng lượng, một loại hiểu biết hoàn toàn.
… chỉ có buông bỏ, không bị chi phối bởi điều gì, bạn mới nắm bắt được niềm vui, niềm hạnh phúc thực sự của bản thân.

Mặt phải và mặt trái của vấn đề

- Quà tặng cuộc sống



Chúng ta quen chìm đắm trong các vấn đề và tự hỏi: “Sai lầm ở đâu ?”, đó là cách thức lạc hậu cần phải thay đổi. Khi chúng ta bắt đầu tìm kiếm điều đúng đắn, cuộc sống của chúng ta sẽ xoay vòng theo các hướng mới. Nếu nhìn nhận vấn đề bằng ánh mắt lạc quan bạn sẽ thấy hài lòng và vui vẻ hơn trong cuộc sống. Mặt phải và mặt trái của vấn đề là bài học ý nghĩa cho chúng ta.