V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Tỉnh ngộ|P.8

- Những câu nói giúp bạn tỉnh ngộ



Bạn không nhất thiết phải quay đầu lại để nhìn xem người “nguyền rủa, mắng chửi” mình là ai.

Ghi hận thì dễ, khoan dung thì khó, ghét bỏ thì dễ mà yêu quý mới là gian nan

- Sưu tầm



Khoan dung – đôi chữ nói nhẹ mà nặng gánh trong lòng. Là người sống trên đời ai cũng có niềm ích kỷ riêng, muốn nghĩ cho người trước khi nghĩ cho mình thì khó hơn dời núi lấp bể. Thế nên, điều tu dưỡng này, phải hiểu mới làm được.

Mỗi người đều mong muốn mình có phong độ, khí chất tốt trong quan hệ giao tiếp. Điều này chắc chắn không phải bẩm sinh mà cần tu dưỡng, bồi đắp. Tài năng có thể là thiên bẩm, nhưng đạo đức phải do học tập. Thông cảm và tha thứ, khoan dung với người khác, với cuộc đời là một việc mà phải sau rất nhiều nỗ lực mới có thể đạt được.

Ghi hận thì dễ, khoan dung thì khó, ghét bỏ thì dễ, mà yêu quý mới là gian nan. Bất cứ ai cũng có thể thù hằn người đã phạm lỗi hoặc tưởng chừng như phạm lỗi với mình, nhưng mấy ai dịu dàng bỏ qua tất cả, không kết oán trong lòng. Bất cứ ai cũng có thể nghiêm khắc với người ngoài, dễ dãi với bản thân nhưng mấy ai làm được điều ngược lại, khoan dung với tất thảy nhưng nghiêm túc chấn chỉnh chính mình.

Thế nên, khoan dung chính là tu dưỡng lớn nhất của đời người. Khoan dung không phải cho người, khoan dung là để cho mình. Trẻ biết khoan dung thì đường đời hoạn lộ, già biết khoan dung thì thanh thản bình an. Khi học được khoan dung, chúng ta sẽ được rất nhiều mà không mất cái gì, những điều được ấy như sau:

ĐƯỢC TÌNH YÊU - Người với người sống trên đời quý trọng nhau bằng tình cảm thì bền lâu, quý trọng nhau bằng vật chất thì tan biến. Lấy lòng rộng rãi mà đối đãi với sai lầm thì tất được trọng vọng, nể phục, yêu mến. Dẫu không thành bạn thì cũng chẳng kết thù.

ĐƯỢC YÊN VUI - Hận người thì lòng mình không an, biết bỏ qua, biết buông xuống thì mới thực sự giải thoát. Không ai hận người mà sống tử tế được, vì ôm hận mà buồn phiền, nên khoan dung với người chính là khoan dung với mình, buông tha nhau khỏi những điều tăm tối.

ĐƯỢC PHÚC BÁO - Nếu trên đời có luân hồi nhân quả thì người biết khoan dung, lấy ơn báo oán tất được phúc báo sâu dày. Nếu trên đời này nhân quả đến muộn, thì người sống biết điểm dừng tất sẽ không làm những việc tiêu cực khiến cuộc sống bế tắc, đó cũng được coi là phúc báo của mình.

Khi đời chưa khép lại

- Thích Tánh Tuệ



Khi ngày chưa khép lại
Sống, ai tin tưởng mình
Chớ nên lừa dối họ
Hãy thật thà, phân minh

Khi bước đời chênh vênh
Ai chìa tay giúp đỡ
Đừng vội quên, hãy nhớ
Thuở cơ hàn, xót xa ...

Kẻ hết lòng thương ta
Đừng cũ vong, mới chuộng
Lợi, danh rồi gió cuốn
Tấm chân tình vĩnh miên

Biển sóng, đời ngửa nghiêng
Về ngồi yên tĩnh lặng
Hết mưa rồi lại nắng
Hận sầu thành an nhiên

Chớ buộc ràng chi thêm
Khi biết trần quán trọ
Sống giữa lòng mưa, gió
Để thắm đời biển dâu

Khi tháng ngày qua mau
Đừng dệt nhiều giấc mộng
Ngưng “thả mồi bắt bóng”
Cốt vẹn toàn hôm nay

Thế sự mãi vần xoay
Bốn mùa thay sắc áo
Mộng trùng trùng mộng ảo
Mời Tỉnh Thức đong đầy

Khi đời chưa khép lại
Hãy sống đúng bây giờ
Đừng muộn màng sực tỉnh
Lúc đời vào cơn mơ

Sống thiền (5)

- Thiền Sư U.Jotika



Tất cả chúng ta đều có những thăng trầm trong cuộc sống. Điều quan trọng là phải nhìn chúng thật khách quan. Tôi sống cuộc đời mình trọn vẹn trong từng khoảnh khắc hiện tại. Không suy nghĩ quá nhiều và làm tâm mình rối tung lên. Chấp nhận cuộc sống như nó đang là và cũng sẵn sàng chết bất cứ giây phút nào. Người ta nói cuộc đời đầy khó khăn. Nó sẽ còn khó khăn hơn đối với những người không cần phải làm việc. Nhưng bạn vẫn có thể sống vui vẻ và học hỏi được rất nhiều từ cuộc đời ...

Cái gì cũng có cái giá của nó

- Sưu tầm

CÁI GÌ CŨNG CÓ CÁI GIÁ CỦA NÓ:

‵ giá của năng lực là trách nhiệm

‵ giá của lãnh đạo là cô đơn

‵ giá của lười biếng là bất tài

‵ giá của ỷ lại là hèn kém

VẬY NÊN, ĐỪNG BỎ CUỘC. Rồi đến một ngày, tất cả sự cố gắng của bạn cũng sẽ được đền đáp xứng đáng.



Lý ngộ

- Tú Anh

“Khách trần rong ruổi miên man
Lang thang trong cõi trần gian não nề
Chợt lòng ngộ lý Bồ Đề
Phật tâm, Chơn tánh, ta về vô sanh”





Năm câu nói có thể thay đổi cả cuộc đời bạn

- Theo thegioitre.vn



Nhiều lúc bạn chỉ muốn gục ngã không thể đi tiếp trên đường đời khi đây là lúc bạn phải nghe năm câu nói này để có thêm động lực cố gắng.

1. Làm người, nhất định phải có lương tâm. Tuyệt đối đừng quên người từng giúp mình. Nếu không, bạn hữu mỗi ngày một ít lại, lối đi mỗi ngày sẽ hẹp hơn. Luôn dặn lấy bản thân: “thà rằng tha thứ cho người, đừng để người khác phải tha thứ cho mình”.

2. Ở đời có khi không hẹn được lần sau, không còn cơ hội bù đắp, không có chuyện tạm dừng rồi sau này tiếp tục, đôi khi vừa qua đi đã trở thành vĩnh viễn, nên hết mình - trân trọng lấy hiện tại.

3. Cuộc sống, yên ổn là tốt. Con người, đơn giản thì khỏe. Không cần quá để tâm đến những ánh nhìn và lời nói sau lưng, nó chỉ khiến bạn phiền lòng mà không thay đổi được hiện thực. Nên nhớ không ai có thể làm ta phiền muộn, chỉ là ta tự lấy lời nói và hành động của người khác quấy nhiễu chính mình.

4. Đôi khi gặp phải sự phản bội hay chuyện không như ý khiến tâm trạng trở nên tồi tệ, cũng là chuyện bình thường. Bạn nên hiểu đó chỉ là một bộ phận của cuộc sống, hãy kiềm chế cảm xúc, hóa giải muộn phiền và đứng dậy thoát ra khỏi nó để đến với những điều tốt đẹp hơn.

5. Nếu chuẩn bị lập gia đình hay bắt đầu một mối quan hệ, xin gửi đến bạn một câu triết học nổi tiếng: “bạn nhất định phải nhẫn nại và bao dung đối với những khiếm khuyết của đối phương, trên thế giới này không có mối quan hệ nào là hoàn toàn tốt đẹp, mà hạnh phúc chỉ đến từ lòng tôn trọng và sự bao dung không giới hạn”.

7 đức hạnh “lạc hậu, phong kiến” nhưng lại là cái gốc cần có của người phụ nữ

- Theo trithucvn.net



Bảy đức hạnh được nữ sử gia Ban Chiêu bàn đến, nhiều người thời nay coi là lạc hậu, phong kiến. Tuy nhiên đó mới chính là những điều cần có của một người phụ nữ vừa tài năng, xinh đẹp lại hiền lành.

Ban Chiêu, tự Huệ Ban, là nữ sử học gia đầu tiên của Nho gia, đồng thời là nhà văn thời Đông Hán. Bà sinh ra trong một gia đình có truyền thống học vấn uyên thâm. Cha bà là Ban Bưu, đại văn hào thời Đông Hán, anh trai cả Ban Cố là người biên soạn sách Tiền Hán thư. Sinh thời, Ban Chiêu thường được truyền vào hoàng cung dạy kinh sử cho hoàng hậu, quý phi, hay cung nhân, và được gọi là Lão Sư. Năm 70 tuổi, Ban Chiêu soạn ra một bộ quy phạm lễ giáo hoàn chỉnh dành cho phụ nữ gọi là “Nữ giới” (Tạm dịch: Những quy phạm đạo đức dành cho người phụ nữ). Trong cuốn sách này, bà đưa ra bảy thiên với bảy phương diện đức hạnh và hành xử lễ nghi để quy phạm người phụ nữ xử thế lập thân, đã tạo nên ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc mấy ngàn năm sau này. Vậy bảy phương diện này bao hàm những gì ?

Phần thứ nhất – “TI NHƯỢC”

Ban Chiêu dẫn hướng người phụ nữ phải lấy nhu nhược làm điều mỹ lệ, lấy nhu thuận khiêm nhường làm đức hạnh. Ti nhược là gì ? Trong “Nữ giới”, bà viết: “Khiêm nhường cung kính, trước người sau mình. Làm điều thiện không cầu lưu danh, làm điều sai trái không chối bỏ. Nhẫn nhục chịu đựng, luôn tỏ ra sợ hãi, chính là ti nhược vậy”.

Như vậy, có thể thấy ti nhược không phải là thấp kém hèn mọn, mà là mềm yếu khiêm tốn. Điều này là tương tự với tính “khiêm cung” của bậc quân tử. Người phụ nữ cần có đức khiêm tốn nhẫn nhượng, đối với hết thảy mọi người, sự việc, đồ vật đều chân thành cung kính. Điều tốt trước tiên dành cho người khác, bản thân mình có thể khiêm nhường lùi bước ở sau. Làm việc thiện không khoa trương, làm việc sai không thoái thác trách nhiệm.

Ngoài ra, còn phải biết nhẫn nhục gánh vác trách nhiệm, thường phải xét xem bản thân đã làm đủ tốt hay chưa. Đây chính là sự “khiêm ti nhu nhược” của người con gái. Kiêu căng chuốc lấy tổn hại, khiêm tốn hưởng được lợi ích, giống như nước hướng về phía dòng chảy thấp mà lưu chuyển. Một người khiêm tốn, ước thúc nội tâm, cung kính, nhu thuận, thì dù ở hoàn cảnh nào cũng tự nhiên sẽ nhận được sự hoan nghênh của mọi người. Vì vậy, có thể nói “ti nhược” là đạo xử thế căn bản nhất của người phụ nữ.

Phần thứ hai – “PHU PHỤ”

Người xưa từng nói: “Đạo của vợ chồng, tham chiếu theo nguyên lý âm dương, thông suốt theo chỉ dẫn của thần minh, tin theo đạo nghĩa vĩnh hằng của thiên địa, cũng chính là đại tiết của nhân thường luân lý vậy”.

Ở đây có thể giải thích rằng, đạo lý vợ chồng là căn cứ theo nguyên lý âm dương hòa hợp, vốn mang theo luân lý của đất trời, đã tạo nên quan hệ xã hội cơ bản nhất của nhân loại, là điều quan trọng nhất của nhân luân. Trong hôn nhân, người vợ đã nguyện ý trao lại cả cuộc đời của mình cho người chồng, còn người chồng phải gánh vác trên vai trách nhiệm đối với người vợ. Người chồng nếu không có đức hạnh, thì không có cách nào dẫn dắt người vợ. Người vợ nếu không có hiền đức, thì không cách nào phụ giúp người chồng. Người chồng không dẫn dắt được cho vợ, thì mất đi uy nghiêm. Người vợ không giúp đỡ được cho chồng, thì mất đi đạo nghĩa.

Phần thứ ba – “KÍNH THẬN”

Thiên “Kính thận” bàn rằng: “Đặc tính âm-dương hai bên là bất đồng, hành vi nam-nữ cũng có khác biệt. Dương tính lấy cương cường làm phẩm cách, âm tính lấy ôn nhu làm biểu trưng, nam nhân lấy cường tráng làm cao quý, nữ nhân lấy mềm yếu làm mỹ lệ”.

Ở đây Ban Chiêu chỉ rõ rằng, đạo “cung kính nhu thuận” là lễ nghĩa đứng đầu của người phụ nữ. Cung kính không đòi hỏi điều gì khác, chỉ cần kiên trì bền bỉ, nhu thuận không đòi hỏi điều gì khác, chỉ cần khoan dung nhẫn nại. Người trường kỳ gìn giữ sự cung kính sẽ biết có chừng mực, khoan dung với người khác, đã thiện lại cung kính.

Cổ nhân nói đạo kính thuận, là cái “lễ” của người vợ. Tất nhiên, người chồng cũng cần phải có sự “cung kính” và “hòa thuận”. Nhưng sự cung kính của người chồng cũng là thể hiện sự bền bỉ nhẫn nại, sự hòa thuận người chồng chính là bao dung rộng lượng. Làm chồng trong vợ chồng, lấy nghĩa mà hòa thân, lấy ân mà hảo hợp. Giữa vợ chồng với nhau lấy ân nghĩa mà đối đãi, lấy cương nhu hỗ trợ nhau, âm dương tương hợp, “tương kính như tân”, mãi mãi kính trọng nhau như khi mới cưới, làm được đến điểm này, mới có thể thực sự đắc được hạnh phúc mỹ mãn.

Phần thứ tư – “PHỤ HÀNH”

Trong phần “Phụ hành” viết: “Người phụ nữ có tứ hành gọi là phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công. Đây là đại đức không thể thiếu của người phụ nữ, cũng chính là tứ đức trong tam tòng tứ đức”.

Ban Chiêu cho rằng, người phụ nữ không cần phải tài hoa tuyệt thế, khi nhàn rỗi thường luôn tĩnh lặng, giữ lễ tiết chính trực, hành xử khuôn phép biết xấu hổ, động tĩnh luôn có phép tắc, chính là phụ đức. Phụ ngôn chính là không cần phải biện luận ngôn từ sắc sảo, nhưng cần lựa chọn ngôn từ mà nói, không nói những lời ác xấu, trái với đạo đức, biết tùy thời điểm mà nên nói những lời nào, đồng thời cũng không dối trá thị phi. Phụ dung không cần thiết phải có nhan sắc mỹ lệ, mà biết giặt sạch bụi bẩn, phục sức tinh tươm, tắm gội sạch sẽ, thân không nhơ nhuốc. Phụ công không cần thiết phải có kỹ xảo hơn người, chỉ cần chuyên tâm thêu thùa may vá, không gây mâu thuẫn hay đùa cợt quá phận, biết chuẩn bị đồ ăn thức uống đầy đủ, thiết đãi khách đến nhà.

Phần thứ năm – “CHUYÊN TÂM”

“Chuyên tâm” chỉ một đạo lý thủy chung không thay đổi đối với người phụ nữ, người chồng là chỗ dựa của người vợ, vợ chồng vĩnh viễn thủy chung không xa rời, chính là đạo lý này. Bên cạnh đó, chuyên tâm còn bao gồm cả sự chuyên tâm chính sắc. Ở đây hàm ý là phải thủ lễ thủ nghĩa, thuần tịnh thuần thiện, những gì không phù hợp lễ tiết tuyệt đối không nghe, mắt chỉ nhìn điều đoan chính, không nhìn ngang liếc dọc, đi ra ngoài không ăn mặc diêm dúa lẳng lơ, ở nhà cũng không thể mặc quá tùy tiện. Không kết giao cùng với người không đoan chính, không phẩm hạnh, không trầm mê vào thế giới phồn hoa.

Phần thứ sáu – “KHÚC TÒNG”

Ban Chiêu giảng dạy đạo giữa mẹ chồng và con dâu, nói rằng phu thê tuy rằng ân ái, nhưng nếu như con dâu không được cha mẹ chồng thừa nhận, gia đình đó cũng không thể nào thực sự hòa thuận vui vẻ, vậy phải làm sao để có được sự thành tâm yêu thương của cha mẹ chồng, chính là cần làm được “Khúc tòng”. Khi đáp lại lời cha mẹ chồng, cần lễ phép vâng lời, cho dù nói không đúng cũng phải tuân theo. Không nên tranh cãi thị phi rạch ròi, đây chính là “khúc tòng”. Kỳ thực đây cũng là một loại phẩm chất thuộc về cung kính nhu thuận, là đức hạnh tôn kính trưởng bối, cũng là đức tính nhẫn nhục. Thị phi tự có công luận, còn nhẫn được dù chỉ một thời khắc cũng sẽ thấy đất trời rộng mở.

Phần thứ bảy – “THÚC MUỘI”

Anh trai, chị dâu, em gái nhà chồng, tuy rằng cùng không có quan hệ huyết thống, nhưng lại có tình nghĩa và nhân duyên thân thích thâm hậu. Là một người con dâu, phải biết kính trọng và yêu thương người nhà. Một người phụ nữ tốt biết khiêm tốn nhu thuận, nhất định có thể chung sống vui vẻ hòa thuận với gia đình chồng và người nhà.

Bảy thiên này trong Nữ giới của Ban Chiêu, ngôn từ khẩn thiết, dụng tâm lương khổ. Thông qua đó, bà muốn lưu lại cho hậu thế một bộ hành xử quy phạm nữ đức, nếu như người phụ nữ nào cũng làm theo được như vậy thì mỗi một gia đình sẽ đều ổn định, dân tộc có thể sinh sinh bất tức, văn hóa truyền thống sẽ được lưu truyền trường tồn.

Tại sao một nữ sử gia nổi tiếng của Trung Hoa, người từng nhiều lần bàn luận chính sự cùng Hi Đặng thái hậu khi thái hậu phải chấp chính thay con nhỏ, lại vẫn muốn lưu giữ lại các giá trị văn hóa truyền thống mà người thời nay coi là lạc hậu, phong kiến ? Đây âu cũng là một điều đáng để người ta suy ngẫm vậy.

Danh ngôn (100)

- Ngạn ngữ Ba Lan



Kẻ hoang phí sẽ là kẻ ăn mày trong tương lai, kẻ tham lam là kẻ ăn mày suốt đời.

D.P.A (15)

- Sưu tầm

Trăm năm, một phút vô thường
Lợi danh, tài sắc, … muôn đường quẩn quanh



Người tàn mộng

- Thích Tánh Tuệ



Khi nằm mộng ai biết mình đang mộng
Tỉnh giấc rồi mới biết đã từng mơ
Người tu Đạo, hỏi bao giờ hết mộng
Thưa, là khi khai ngộ, thoát mê mờ

Này hành giả, con đường nào khai ngộ
Cuốn kinh nào mở ngỏ chốn vô sanh
Rừng Phật pháp ... nơi nao bày quang lộ
Chữ nghĩa đầy ... con kiến mãi bò quanh

Khi học Phật nên vén màn ngôn ngữ
Đạt ý rồi ngay đó hãy vong ngôn
Giới - Định - Tuệ ba khóa vàng nên giữ
Chánh Niệm trên thân, ngữ với tâm hồn

Có đôi lúc mải lo tìm chìa khóa
Trong túi chìa vẫn đó lại không hay
Hãy ngồi xuống Lặng Yên và Nhận Biết
Mặt trời hằn sau lớp lớp mây bay

Lúc thất vọng, hồn chìm trong quá khứ
Khi âu lo là sống ở tương lai
An trú xả, tuệ tri cùng thực tại
Mộng mê đời ... thôi dứt kể từ đây

Bạn chỉ cần làm người tốt, trời cao đã tự có an bài

(Sưu tầm)



Khi chúng ta gặp phải những chuyện không như ý, hãy nhớ rằng, mọi sự đều đã có an bài tốt nhất, những khó khăn kia bất quá chỉ là một chút động lực để cho ta ngày càng hoàn thiện bản thân mình.

Có một quốc vương thích săn bắn và thường hay cùng với thừa tướng cải trang vi hành. Câu cửa miệng mà vị thừa tướng thường hay nói nhất chính là “mọi chuyện đều là an bài tốt nhất”. Một ngày kia, quốc vương vào rừng săn bắn, một mũi tên bắn ngã một con báo hoa. Quốc vương vội xuống ngựa kiểm tra chiến lợi phẩm của mình, nào ngờ, con báo hoa đột nhiên bật dậy, dùng hết sức lực sau cùng bổ nhào về phía quốc vương, ngón tay út của quốc vương bị nó cắn đứt một đoạn. Quốc vương cho gọi thừa tướng đến uống rượu giải sầu, nào ngờ thừa tướng lại mỉm cười nói:

- Bệ hạ, mong người hãy nghĩ thoáng một chút, mọi chuyện đều là sự an bài tốt nhất cả !

Quốc vương nghe xong rất tức giận, nói:

- Nếu như quả nhân tống giam nhà ngươi vào ngục, đây cũng là an bài tốt nhất ư ?

Thừa tướng mỉm cười, nói:

- Nếu là như vậy, thần cũng tin chắc rằng đây là an bài tốt nhất.

Quốc vương giận dữ, sai người áp giải thừa tướng vào trong ngục giam. Một tháng sau, vết thương của quốc vương đã lành, một mình vi hành bên ngoài. Ông đi đến một núi xa xôi, bỗng một nhóm thổ dân từ trên núi xông đến, bắt trói quốc vương rồi giải về bộ lạc.

Bộ lạc nguyên thủy trên núi hàng tháng đến ngày trăng tròn đều sẽ xuống núi tìm vật hiến tế để cúng tế nữ thần trăng tròn, người thổ dân chuẩn bị đem quốc vương đi thiêu sống. Ngay trong lúc quốc vương cảm thấy tuyệt vọng, thầy tế mặt bỗng biến sắc, ông phát hiện ngón tay út của quốc vương thiếu mất một nửa, là tế phẩm không được nguyên vẹn, nhận lấy tế phẩm như vậy nữ thần trăng tròn sẽ nổi cơn thịnh nộ, thế là thổ dân bèn thả quốc vương đi.

Quốc vương mừng rỡ vô cùng, sau khi về cung gọi người thả thừa tướng ra, bày tiệc rượu, quốc vương mời rượu thừa tướng, nói:

- Lời khanh nói quả không sai chút nào, mọi chuyện đều là sự an bài tốt nhất. Nếu như không phải trẫm bị con báo hoa đó cắn thì hôm nay e rằng ngay cả mạng sống cũng đã không còn.

Quốc vương như chợt nhớ ra điều gì đó, hỏi thừa tướng:

- Còn khanh vô duyên vô cớ bị tống giam trong ngục hơn một tháng như vậy, đây lại nói thế nào đây ?

Thừa tướng chậm rãi uống một ngụm rượu, rồi nói:

- Nếu như thần không phải bị giam trong nhà ngục, thế thì người cải trang đi cùng với bệ hạ nhất định là thần rồi, khi thổ dân phát hiện bệ hạ không thích hợp làm vật tế nữa, thế chẳng phải sẽ đến phiên thần hay sao ?

Quốc vương không nhịn được, lớn tiếng cười ha hả, nói:

- Quả nhiên không sai, mọi chuyện đều là sự an bài tốt nhất !

Câu chuyện này nói với chúng ta một đạo lý, khi chúng ta gặp phải những chuyện không được như ý, hết thảy điều này nói không chừng lại chính là sự an bài tốt nhất, vậy nên ta không cần phải phiền não, càng không nên chán nản, chỉ nhìn mọi chuyện trong nhất thời. Hãy để tầm mắt vươn xa hơn, đừng tự oán trách bản thân, càng không nên oán trời trách người. Một điều chắc chắn là tâm trạng tiêu cực không bao giờ giúp cho bạn vượt qua nghịch cảnh, chỉ có sự dũng cảm đối diện, nỗ lực và tin rằng trời không tuyệt đường người, bạn sẽ thấy trắc trở nào thực ra cũng đều là món quà của Thượng Đế mà thôi. Kỳ thực, chỉ cần chúng ta nhớ lại mỗi một chuyện diễn ra trong đời chúng ta một cách tường tận, cũng đều có thể nói với bản thân lời này: “mọi chuyện đều là an bài tốt nhất”.

Ngón tay chỉ mặt trăng

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương XXXII, Thích Nhất Hạnh

Một buổi chiều nọ, hai vị đại đức Sariputta và Moggallana đến thăm Bụt nơi tịnh xá của người và giới thiệu với Bụt một người quen thân của họ, du sĩ Dighanakha. Du sĩ Diganakha không phải là đệ tử của đạo sĩ Sanjaya nhưng cũng rất nổi tiếng, Dighanakha là cậu ruột của đại đức Sariputta. Nghe nói hai người thân nhất của mình đã xuất gia theo Bụt, ông tìm tới để hỏi thăm Bụt về giáo pháp của người. Thay vì mô tả và tường thuật, hai vị đưa ông đến trực tiếp gặp Bụt.

Diganakha nói với Bụt:

- Sa môn Gotama, Ngài dạy giáo pháp gì ? Chủ thuyết của ngài là chủ thuyết nào ? Riêng tôi, tôi không thích một chủ trương hay một lý thuyết nào hết. Tôi không tin vào một chủ trương hay một lý thuyết nào hết.

Bụt mỉm cười hỏi:

- Vậy Ngài có thích cái chủ trương “không thích” của ngài không ? Ngài có tin cái chủ trương “không tin” của Ngài không ?

Vị du sĩ ngỡ ngàng. Ông ta nói liều:

- Sa môn Gotama, tôi thích hay không thích, tôi tin hay không tin, thì cũng như vậy thôi, điều đó không quan hệ gì mấy.

Bụt từ tốn:

- Một khi đã bị kẹt vào một chủ thuyết rồi thì người ta mất hết tự do, người ta trở nên độc đoán, cho rằng chỉ có chủ thuyết của mình mới là chân lý còn tất cả những chủ thuyết khác đều là tà đạo. Những tranh chấp và cãi cọ được phát sinh từ thái độ cố chấp này. Những tranh chấp và cãi cọ ấy có thể kéo dài bất tuyệt, làm mất rất nhiều thì giờ quý báu và có thể tạo ra xung đột và chiến tranh. Vì vậy cho nên kiến thủ là trở ngại lớn lao nhất trên con đường tu học.

- Kiến thủ là gì ?

- Kiến là nhận thức, là quan điểm. Thủ là sự cố chấp. Kiến thủ là cố chấp vào một nhận thức hay một quan điểm. Cố chấp như vậy là bị kẹt, vì bị kẹt cho nên cánh cửa chân lý không còn cơ hội mở ra cho mình nữa.

Này ông bạn, để tôi kể cho ông bạn nghe câu chuyện này. Có một người lái buôn góa vợ kia đang sống với một đứa con trai năm tuổi. Anh ta cưng chìu con, xem đứa nhỏ là lẽ sống của đời mình. Một bữa nọ trong khi anh ta bỏ hàng đi vắng, kẻ cướp đến đốt xóm đốt làng, cướp bóc và bắt đứa con của anh đi theo. Khi về tới nơi, người cha trẻ thấy thi hài một em bé cháy đen nằm bên căn nhà đã cháy rụi của mình, anh ta tin ngay rằng con mình đã chết. Anh ta khóc lóc, làm lễ hỏa thiêu thân xác đứa bé, vì thương con quá, anh ta cất tro của đứa bé vào một cái túi gấm và đi đâu cũng mang theo bên mình. Mấy tháng sau, đứa con của anh ta thoát được tay ke cướp và tìm về được vào lúc nửa đêm. Nó gõ cửa đòi vào. Lúc ấy người cha trẻ đang ôm chiếc túi gấm đựng tro và than khóc một mình. Anh ta không chịu đứng dậy mở cửa. Anh ta tin rằng con anh đã chết thật rồi, và đứa trẻ đang gõ cửa ngoài kia là một đứa trẻ hàng xóm mất dạy nào đó đang cố tình trêu ghẹo anh. Vì vậy mà đứa con thật của anh ta phải thất thểu ra đi, và người cha khốn khổ kia vĩnh viễn mất đứa con duy nhất. Này ông bạn, nếu ta cố chấp vào một chủ nghĩa và cho đó là chân lý tuyệt đối, ta sẽ lâm vào tình trạng của người cha trẻ kia. Ta sẽ không mở lòng ta ra được để đón nhận chân lý. Ta sẽ có cảm tưởng rằng ta không cần đi tìm sự thật nữa, vì ta đã có sự thật rồi. Lúc ấy nếu sự thật có tới gõ cửa tìm ta, ta cũng sẽ từ chối không mở cửa.

Diganakha hỏi:

- Vậy giáo pháp của Ngài dạy có phải là một chủ nghĩa không ? Cố chấp vào nó có phải là kiến thủ không ?

- Giáo pháp của tôi chỉ dạy không phải là một chủ nghĩa hay một lý thuyết. Nó không hình thành do công phu suy tư và ức đạt của trí năng, như những chủ thuyết chủ trương về bản chất của vũ trụ, cho rằng bản chất ấy là lửa, nước, là đất, là gió hay là thần linh hoặc cho rằng vũ trụ hữu hạn hay vô hạn, hữu biên hay vô cùng .v.v.v. Trí năng ức đạt và suy tư về sự thật cũng như con kiến bò quanh miệng bình bát không đưa ta đi đến đâu cả. Không, giáo pháp của tôi dạy không phải là một chủ thuyết xây dựng trên trí năng. Đó là kinh nghiệm thực chứng, những gì tôi nói ra tôi đều đã thực chứng, và ông bạn cũng có thể kiểm điểm lại bằng kinh nghiệm thực chứng của ông bạn. Tôi nói vạn vật là vô thường và không có tư ngã. Điều này tôi đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm. Tôi nói vạn vật nương vào nhau mà sinh khởi, tồn tại, và hoại diệt, chứ không phải xuất phát từ một nguyên nhân đầu tiên nào hết. Điều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm. Tôi nói quán chiếu về vô thường, vô ngã và duyên sinh thì có thể đạt tới giải thoát và an lạc. Điều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm. Những điều tôi nói không có mục đích thuyết minh về vũ trụ mà chỉ có mục đích hướng dẫn sự thực tập và chứng nghiệm thực tại. Lời nói không diễn tả được thực tại, chỉ có kinh nghiệm trực tiếp mới làm cho ta tiếp xúc được với thực tại.

Diganakha thốt lên:

- Hay quá, hay quá, sa môn Gotama ! Nhưng trong trường hợp mà có người nhận thức giáo pháp của Ngài như một chủ thuyết thì sao ?

Bụt im lặng gật đầu:

- Du sĩ Diganakha, câu hỏi của ông bạn hay lắm. Giáo pháp của tôi không phải là một chủ thuyết do trí năng tạo dựng, nhưng sau này và ngay cả bây giờ nữa, đã có thể có những người nhận giáo pháp ấy như một chủ thuyết. Tôi cần nói rõ, giáo pháp của tôi là một phương tiện để đi vào thực tại chứ không phải là để miêu tả thực tại, cũng như ngón tay chỉ lên mặt trăng không phải là mặt trăng. Người khôn khéo phải nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng. Nếu cố chấp vào ngón tay, nếu cho ngón tay là mặt trăng thì sẽ không có cơ hội nào thấy được mặt trăng cả. Giáo pháp của tôi là để thực tập chứ không phải là để cất giữ mà thờ phụng và ca ngợi. Chiếc bè là để giúp ta qua sông chứ không phải để ta vác lên trên vai mà tự hào. Này các bạn, giáo pháp tôi dạy cũng như một chiếc bè. Phải sử dụng nó để đi sang bên bờ bên kia, bờ giải thoát.

- Xin Bụt chỉ bày cho tôi con đường có thể vượt thoát được những cảm thọ sầu khổ.

- Cảm thọ có ba loại: cảm thọ dễ chịu, cảm thọ khó chịu và cảm thọ không dễ chịu cũng như không khó chịu. Cả ba loại cảm thọ đều có gốc rễ hoặc trong thân thể hoặc trong tâm ý và nhận thức. Cảm thọ có sinh có diệt như bất cứ hiện tượng tâm vật lý nào. Phương pháp tôi chỉ bày là phương pháp quán chiếu. Quán chiếu để có thể thấy được bản chất và nguồn gốc của các cảm thọ, dù là lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ. Thấy được nguồn gốc của các cảm thọ rồi, ta sẽ thấy được bản chất của cảm thọ. Ta sẽ thấy cảm thọ cũng có tánh vô thường và vô ngã như tất cả các pháp khác. Sự sinh diệt của chúng dần dần sẽ không động được tới ta. Hầu hết các cảm thọ khổ đau của ta đều bắt nguồn từ nhận thức sai lầm của ta về thực tại. Nhổ bật gốc rễ của những sai lầm ấy lên thì khổ thọ không còn. Các vị nên biết, nhận thức của con người đầy dẫy sai lầm. Vạn pháp vô thường mà cho là thường, vạn pháp vô ngã mà cho là ngã. Đó là vô minh. Vô minh là nguồn gốc của khổ đau. Tu tập đạo giải thoát tức là diệt trừ vô minh của nhận thức. Điều này quý vị chỉ có thể thực tập bằng phép quán chiếu chứ không thể thực tập bằng cách cầu nguyện và tế tự.

Trong khi Bụt nói, các đại đức Sariputta và Moggallana đều có mặt. Họ đứng sau lưng người. Kaludayi cũng có mặt. Thầy thị giả Nagasamala cũng có mặt. Channa cũng có mặt, nhưng người thấu đạt sâu sắc những những lời Bụt nói là đại đức Sariputta. Thầy thấy tâm trí thầy sáng lên như có một mặt trời tỏa chiếu. Không ngăn được xúc cảm, thầy chắp tay sụp lạy xuống trước mặt Bụt.

Moggallana cũng cảm động không kém. Thấy bạn lạy xuống, thầy cũng lạy xuống. Du sĩ Diganakha đã thấy thấm thía từ lúc Bụt kể chuyện người cha trẻ mất con, bây giờ được hoàn toàn chinh phục. Thấy hai bạn lạy xuống, ông cũng lạy xuống. Ông xin Bụt được xuất gia theo học với người. Kaludayi và Channa được chứng kiến cảnh tượng này rất lấy làm cảm động. Trong họ nảy sinh vừa niềm tin tưởng vừa sự tự hào. Mấy hôm sau đó, hoàng hậu Vedehi cùng người của hoàng gia đưa thực phẩm đến cúng dường đại chúng. Hoàng hậu lại đem theo cả một cây bông sứ để trồng phía bên trái túp lều của Bụt. Hoàng hậu nhớ mãi câu chuyện tiền thân về cây bông sứ mà Bụt đã kể cho trẻ em trại sân rồng hơn một tháng trước.

Dưới sự hướng dẫn của Bụt, đại chúng tu học rất tinh tiến và đạt được rất nhiều tiến bộ. Các đại đức Sariputta và Moggallana đã trở nên những ngôi sao sáng nhờ sự thông minh, công phu hành trì và tài lãnh đạo của họ. Cùng với các vị đại đức khác như Kondanna và Kassapa, họ giúp Bụt tổ chức và hướng dẫn tăng đoàn một cách rất hữu hiệu. Uy tín của tăng đoàn càng ngày càng lên cao và vì vậy tại thủ đô Rajagaha đã bắt đầu có một luồng dư luận nói xấu Bụt. Nguồn dư luận này có thể đã phát xuất từ những giáo phái có tư tưởng cạnh tranh. Các vị đệ tử tại gia đến tu viện Trúc Lâm để cúng dường và học hỏi thỉnh thoảng lại nói đến nguồn dư luận này. Người ta đồn đãi rằng từ khi Bụt đến thành Vương Xá, người đã quyến rũ hàng ngàn người thanh niên tuấn tú theo một đạo mới. Họ nói không biết sau này bao nhiêu ngàn người con trai nữa sẽ bỏ nhà bỏ cửa theo Bụt, và bao nhiêu người con gái lớn lên sẽ không lập được gia đình và nối dõi được tổ tông.

Một số các vị khất sĩ không mấy hài lòng khi nghe những lời buộc tội này. Rốt cuộc tiếng đồn tới được tai Bụt. Bụt an ủi các vị khất sĩ và các vị đệ tử tại gia: “quý vị đừng phiền muộn về những lời đồn đãi đó, những lời đồn đãi đó trước sau gì cũng sẽ im bặt”. Mà đúng như thế. Chỉ trong vòng nửa tháng sau, không ai còn nói đến luồng dư luận kia nữa.

“Luật ngầm”

- Tuệ Nghi



Cuộc đời không đẩy ai vào bước đường cùng, chỉ có con người tự đẩy nhau vào ngõ cụt.

Hoa bình minh

- Thích Tánh Tuệ



Hãy bắt đầu ngày mới
Hồn nhiên một nụ cười
Nụ cười thành hoa nắng
Gửi đất trời ... muôn nơi
Đừng ước mơ thay đổi
Cả thế giới quanh mình
Đó chỉ là ảo tưởng
Hãy đổi thay cách nhìn

Nếu đời quăng trái chanh
Nhớ làm ly giải khát
Nhỡ gặp người tệ, ác
Biến rác thành bông hoa
Đừng quan trọng thái quá
Mọi việc nơi trần gian
Chuyện chi rồi cũng vậy
Rủ nhau cùng ... mây tan

Mấy mươi năm mở mắt
Rồi ngủ vùi đất sâu
Sống một ngày Tỉnh Thức
Ấy - đã là thiên thâu
Niềm an vui vốn dĩ
Từ nội tâm yên bình
Khi lòng đầy hoan hỉ
Thế giới này đẹp xinh

Cuộc đời, chỉ cần một mái nhà, một người bạn, một chút tiền là đủ

- Tuệ Tâm


Đời người, nói dài cũng không quá dài, nói ngắn cũng không phải là quá ngắn. Khỏe mạnh chính là điều cần thiết nhất, cứ sống khờ khạo một chút, phóng khoáng một chút, vui vẻ một chút, như vậy là đã đủ rồi.

Có nhiều thứ, đừng đợi đến lúc mất đi rồi mới bắt đầu hối tiếc. Lúc khỏe mạnh, chúng ta chưa từng biết quý trọng, vẫn thường cho bản thân là tráng kiện mà không biết bảo vệ, giữ gìn. Nhưng có những thứ, một khi đã mất đi, mới hiểu được giá trị của nó, mới thấy trân quý nó. Đời người, khờ khạo một chút để cho lòng mình được thảnh thơi. Việc lớn thì cần rõ ràng minh bạch, những việc nhỏ thì có thể mắt nhắm mắt mở cho qua. Đây cũng là cách hành xử người thông minh.

Cuộc sống vốn ngắn ngủi nhưng lại lắm khổ đau, vậy nên, hãy cứ vui vẻ, quý trọng cuộc sống của mình, quý trọng sinh mệnh của mình, hưởng thụ cuộc sống của mình. Hãy để cho trái tim tự do bay lượn, quên đi tất cả những yêu ghét vui buồn, làm một người vui vẻ. Đừng lãng phí thời gian đi hận những người không đáng hận.

Người sống trên đời, không thể không yêu không hận, cũng không sao tránh khỏi những mâu thuẫn. Nhưng chỉ cần bạn suy nghĩ một chút, người kia có đáng để bạn oán hận hay không ? Tôi chỉ có thể nói cho bạn biết, không cần phải lãng phí thời gian quý giá của mình để đi oán hận một người không đáng. Hận một người không xứng đáng, đó là việc làm xuẩn ngốc nhất trên đời.

Có một người tri kỷ, cùng bạn vượt qua những khoảnh khắc cô đơn, những khi lạc lõng, có thể tìm được người để tâm sự, trong lúc phiền não, có thể có người ở bên cạnh, sưởi ấm tâm hồn. Có được một người bạn, hơn nữa còn là tri âm tri kỷ chính là tài phú. Một người dù giàu có đến đâu, nhưng không có đến một người bạn thì cũng thật đáng thương, mà tìm được một người tri âm tri kỷ thì khó càng thêm khó.

Người ta vẫn thường nói: “cuộc đời có được một tri kỷ là quá đủ”, hoặc “quân tử chi giao nhạt như nước”, bạn bè, không ở chỗ nhiều hay ít, mà là xét lúc gian nan còn lại được bao nhiêu. Giữa những người bạn thực sự, tình cảm tuy nhạt nhưng lại lâu bền.

Tỉnh ngộ|P.7

- Những câu nói giúp bạn tỉnh ngộ



Để hủy hoại một người đôi lúc chỉ cần một câu, nhưng để nuôi dưỡng một người thì lại cần hàng nghìn lời nói, cho nên, xin bạn hãy nói những lời đừng làm tổn thương người khác.

Thấu hiểu mười điều “bất lực” trong đời người

- Sưu tầm

Nếu bạn đang cảm thấy phiền não, cảm thấy mất niềm tin vào cuộc sống này, thì hy vọng rằng sau khi bạn biết được mười điều “bất lực” trong đời người này, bạn sẽ thấu hiểu được nhiều hơn, buông bỏ nhiều hơn, đạt được nhiều hơn.

1. NGƯỜI RỜI XA BẠN

Con người đến với nhau vì duyên, ra đi cũng là duyên, không cần quá níu kéo, bởi có níu kéo cũng không giữ được. Người rời xa bạn, đó là họ đã đánh mất bạn, không phải bạn đã đánh mất họ. Cũng có thể, rời xa là để gặp lại nhau tại một nơi nào đó tốt đẹp hơn.

2. THỜI GIAN TRÔI QUA

Trong dòng chảy cuộc đời, thời gian cuốn trôi đi bao thị phi, phiền muộn, bao niềm vui nỗi buồn, cũng như cả tuổi thanh xuân. Thời gian một khi trôi qua là không thể nào trở lại, vậy nên, việc gì cần làm thì nên cố gắng nỗ lực, đời này, ít nhất là không hổ thẹn với chính mình.

3. THẤT BẠI

Thất bại tựa như một bức tường đổ sụp, nó đè lên thân bạn, khiến bạn không cách nào vùng vẫy, không thở được, khiến bạn mất đi niềm tin. Tuy nhiên, nếu bạn lặng lẽ chấp nhận nó, thì bạn sẽ không cách nào đứng dậy được nữa. Nếu bạn cố gắng đứng lên, bạn sẽ thấy mọi thứ không quá tồi tệ như mình vẫn nghĩ.

4. KHÔNG THỂ LỰA CHỌN XUẤT THÂN

Có người sinh ra đã là vua, có người sinh ra là quý tộc, nhưng rất nhiều người sinh ra đã là thường dân. Trên thế giới này, chúng ta có thể thay đổi được mọi thứ, nhưng không thể lựa chọn cho mình được nơi sinh ra, lựa chọn bậc sinh thành.

5. SỰ CÔ ĐƠN KHÔNG AI HIỂU THẤU

Con người, bất kể là đang vui vẻ hay ưu sầu, cao sang hay hèn mọn, đều có thể bắt gặp cảm giác cô đơn không sao hiểu thấu, nó quanh quẩn trong tâm hồn mỗi người, tựa như đang tìm kiếm ý nghĩa chân thực của đời người.

6. TÌNH YÊU VÔ VỌNG

Một loại độc dược rất ngọt ngào gọi là “ưu thích”, cái thích này không có giới hạn, đủ dạng đủ loại, nhưng rốt cuộc ưa thích vẫn là ưa thích, nó không phải là “yêu”.

7. LÃNG QUÊN

Nhiều người trong chúng ta cho rằng cả đời sẽ không bao giờ quên đi sự tình, ngay cả những chuyện chúng ta cho rằng không thể quên, rốt cuộc vẫn sẽ bị lãng quên. Cuộc sống vì có kỷ niệm, nên mới có những phút giây hoài niệm. Hãy cứ để mọi chuyện thuận theo tự nhiên, vui với hiện tại là điều nên làm nhất.

8. QUÁ KHỨ ĐÃ QUA

Một giây vừa trôi qua đã trở thành quá khứ. Cuộc sống này, rất nhiều thứ sẽ mất đi, dù muốn hay không cũng nên chấp nhận. Điều duy nhất có thể đọng lại, đó là những ký ức không bị lãng quên.

9. NGƯỜI KHÁC CƯỜI NHẠO

Miệng là của người khác, tai là của bản thân mình, nói hay không đó là việc của họ, còn nghe hay không lại là chuyện riêng của mình, chúng ta phải học cách mỉm cười khi đối mặt với tất cả điều này.

10. KHÔNG TRÁNH KHỎI CÁI CHẾT

Cuộc sống là một quá trình, và cái chết là điều không thể tránh khỏi. Nếu như đã không tránh khỏi, vậy cứ thản nhiên đối mặt, xem nhẹ nó, chuyện gì đến sẽ đến, như vậy những phút giây tồn tại trên đời này mới có ý nghĩa, mới có thể an nhiên tự tại.

Thấu hiểu mười điều “bất lực” trong đời người, bạn sẽ buông bỏ nhiều hơn, đạt được nhiều hơn.

Đừng (19)

- Marc(Thủy Nguyệt dịch)



Bạn có thể nói dối người khác, nhưng bạn không thể nói dối chính bản thân mình. Cuộc sống của chúng ta chỉ tiến bộ khi chúng ta nắm bắt các cơ hội, và cơ hội đầu tiên và cũng là khó khăn nhất mà chúng ta có thể nắm bắt lấy, là trung thực với chính mình.╰▶ ĐỪNG NÓI DỐI BẢN THÂN MÌNH

Pháp ngữ (7)

- Hòa Thượng Tuyên Hóa



Nếu tinh đầy đủ, bạn chẳng cảm thấy lạnh.
Nếu khí đầy đủ bạn chẳng cảm thấy đói.
Nếu thần đầy đủ bạn chẳng buồn ngủ.

TINH, KHÍ, THẦN (theo Đạo giáo) gọi là Tam Bảo. Lý này cũng tương tợ như Phật Pháp Tăng của nhà Phật.

Sống thiền (4)

- J. Krishnamurti



Thiền là một trong những nghệ thuật tuyệt vời trong cuộc sống. Có lẽ là tuyệt vời nhất và không ai có thể dạy cho bất cứ ai. Ðó là cái đẹp của Thiền. Tự nó không có kỹ thuật cho nên không có người thiện xảo. Khi bạn tìm hiểu về chính mình, nhìn vào chính mình, nhìn vào những bước đi của bạn, bạn ăn như thế nào, nói cái gì, ghét hay thương, ... nếu như bạn biết được tất cả những cái đó trong bạn mà không có sự phân biệt thì đó chính là một phần của Thiền. Do đó Thiền có thể xảy ra trong lúc bạn đang ngồi trên xe buýt hay đang đi trong cánh rừng rợp bóng mát, hoặc đang lắng nghe chim hót hay đang nhìn vào gương mặt vợ con bạn. Thật sự bạn muốn biết tại sao Thiền trở nên quan trọng như thế ! Nó không có sự khởi đầu cũng không có sự chấm dứt. Nó giống như giọt mưa, trong nó hàm chứa tất cả những sông hồ và biển cả. Hạt mưa ấy nuôi dưỡng trái đất và con người. Không có nó, trái đất sẽ trở nên sa mạc. Không có Thiền thì tâm sẽ trở thành khô cằn, một vùng đất hoang tàn.

Sống trọn niềm thương

- Thích Tánh Tuệ



Cứ sống và thương trọn một giờ
Vì đời ... thoáng chốc đã hư vô
Âu lo, toan tính ... lòng thêm nặng
Lặng ngắm thu vàng bao lá thơ

Cứ sống và thương trọn một ngày
Ánh nhìn độ lượng khắp quanh đây
Những điều to tát chưa làm được
Việc nhỏ hết lòng cũng quí thay !

Gặp gỡ trong đời một chữ duyên
Trân trọng bên nhau phút hiện tiền
Người đến, ân cần cho hết dạ
Người về, thôi vướng bận niềm riêng

Hãy sống sao không thẹn với lòng
Dẫu người cô phụ bước sang sông
Dù hoa kia chẳng vì ta nở
Chờ mong chi ... suối chảy ngược dòng

Hãy sống cho tròn vẹn kiếp người
Vui buồn, thành bại ... cũng qua thôi
Xuân xôn xao lá chờ Thu rụng
Sống để thương cùng - sống thảnh thơi

Mười điều mẹ chưa bao giờ nói với con

- Nguồn: Brightside

Mỗi một người Mẹ trên thế giới đều là tấm gương sáng về sự vị tha, lòng từ bi, độ tận tâm và yêu thương con cái của mình. Mỗi một người mẹ đều có những kinh nghiệm nuôi dạy con riêng và biết đâu là điều thích hợp nhất cho con của mình - đôi khi điều đó vượt ra khỏi nguyên tắc hoặc khó hiểu đến không thể giải thích hợp lý. Và bạn sẽ không thể hiểu được những điều đó cho đến khi bạn cũng có con. Và tôi chắc chắn rằng, mẹ của bạn chưa bao giờ nói với bạn bất kì những điều dưới đây - và điều đó cũng không có nghĩa là mẹ bạn chưa bao giờ đối mặt với chúng. Tôi nghĩ bạn cần biết để thấy được mẹ mình đã vĩ đại như thế nào và bạn cần làm gì để mẹ thấy ấm áp hơn.

1. Bạn đã từng khiến mẹ khóc rất nhiều

Mẹ đã khóc khi phát hiện ra mình mang thai bạn. Mẹ đã khóc khi bạn chào đời. Mẹ đã khóc khi chính tay mình tổ chức sinh nhật đầu tiên cho bạn. Mẹ đã khóc - những giọt nước mắt của hạnh phúc ... Và mẹ cũng khóc vì lo lắng cho bạn, hạnh phúc vì bạn nhưng mẹ cũng không biết bạn có nhận ra điều đó hay không.

2. Mẹ luôn dành miếng ngon cho bạn và luôn là người cuối cùng thưởng thức chúng

Nhưng khi nhìn thấy bạn giương đôi mắt to tròn và không ngừng liếm môi thèm thuồng, mẹ lại chẳng thấy đói nữa. Mẹ biết rằng chỉ khi bạn được no bụng thì đó mới là hạnh phúc mà mẹ muốn có.

3. Bạn đã từng làm mẹ đau

Xương sườn của mẹ đau khi bạn cố tung chân đạp vào bụng mẹ. Bụng mẹ đau vì mang nặng đẻ đau bạn suốt 9 tháng 10 ngày. Tóc mẹ đau khi bị bạn kéo xuống. Da mẹ đau vì bị bạn cấu bởi móng tay nhọn. Ngực mẹ đau vì bị bạn cắn, nhưng để cho bạn những dòng sữa ngọt ngào mẹ lại âm thầm chịu đựng hết. Xen lẫn những đau đớn không thể gọi tên ấy, mẹ vẫn thấy hạnh phúc vì bạn đã đến bên mẹ.

4. Mẹ có rất nhiều nỗi sợ

Từ lúc mang thai, Mẹ đã không ngừng làm mọi điều trong khả năng để bảo vệ bạn, để bạn trở nên khỏe mạnh và phát triển. Mẹ luôn là vầng thái dương rực rỡ để che chở cho bạn, khiến bạn luôn được an toàn trong vòng tay ấy. Tim mẹ như ngưng lại mất hai nhịp khi bạn tự chập chững những bước đi đầu đời. Mẹ sẵn sàng thức khuya để chờ cửa, biết rằng bạn đã về nhà an toàn. Mẹ nguyện lòng dậy thật sớm để đưa đón bạn đến trường. Mẹ xót xa khi bạn té ngã, đau lòng khi bạn ốm sốt, những lúc đó, Mẹ luôn kề cận cạnh bên giường để bạn được no tròn giấc ngủ.

5. Mẹ biết mẹ không hoàn hảo

Mẹ biết mẹ vẫn còn rất nhiều sai sót và nhiều lúc mẹ thấy ghét chính mình bởi những điều đó. Mẹ trở nên khó khăn với chính mình hơn khi bạn xuất hiện trong cuộc đời. Mẹ muốn trở thành người mẹ hoàn hảo, không có bất kì sai xót nào xảy ra. Nhưng mẹ cũng chỉ là một người bình thường - với những sai lầm cũng hết sức bình thường như bao người khác. Mẹ tập không trách móc bản thân và tha thứ cho chính mình. Mẹ mong muốn bằng cả trái tim của mình rằng giá như mẹ có thể quay ngược thời gian và làm tốt mọi thứ hơn, nhưng không thể nào … Vì thế, bạn nên yêu thương mẹ nhiều hơn và hiểu rằng tất cả những gì mẹ làm cũng là vì muốn tốt cho bạn mà thôi.

6. Mẹ vẫn lặng lẽ ngắm nhìn bạn khi bạn ngủ say

Hằng đêm mẹ vẫn cầu nguyện cho bạn có được giấc ngủ ngon - dù đôi khi hai mắt đã díp lại nhưng miệng vẫn không ngừng ê a câu hát ru. Khi bạn đã say giấc, mẹ lại nhẹ nhàng bế bạn đặt xuống giường. Và ngay khoảnh khắc đó, cảm giác như mọi mệt nhọc đều tan biến hết khi mẹ ngắm nhìn gương mặt ngây thơ của bạn. “Con của mẹ thật bé bỏng làm sao, mi mắt này, sóng mũi này, bờ môi này - tất cả đều thật xinh đẹp”.

7. Mẹ bảo bọc bạn không chỉ có 9 tháng 10 ngày

Mẹ biết rằng bạn cần mẹ hơn ai hết. Mẹ học cách vừa giữ bạn vừa làm việc nhà, hoặc vừa giữ bạn vừa ăn cơm, thậm chí ôm lấy bạn khi ngủ nữa - bởi mẹ biết đó là những điều mẹ có thể làm khi có thời gian bên bạn. Đôi khi cánh tay của mẹ mỏi nhừ nhưng lại nhanh chóng quên đi khi được gần gũi bạn, ôm bạn, hôn bạn, chơi với bạn. Khiến bạn cảm thấy được an toàn và hạnh phúc trong vòng tay mẹ. Mẹ chỉ ước sao được ôm ấp bạn như thế này mãi mãi, mãi mãi về sau ...

8. Tim mẹ như vỡ tung vì tiếng khóc của bạn

Có lẽ đó cũng là âm thanh buồn nhất hành tinh này đối với mỗi bà mẹ khi nghe thấy tiếng khóc của con mình. Từng giọt nước mắt chảy trên má bạn cũng tựa như từng vết muối xát vào lòng mẹ. Tiếng khóc òa khi bạn chào đời, tiếng khóc òa khi bạn té ngã, tiếng khóc òa vì kim tiêm, tiếng khóc òa của ngày đầu tiên đi học, tiếng khóc òa khi bạn vòi vĩnh món gì đó, tiếng khóc òa vì bị điểm kém ... Mẹ luôn cố gắng làm tất cả trong khả năng của mình để ngăn những giọt nước mắt của bạn, và bạn phải hiểu rằng những lúc đó, tim của mẹ như vỡ tan ra làm hàng triệu mảnh nhỏ vậy.

9. Mẹ luôn đặt bạn làm ưu tiên hàng đầu

Mẹ có thể nhịn đói, không tắm, không ngủ mà không ca thán lấy một lời - miễn là tất cả những điều đó đều nhường cho bạn trước tiên. Mẹ có thể dành cả ngày dài để đáp ứng mọi nhu cầu cho bạn trước, và mẹ sẽ làm điều đó sau cùng dù rằng nó khiến mẹ vất vả hơn, mệt mỏi hơn. Đơn giản vì mẹ biết rằng, bạn là tất cả ý nghĩa trong cuộc sống của mẹ.

10. Và nếu được lựa chọn, mẹ vẫn sẽ lựa chọn có bạn một lần nữa

Làm mẹ chưa bao giờ là điều dễ dàng và chính điều này mới cho chúng ta biết rằng giới hạn của mình là ở đâu. Mặc dù làm mẹ sẽ có những sự đau đớn về thể xác, mệt mỏi vì thức khuya dậy sớm, vất vả vì chăm sóc cho con, mẹ có thể sẽ vì điều đó mà già yếu đi nhưng nếu như được lựa chọn một lần nữa, thì nhất định mẹ vẫn sẽ chọn có bạn. Bởi vì mẹ biết bạn có ý nghĩa to lớn với mẹ như thế nào.

Sau khi đọc bài viết này và gặp mẹ trong lần gần nhất, hãy nói lời cám ơn với mẹ, hãy thể hiện tình cảm của mình để mẹ biết rằng bạn yêu mẹ ra sao. Bởi vì thời gian mẹ còn có thể nghe những lời yêu thương ấy sẽ chẳng còn bao lâu nữa đâu.

Mẹ Voọc

- Facebook Đoàn Vũ Thanh Hoàng|hoangdvi109



Đi lang thang bách bộ giữa bản và chào hỏi bằng tiếng Đồng Bào. Tuy lơ lớ nhưng vì là họ Nam Á nên mình cũng nói được lem nhem. Giữa phiên chợ có một anh đồng bào, không biết là dân tộc gì nữa. Nhưng anh nói tiếng Việt khá giỏi.

- Chú bán gì đấy ?

- Mua không, ngon lắm, nấu cao ngon !

- Cái gì mà nấu cao ạ ?

- Xem này !

Anh ấy xoè ra một con voọc. Ôi trời ơi, nước mắt hai hàng lệ và chú voọc nhìn thê lương lắm. Hai tay chú voọc tréo trước ngực và hai chân cột tréo ra sau. Tôi giở chú voọc ra, do bị đóng kín trong gùi nên khi giở ra ánh sáng thay đổi đội ngột, chú voọc phải cố cúi đầu để dụi mặt vào vai. Sau ba giây hoàn hồn chú voọc nhận ra có người hỏi mua, ánh mắt chú như cầu khẩn … hai mắt chớp chớp rồi nhìn tôi chăm chăm. Tôi vận bộ bà ba trắng, đi hài trắng và khoác chiếc áo ba-đờ-xuy phủ gối cũng màu trắng, tay lần tràng hạt liên hồi và lòng nhói đau lắm. Có lẽ chú biết thân phận của tôi, hai mắt chú rưng rưng.

Tôi sờ ngực, ngực chú căng sữa, tự nhiên khoé mắt tôi cay, tôi đề nghị chú đồng bào ẵm lên cho tôi xem, hạ bộ khô ráo, chứng tỏ tắt kinh lâu ngày, bụng tròn, mạch trầm sát (đây là biểu hiện người phụ nữ mang thai tuần thứ 30 - 40, voọc và người cùng chu kỳ vòng đời nên trừ cho kỳ kinh thì chắc mẹ voọc cũng đã gần lâm bồn). Quay mặt gạt ngang hai hàng nước mắt, tôi quay lại:

- Con này chú bán bao nhiêu thế ?

- Hai triệu rưỡi.

- Gì mà đắt thế. Có chữa rồi, xương yếu lắm nấu không được cao. (Động vật mang thai luôn thiếu canxi nên nếu đem nấu thì lượng cao luôn thấp hơn bình thường - các thầy luyện đan đều biết điều này).

- Chữa đâu mà chữa, nó mập đấy !

Ông ẵm mẹ voọc lên và ôm vụng vỗ bành bạch đến nỗi chú voọc kêu éc éc và nghiến răng kèn kẹt !

- Chú đừng vỗ thế, động thai đấy. Tôi là thầy thuốc bắc nên tôi biết, chú để tay xuống ngực dưới đi, nếu nghe nhịp tim thì thai lớn gần sinh rồi, làm thử đi.

(Về nguyên tắc, âm hộ của loài linh trưởng - bao gồm cả người - bị khô đi, ngực căng ra, bụng bự ra thì chắc chắn có bầu, nếu bạn biết chút y thuật thì bắt mạch, tất cả các loài thuộc họ linh trưởng khi mang thai đều mang mạch trầm sát, loại mạch chìm rất khó bắt nhưng nhịp sát thấp hơn nhịp trầm theo tỷ lệ 12-8-19-7-3 như vậy là không ổn định, tuy nhiên, nếu bạn không biết y lý, bạn có thể sờ tay vào hạ bụng bên phải của linh trưởng cái, nếu bạn nghe nhịp tim thứ cấp thì đích thị đã có thai lớn, do tim linh trưởng nằm bên ngực trái, nhưng khi người mẹ mang thai chu kỳ cuối, thai sẽ lộn đầu xuống tử cung để chờ ngày chào đời, thì tim thai sẽ nằm bên bụng dưới của người mẹ, lúc này tim con đập độc lập so với tim mẹ nên mình nghe được tim thứ cấp từ thai nhi !)

Khi phát hiện ra mẹ voọc mang thai, chú đồng bào mới gãi đầu ra chiều tiếc nuối lắm.

- Ừ nó có chữa rồi, thôi em lấy rẻ hai triệu được không ?

- Không, một triệu thôi, tôi không trả giá lần hai đâu, nếu được thì bán.

- Ừ (vẻ ậm ự), tôi bán.

Tôi chồng một triệu đồng thì túi còn 120k. Ẵm mẹ voọc trên tay mà thương cho mẹ, tháo trói cho mẹ nhưng mẹ vẫn chưa nhận ra rằng mình đã được tháo trói. Đi gần một cây số và các bậc thang đá, tôi định thả mẹ ở đó thì mới nhận ra rằng ở đây quá gần khu dân cư của người đồng bào, nếu thả mẹ ở đây thì cơ hội sống sót của mẹ không cao. Tôi kêu chú xe ôm chở tôi đi khoảng mười cây số về phía vạt rừng, sau khi không nhìn thấy ánh đèn, tôi mới cho xe dừng lại, tôi đi bộ vào rừng và ẵm mẹ đi một cách nhẹ nhàng nhất mà không dám bật đèn pin điện thoại, tôi sợ ông xe ôm biết hướng tôi đi thì mai ông ấy đến bắt mẹ voọc về.

Tôi thả mẹ về rừng mà mẹ vẫn nằm im thin thít. Tôi dùng tay đánh mẹ một phát thật đau vào mông mẹ mới nhận ra đau và vùng vẫy, khi đấy mẹ mới nhận ra mình đã không bị trói nữa rồi, mẹ chạy nhanh lắm, tôi tưởng mẹ đi rồi nhưng không phải vậy. Mẹ quay lại nhìn tôi, mắt vẫn rưng rưng, theo kiểu mẹ ra chiều cảm ơn tôi vậy đó. Tôi vẫn lần chuỗi đều đều và khẽ khàng:

- Đi đi con, ráng sống tốt để mai sau hoá kiếp làm người và đừng báo thù ai, cũng không cần cảm ơn ta, Thượng Đế vốn rất công bằng, đi đi !

Tôi liệng tàn thuốc về phía mẹ thì mẹ mới chạy đi chậm rãi mà vẫn không chịu quay mặt đi về hướng xa, vẫn cứ ngoái nhìn tôi một hồi lâu rồi khuất hẳn. Tôi lẽo đẽo bước ra xe ôm về lại khách sạn giữa cái lạnh của rét Nàng Bân đầu tháng. Lạnh lắm, tôi tắm xong thì viết status này nhưng tay vẫn còn run run.

Phàm ở đời, 100 người thì hết 99 người sát sanh vô tội vạ. Biết rằng luật đời thì mạnh được yếu thua, nhưng xin hãy làm ơn, đừng hại mạng kẻ mang thai, và đừng bao giờ giết hại loài linh trưởng, bởi chúng có linh căn cũng gần bằng con người chúng ta, huống chi chúng mang thêm hài nhi trong bụng.

Kinh luật có câu: “Nó cũng muốn như mình đặng sống|Nỡ lòng chi tuyệt giống giết loài”, hãy mở một chút từ bi vì một cuộc sống không đau thương và sân hận. Cầu mẹ voọc được mẹ tròn con vuông và mãi bình an giữa đại ngàn mênh mông bát ngát.

Hết mất năm ngày tiêu vặt mà lòng vẫn cứ lâng lâng, khó tả lắm … Chúa quan phòng cho mẹ voọc dùm con.

D.P.A (14)

- Thích Chân Tính

Cho là còn, có mất đâu
Gieo nhân hái quả cũng thâu về mình



Sang xuân ta sẽ trở về

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương XXXI, Thích Nhất Hạnh

Ngay ngày hôm sau, Bụt và các vị trưởng thượng trong giáo đoàn đi thăm viếng Trúc Lâm. Thật là một nơi cư trú lý tưởng cho giáo đoàn khất sĩ. Khu vườn rộng vào khoảng bốn chục mẫu. Tre mọc xanh tốt, đủ cả các loại. Hồ Kalandaka tọa lạc ở giữa rừng tre là một nơi rất thuận lợi để các vị khất sĩ tắm giặt và đi kinh hành. Tre rất nhiều, những chiếc thảo am có thể được dựng lên rải rác để làm chỗ cư trú cho các vị đại đức lớn tuổi. Các vị đệ tử lớn như Kondanna, Kassapa, Sariputta .v.v.v... đều rất hoan hỷ. Họ họp nhau lại và hoạch định cách tổ chức Trúc Lâm thành một tu viện có quy củ. Bụt dạy:

- Mùa mưa không tiện lợi cho sự du hành. Các vị khất sĩ cần có nơi an cư trong mùa mưa để cùng tu học với nhau. Như vậy họ tránh được sự ướt át và dẫm đạp lên trên các loại côn trùng thường bò ra đầy dẫy. Tôi muốn mỗi năm cứ vào đầu mùa mưa, các vị khất sĩ phải tìm nơi an cư tu học với nhau, khỏi phải đi du hành đây đó. Trong ba tháng ấy, thiện nam và tín nữ có thể mang thực phẩm tới cúng dường tại các trung tâm an cư, và mỗi ngày, họ sẽ được các vị xuất gia chỉ dạy về đạo lý tỉnh thức.

Truyền thống an cư được thiết lập, chỉ còn mười lăm hôm nữa, mùa an cư được bắt đầu. Dưới sự điều khiển của đại đức Moggallana, các vị khất sĩ trẻ tuổi đã dựng lên một tịnh xá nhỏ cho Bụt và nhiều tịnh xá nhỏ khác cho các vị khất sĩ trưởng thượng hoặc lớn tuổi. Tất cả đều được làm bằng tre, tranh, và bùn đất. Tịnh xá của Bụt tuy nhỏ nhưng rất xinh xắn. Phía sau tịnh xá có một bụi tre vàng rất đẹp. Bên trái tịnh xá cũng có một bụi tre thật xanh tươi và cao. Bụi tre này cho Bụt rất nhiều bóng mát. Thầy Nagasamala đã đóng cho Bụt một cái chõng tre để Người nằm nghỉ. Người cũng ngồi thiền trên đó. Thầy lại còn kê cho Bụt một vại nước ở phía sau tịnh xá để người có chỗ rửa mặt và tay chân. Thầy Nagasamala là một vị khất sĩ trẻ. Trước đây thầy đã từng là đệ tử của đại đức Uruvela Kassapa, khi đại đức còn chưa xuất gia theo Bụt. Từ ngày dọn về tu viện Trúc Lâm, thầy Nagasamala được đại đức Kassapa tiến cử lên Bụt để làm thị giả cho Người.

Đại đức Sariputta đã tiếp xúc với một vị cư sĩ ở thành Vương Xá và vị cư sĩ này đã đem cúng dường tu viện Trúc Lâm một chiếc chuông đồng. Đại đức đã cho treo chuông gần hồ Kalandaka dưới một cành cổ thụ. Tiếng chuông báo hiệu giờ giấc tu học trong tu viện, và trở thành hiệu lệnh cho tất cả tăng đoàn. Bụt dạy mỗi khi nghe tiếng chuông, tất cả mọi người đều phải theo dõi hơi thở và thực tập chánh niệm. Tiếng chuông như vậy không chỉ có tác dụng thông báo giờ giấc mà còn có tác dụng nhắc nhở mọi người trở về với chánh niệm nữa. Các vị đệ tử cư sĩ của Bụt ngày nào cũng có lui tới Trúc Lâm để giúp đỡ công trình kiến thiết tu viện. Họ được đại đức Kassapa cho biết là ngày trăng tròn sắp đến, tăng đoàn sẽ bắt đầu an cư tu học tại Trúc Lâm. Đại đức nói:

- Đây là một dịp để các vị khất sĩ được thực tập đạo giải thoát trực tiếp dưới sự hướng dẫn của Bụt. Họ sẽ có nhiều thì giờ học hỏi và thực tập hơn trong mùa an cư. Đồng thời họ cũng tránh được sự dẫm đạp lên các loại côn trùng thường xuất hiện rất nhiều vào mùa mưa trên các con đường, nhất là những con đường thôn dã. Trong thời gian ba tháng an cư của các thầy, quý vị có thể đem thức ăn tới cúng dường Bụt và tăng đoàn. Quý vị có thể họp nhau để tổ chức việc cung cấp thực phẩm cho tăng đoàn, như thế thì sẽ không có ngày nào thức ăn bị dư hoặc bị thiếu. Tất cả các vị thí chủ, dù là người nghèo khổ nhất và chỉ có thể cúng dường một vài chiếc bánh chappati, cũng đều được mời ở lại để nghe Bụt hoặc một vị cao đệ của người thuyết pháp. Mùa an cư sẽ đem lại nhiều tiến bộ cho sự tu học của tăng đoàn cũng như là của các vị đệ tử tại gia.

Đại đức Kassapa lãnh đạo tăng đoàn rất giỏi mà tổ chức giới cư sĩ cũng giỏi. Thầy đã hội họp với những vị thí chủ của tu viện và đã giúp cho họ điều hợp việc cúng dường và hỗ trợ tu viện. Các vị khất sĩ, ngoài áo ca sa, bình bát và nệm ngồi thiền, còn được cúng dường một chiếc khăn lau mặt và một chiếc lọc để lọc nước uống nữa.

Ngày an cư đã đến, và thời khóa tu học do các vị trưởng thượng ấn định, đã được tăng đoàn chấp hành theo một cách nghiêm chỉnh. Buổi sáng vào lúc đầu canh tư, đã có chuông báo thức. Sau khi rửa mặt, các vị khất sĩ bắt đầu thiền tập ngay tại chỗ của mình. Mọi người thực tập thiền tọa và kinh hành nhiều lần cho đến khi mặt trời đã lên tới đầu ngọn tre. Sau đó là giờ đi khất thực. Đại chúng chỉ nghỉ đi khất thực vào những ngày có thí chủ cúng dường thực phẩm đầy đủ cho tu viện. Vào những ngày này, các vị khất sĩ có thể sử dụng thì giờ buổi sáng để đi tìm y chỉ sư của mình mà học hỏi thêm giáo lý và tham vấn về những điều mình chưa nắm vững trong lãnh vực giáo nghĩa cũng như trong lãnh vực thực tập.

Y chỉ sư là một vị khất sĩ đã đạt tới nhiều tiến bộ trên con đưòng học hỏi và hành trì. Các vị đại đức như Kondanna, Assaji, Kassapa, Sariputta, Moggallana, Bhaddhiya, Vappa, Mahanama .v.v.v... đều là những vị y chỉ sư lớn, mỗi vị phụ trách hướng dẫn năm sáu mươi vị khất sĩ mới học. Có những vị y chỉ sư hướng dẫn mười vị, có vị hướng dẫn hai mươi vị, có vị hướng dẫn ba mươi vị ... vị khất sĩ mới học nào cũng có y chỉ sư của mình. Đó là người huynh trưởng trong đạo mà mình cần nương tựa vào để học hỏi.

Đại đức Kassapa đã cùng với đại đức Sariputta làm công việc phân phối này rất kỹ lưỡng trước ngày an cư. Vào đầu giờ Ngọ, các vị khất sĩ đều đã có mặt tại tu viện. Họ mang bát đứng thành từng hàng dài ở sân cỏ bờ hồ. Sau khi đã được cúng dường hoặc đã san sẻ thực phẩm xin được cho nhau, mọi người ngồi xuống bãi cỏ và bắt đầu thọ trai trong im lặng. Buổi trai phạn hoàn tất vào cuối Ngọ. Mọi người quây quần bên Bụt. Có khi Người giảng dạy cho các vị khất sĩ và các vị cư sĩ được dự thính, có khi Người giảng dạy cho các vị cư sĩ, và các vị khất sĩ dự thính. Lại có những buổi giảng dạy cho thiếu nhi và tất cả những người lớn tuổi của cả hai giới xuất gia và tại gia dự thính. Thường thường trong các buổi giảng cho trẻ em, Bụt hay dùng những truyện tiền thân. Có khi các đại đức cao đệ của Bụt đứng ra giảng dạy thay Bụt. Những lúc ấy, Bụt ngồi nghe, và người thường mở lời khen ngợi khi đạo lý giải thoát được diễn bày một cách đúng mức và thông minh.

Sau buổi thuyết pháp, giới đệ tử tại gia ra về. Mọi người có được một thời gian nghỉ ngơi. Sau đó chuông lại báo hiệu giờ thiền tọa và thiền hành. Các thầy thực tập tham vấn và học hỏi cho đến đầu giờ Hợi mới đi nghỉ. Bụt thường thiền tọa cho đến nửa đêm. Người hay mắc chiếc chõng tre ra trước tịnh xá ngồi cho mát, nhất là vào những đêm có trăng. Mỗi buổi sáng khi thức dậy, người ưa đi thiền hành, người không cần ngủ nhiều giờ như các vị khất sĩ trẻ tuổi. Đại đức Kassapa cũng thức rất khuya để thiền tập.

Vua Bimbisara rất siêng năng đến Trúc Lâm để thăm Bụt và tăng đoàn. Vua không đem theo hàng trăm người như lần đầu đi gặp Bụt ở rừng Kè. Những lần đi thăm Bụt ở Trúc Lâm, vua chỉ đem theo hoàng hậu Vedehi và thái tử Ajatasattu. Có khi vua đến một mình. Để xe tứ mã và quân hầu phía ngoài tu viện, vua đi bộ vào tịnh xá của vị đại sa môn. Có một hôm thấy các vị khất sĩ ngồi trong mưa để nghe giảng, vua bạch với Bụt xin xây cất một Pháp đường trong đó chư vị xuất gia có thể thọ trai và nghe Pháp. Được sự chấp thuận của Bụt. Pháp đường được xây dựng ngay sau cuộc viếng thăm của vua. Pháp đường không những che mưa nắng cho trên một ngàn vị xuất gia mà còn che mưa nắng được cho khoảng một ngàn vị đệ tử cư sĩ nữa.

Từ hôm Pháp đường được xây dựng xong, đời sống của tu viện đã bắt đầu có đủ tiện nghi. Bụt đưa vua vào thăm tịnh xá bằng tre của mình và mời vua ngồi thử trên chiếc chõng tre của Bụt. Thầy thị giả của Bụt cũng đã đóng cho Bụt hai chiếc ghế bằng tre để Bụt tiếp khách. Một hôm Bụt mời vua ngồi chơi với Bụt trên những chiếc ghế tre đặt trước tịnh xá. Sau một hồi đàm đạo, vua tâm sự:

- Trẫm có một đứa con trai khác mà Bụt chưa gặp. Trẫm rất muốn nó và mẹ nó tới thăm Ngài. Thưa Thế Tôn, mẹ nó không phải là hoàng hậu Vedehi. Mẹ nó tên là Ambapali, nó tên là Jivaka, năm nay mười sáu tuổi. Mẹ nó cư trú tại Vesali, phía Bắc thành phố Pataliputta. Ambapali không ưa đời sống chật hẹp trong cung cấm. Ambapali không màng chức tước và địa vị. Nàng chỉ thích tự do. Trẫm đã ban cho hai mẹ con mấy cơ sở tự túc kinh tế, trong đó có một vườn xoài rất đẹp. Jivaka rất thông minh và đôn hậu. Jivaka cũng không thích chính trị và quyền binh. Hiện nó đang ở gần thủ đô và đang học nghề y sĩ. Trẫm thương nó lắm, cầu xin Bụt thương nó như trẫm đã thương. Nếu được đức Từ Bi chấp nhận, trẫm sẽ bảo nó về đây thăm Ngài và để được học hỏi với Ngài.

Bụt mỉm cười lặng thinh, đó là dấu hiệu người ưng thuận. Vua chắp tay chào Bụt và từ giã. Một buổi chiều hôm nọ, có hai người khách đặc biệt tới viếng Bụt ở tu viện Trúc Lâm. Hai người ấy đến từ quê hương của Bụt, kinh đô Kapilavatthu. Đó là Kaludayi và Channa. Kaludayi là bạn học từ thuở bé của Bụt, và Channa là người ngày xưa thường đánh xe đưa Bụt đi. Cuộc gặp gỡ này làm ấm cả Trúc Lâm tịnh xá. Bụt xa nhà đã bảy năm, và người rất muốn được nghe tin tức ở nhà. Người hỏi thăm Kaludayi về phụ vương, hoàng hậu, Yasodhara, Nanda, Sundari Nanda, Rahula và tất cả những người thân thuộc. Kaludayi tuy còn rất khỏe nhưng nét mặt đã dạn dày gió bụi. Channa thì đã già hẳn đi. Hai người được Bụt tiếp chuyện rất lâu trước túp lều tranh của người. Kaludayi đã có chức tước quan trọng trong triều và đã trở nên một trong những người phụ tá thân tín của vua Sudhodana. Ông nói là tin Bụt thành đạo và đang hằng hóa ở vương quốc Magadha đã được chuyển về Kapilavatthu liên tiếp từ hai tháng nay. Ai nghe tin này cũng mừng rỡ. Mừng rỡ nhất là vua, hoàng hậu, và Gopa. Khi nguồn tin đã được liên tiếp xác nhận, vua đã ủy thác cho Kaludayi đi mời Bụt trở về quê hương. Kaludayi rất sung sướng được vua giao cho trách vụ này. Ông để ra ba hôm để chuẩn bị chuyến đi, và suốt cả mấy đêm ông không ngủ được vì náo nức trong dạ. Ông đã qua thăm Yasodhara để trình bày với phu nhân về chuyến đi. Phu nhân mừng rỡ và đề nghị cho Channa đi theo. Khi được báo tin là sẽ được cùng thượng quan Kaludayi đi mời Bụt, Channa đã mừng rơi nước mắt. Hai thầy tớ đã đi gần một tháng mới tới được tu viện Trúc Lâm.

Theo lời Kaludayi thì sức khỏe phụ vương đã có phần suy giảm. Ngài vẫn còn sáng suốt, và hiện nay Ngài có đủ người phụ tá giỏi trong công việc triều chính. Hoàng hậu Gotami vẫn còn rất tráng kiện. Hoàng tử Nanda đã lớn và đã đính ước với một tiểu thư con nhà dòng dõi tên là Kalyani. Nanda rất đẹp trai và rất ưa chưng diện, nhưng tính tình không được cương nghị cho mấy. Sundari Nanda em gái Bụt đã trở nên một cô thiếu nữ kiều diễm. Phu nhân Yasodhara thì từ ngày Bụt đi đã bỏ hết mọi đồ trang sức. Bà ăn mặc rất giản dị, bao nhiêu vật quý giá trong cung bà đã cho đem bán hết để lấy tiền giúp vốn cho những gia đình túng quẩn nhất ở các xóm nghèo. Nghe nói Bụt mỗi ngày chỉ ăn một bữa, bà cũng bắt đầu mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Bà vẫn còn làm việc từ thiện xã hội như xưa với sự góp sức của hoàng hậu Gotami. Rahula đã trở thành một cậu bé bảy tuổi xinh đẹp, mạnh khỏe, hai mắt đen láy, thông minh và quả cảm. Rahula rất được ông nội và bà nội cưng quý, cưng quý không khác gì cưng quý Siddhatta ngày xưa.

Những điều Kaludayi đã nói được người đánh xe Channa xác định. Bụt ngồi nghe và cảm thấy rất ấm lòng. Cuối cùng, Kaludayi hỏi Bụt chừng nào người có thể lên đường trở lại quê hương, Bụt nói:

- Đầu mùa xuân, tôi sẽ về. Bây giờ đang là mùa mưa, việc du hành đã trở nên không thuận lợi. Với lại trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ, có rất nhiều vị còn non yếu trên con đường thực tập. Sau mùa an cư này họ sẽ vững vàng hơn, và tôi có thể an tâm hơn để ra đi. Kaludayi, bạn hãy ở lại đây chơi một tháng, Channa cũng vậy. Sau đó các vị có thể về nước và báo tin cho phụ vương ta hay là đầu mùa Xuân ta sẽ lên đường trở lại quê hương.

Kaludayi và Channa lưu lại tu viện Trúc Lâm như người người khách. Họ làm quen với các vị khất sĩ. Họ thấy được nếp sống thanh tịnh an lạc của người xuất gia. Họ thấy được ảnh hưởng của đạo giải thoát trên tâm hồn và trong nếp sống hàng ngày của người xuất gia. Kaludayi ngày nào cũng được gần Bụt. Ông quán sát Bụt rất kỹ. Ông thấy được sự thảnh thơi mầu nhiệm của Bụt. Con người này đã đạt tới chỗ không còn mong muốn hay tìm cầu một cái gì khác nữa. Bụt như một con cá thảnh thơi trong nước, như một đám mây thảnh thơi trên trời. Người hoàn toàn an trú trong hiện tại. Cái nhìn và nụ cười của Bụt chứng minh rằng Bụt đã đạt tới tự do tuyệt đối của tâm linh. Không còn gì có thể ràng buộc được con người này, nhưng cũng không ai có được sự hiểu biết và lòng thương yêu rộng lớn và không điều kiện của Người. Kaludayi thấy người bạn học năm xưa đã bỏ mình xa quá trên con đường tâm linh. Ông bỗng ao ước được sống đời sống tịnh lạc của một kẻ xuất gia dưới sự hướng dẫn của Bụt. Ông muốn bỏ hết địa vị, chức tước và những lo lắng phiền muộn của cuộc sống lợi danh. Sau ngày thứ bảy cư trú tại Trúc Lâm, ông ngõ ý xin Bụt xuất gia. Bụt hơi tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng người đã gật đầu ưng thuận. Channa là một người hầu cận rất trung thành, thấy Kaludayi được xuất gia, ông cũng muốn được xuất gia. Nhưng ông nghĩ rằng ông không thể xuất gia nếu không được phép lệnh bà Yasodhara trước. Vì vậy ông tự bảo phải chờ đến khi Bụt trở về Kapilavatthu.

When someone hurts you

。。。



When someone hurts you: cry a river, build a bridge, and get over it !
╰▶▶▶ Khi ai đó làm bạn tổn thương, hãy khóc một dòng sông, xây một cây cây cầu, và bước qua nó.

Đừng (18)

- Marc(Thủy Nguyệt dịch)



Hãy tận hưởng những điều nhỏ nhặt, bởi vì biết đâu một ngày nào đó, bạn sẽ ngoảnh nhìn lại để rồi nhận ra rằng chúng là những điều lớn lao. Phần tốt đẹp nhất trong cuộc sống của bạn sẽ là những khoảnh khắc nhỏ bé không tên khi bạn dành thời gian mỉm cười với ai đó quan trọng đối với bạn.╰▶ ĐỪNG BỎ QUA ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA NHỮNG KHOẢNH KHẮC NHỎ NHOI

17 lời khuyên về cuộc sống từ thiền sư Kodo Sawaki

- Nguyên tác: Thiền sư Kodo Sawaki
- Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ

Kodo Sawaki (1880-1965) hay “Kodo - Kẻ không nhà”, là một trong những vị thiền sư phái Tào Động (Nhật Bản) có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX. Là trẻ mồ côi, 16 tuổi xuất gia, sau bị gọi nhập ngũ, chiến tranh kết thúc Sawaki quay về tiếp tục tu học thiền. Kodo Sawaki lập hạnh không trụ mà đi khắp nơi để dạy thiền. Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án. Một số lời khuyên dạy của Kodo Sawaki được môn sinh tập hợp thành “Gửi bạn”, xin chia sẻ đến bạn đọc suy ngẫm.

1. GỬI NGƯỜI BẮT ĐẦU BIẾT SUY NGẪM VỀ CUỘC ĐỜI, ở một số nơi tại Mãn Châu, các cỗ xe thường do các chú chó to lớn kéo. Bác xà ích treo một miếng thịt trước mũi chó, và chú chó chạy như điên theo miếng thịt. Nhưng dĩ nhiên là chú không bao giờ với tới. Chú chỉ được vứt cho miếng thịt khi cỗ xe đã về tới đích. Rồi chỉ trong một cái ngốn, chú nuốt chửng miếng thịt xuống cổ họng. Người đi làm với đồng lương cũng y hệt như thế. Từ đầu tháng cho đến cuối tháng, họ cũng chạy theo đồng lương treo trước mũi. Một khi đã lãnh lương, họ cũng ngốn nó, và lại sẵn sàng chạy tiếp theo kỳ lương tới. Không ai có thể thấy xa hơn đầu mũi của mình.

Câu hỏi là: Tại sao bạn phải khốn khổ như thế ? Nếu không cẩn thận, bạn sẽ phí hết cuộc đời mình không làm gì ngoài việc chờ đợi những hy vọng tầm thường nhất của mình có thể thành tựu.

2. GỬI NGƯỜI KHÔNG THỂ NÀO DỪNG LO LẮNG NGƯỜI KHÁC NGHĨ VỀ MÌNH NHƯ THẾ NÀO, bạn không thể nào đổi bất cứ thứ gì với người khác, mỗi và mọi người phải sống cuộc đời riêng của mình. Đừng phí thời gian suy xét xem ai là người tài giỏi nhất. Mắt không nói: “chúng tôi thấp hơn, nhưng thấy nhiều hơn”. Chân mày không trả lời: “đúng, chúng tôi không thấy gì, nhưng chúng tôi ở cao hơn”. Mũi không thể thay mắt, và miệng không thể thay cho tai. Mọi thứ đều có nhiệm vụ riêng của mình, mà không gì trong vũ trụ có thể thay thế.

3. GỬI NGƯỜI ĐÃ HOÀN TOÀN MỆT MỎI TRONG VIỆC ĐẤU TRANH VỚI NGƯỜI PHỐI NGẪU, vấn đề không phải ai là người đúng, đơn giản là các bạn nhìn sự việc theo quan niệm khác nhau. Khi bạn bắt đầu nói “Tôi”, mọi thứ theo sau đều là ảo tưởng. Hãy thôi cố gắng làm một người đặc biệt - hãy cứ là chính mình. Hãy kiềm chế. Ngồi xuống !

4. GỬI NGƯỜI NGHĨ LÀM GIỐNG NGƯỜI KHÁC LÀ CÓ LỢI, bạn luôn bám theo người khác, nếu họ ăn khoai chiên, bạn cũng đòi ăn khoai chiên, nếu ai đó ăn kẹo, bạn cũng muốn ngậm kẹo, nếu ai đó thổi còi, bạn cũng kêu đòi: “Mẹ ơi, mua cho con cái còi”. Và điều đó không chỉ xảy ra đối với con trẻ. Khi mùa xuân tới, bạn quay cuồng theo mùa xuân. Khi thu đến, bạn chạy theo mùa thu. Ai cũng chờ đợi thứ gì đó để chạy đuổi theo. Có người còn kiếm sống được nhờ sự chạy đuổi theo đó - họ làm nghề quảng cáo. Với từng cá nhân, chúng ta còn chịu đựng nổi, nhưng khi họ lập thành nhóm, họ bắt đầu trở nên quái dị. Họ bị rơi vào sự ngu ngốc của nhóm, của bầy đàn. Khi sống trong sự ngu ngốc của nhóm, chúng ta lẫn lộn giữa sự cuồng điên và kinh nghiệm thực sự. Nên điều quan trọng là bạn phải rõ ràng về bản thân, và thức tỉnh khỏi cơn điên đó. Thiền có nghĩa là rời bỏ bầy đàn và tự đi trên đôi chân của mình.

5. GỬI NGƯỜI MÀ SUỐT ĐỜI CHỈ BIẾT CÓ TIỀN VÀ TIỀN, hạnh phúc và bất hạnh của con người không chỉ tùy thuộc vào tiền, nếu con số trong tài khoản tín dụng của bạn là thước đo lường hạnh phúc, thì sự việc sẽ đơn giản xiết bao. Tuy nhiên thực sự nó không phải như thế. Đừng quá tiêu cực khi bạn bắt đầu nói là bạn cần tiền để sống. Trong thế giới này, bạn có thể hoàn toàn sống tốt mà không cần đến sổ tiết kiệm. Một số người nghĩ rằng họ quan trọng bởi vì họ có tiền. Người khác thì cho mình quan trọng vì đã đạt được giác ngộ (satori). Nhưng cho dù bạn thổi phồng tấm da thịt này bao nhiêu, bạn cũng không thể biến mình thành gì cả - ngoài việc trở thành ma. Những gì không thuộc về bạn chiếm đầy vũ trụ. Khi nào những suy tưởng của cá nhân bạn chấm dứt, thì Phật pháp có mặt.

6. GỬI NGƯỜI THÍCH CÓ NHIỀU TIỀN, TÌNH YÊU, CHỨC VỊ, DANH VỌNG TIỀN, si mê có nghĩa là chỉ biết chăm lo cho bản thân mình, còn kẻ trí nói, “dù có gì xảy ra, tôi vẫn là tôi”. Một lần tôi viếng thăm một mỏ than. Có lúc khi đang đi xuống, tôi có cảm giác như thình lình chúng tôi lại trở lên cao. Cũng giống như thế, khi suy nghiệm về cuộc đời mình, hình như chúng ta luôn sai lầm khi lầm tưởng rằng những con số luôn thay đổi là tổng số. Thua là định. Thắng là ảo tưởng. Không thèm muốn bất cứ thứ gì là món quà lớn nhất mà bạn có thể ban tặng cho vũ trụ.

7. GỬI NGƯỜI MUỐN THẤY KẺ THÙ BỊ ĐIÊU ĐỨNG, chúng ta thường nghĩ không biết ở đây ai thực sự là kẻ hay hơn. Nhưng chẳng phải là tất cả chúng ta đều tượng hình từ cùng nắm đất đó sao ? Mọi người cần ngồi chôn chặt xuống chỗ không có tốt hơn hay xấu hơn.Suốt đời bạn đã là kẻ điên rồ khi nghĩ rằng thực sự có “tôi” và “người khác”. Bạn làm đủ trò để nổi bật trong đám đông, nhưng trong thực tế thì không có “bạn” hay “người khác”. Phật pháp có nghĩa là liền một mảnh. Vậy thì đường biên nào chạy giữa bạn và tôi ? Dần dần tất cả chúng ta đều hành xử như thể có đường biên chia tách bạn và thù. Chúng ta đã quen quá với cách suy nghĩ đó, ta tin rằng đường biên đó thực sự hiện hữu. Nghèo hay giàu, quan trọng hay không quan trọng - không có gì hiện hữu. Chúng chỉ là ánh sáng lấp lánh trên các làn sóng.

8. GỬI NGƯỜI ĐANG ĐAU KHỔ VÌ BỊ LƯỜNG GẠT, tất cả chúng sanh đều lầm lạc, xem là hạnh phúc cái đưa đến bất hạnh, và than khóc vì một bất hạnh hoàn toàn không phải là bất hạnh. Tất cả chúng ta đều biết là một đứa trẻ đang khóc có thể biến nước mắt thành tiếng cười khi bạn cho nó cái bánh. Cái mà những kẻ phàm phu như chúng ta gọi là hạnh phúc cũng không hơn thế bao nhiêu. Đôi lúc bạn cần tát vào mặt mình để tự hỏi một cách nghiêm túc, những điều bạn được hay mất có thực sự đáng được bạn reo hò hay than khóc như thế không ? Sớm muộn gì mọi người cũng bắt đầu chỉ nghĩ cho riêng mình. Bạn nói, “tốt quá !”, nhưng cái gì tốt ? Nó chỉ tốt cho bản thân bạn, thế thôi. Người có nhiều ham muốn rất dễ bị lường gạt. Ngay cả những kẻ lừa phỉnh đại tài nhất cũng không mong được gì từ người không có lòng tham muốn. Phật giáo có nghĩa là vô ngã, không có gì để đạt được.

9. GỬI NGƯỜI LẬN ĐẬN TRÊN ĐƯỜNG CÔNG DANH, khi đã chết và bạn nhìn lại cuộc đời mình, bạn sẽ thấy những thứ này không đáng chi. May mắn hay rủi ro, tốt hay xấu, không phải tất cả đều như bạn nhìn thấy. Cũng không phải giống như bạn nghĩ đâu. Bạn cần phải vượt lên trên may mắn hay bất hạnh, tốt hay xấu. Đau khổ không là gì hơn là cái khổ ta tự tạo ra cho bản thân.

10. GỬI NGƯỜI LUÔN THAN THỞ RẰNG MÌNH KHÔNG CÓ THỜI GIAN, mọi người đều than phiền là họ quá bận rộn đến không có thời gian, nhưng tại sao họ lại bận rộn đến thế ? Chính là ảo vọng khiến họ bận rộn. Người hành thiền luôn có thời gian. Khi bạn hành thiền, bạn có nhiều thời gian hơn bất cứ ai ở trên thế gian này. Nếu không cẩn thận, bạn đang làm ầm ĩ cái việc kiếm sống của mình. Bạn luôn bận rộn, nhưng tại sao ? Chỉ là để kiếm miếng ăn. Đàn gà cũng tíu tít khi mổ thức ăn. Nhưng tại sao ? Chỉ để bị người ta ăn thịt. Người ta có thể tạo ra bao nhiêu ảo vọng trong một cuộc đời ? Khó thể tính toán. Ngày này qua ngày khác, lúc nào cũng “tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia ...”, chỉ dạo một vòng trong công viên cũng đã có bao vọng tưởng hiện ra trong đầu. Vậy đó là ý nghĩa của “bận rộn”, “tôi muốn được bên em, tôi muốn về nhà, tôi muốn gặp em, ...”, con người luôn thở không ra hơi vì chạy quá nhanh theo ảo vọng của họ.

11. GỬI NGƯỜI ĐANG MONG MUỐN CÓ MỘT CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC HƠN, hãy tịnh lắng và mọi thứ rồi sẽ tốt thôi, ta chỉ cần một sự gián đoạn ngắn. Làm Phật có nghĩa là một sự gián đoạn ngắn từ làm chúng sanh. Làm Phật không có nghĩa là phải đi từ chúng sanh lên. “Loài nào đứng trên mặt đất mà không đi tới cũng chẳng đi lui ?”, Kyuho trả lời: “là con cừu đá với con cọp đá, trước sau gì chúng cũng mệt mỏi khi phải kình chống nhau”. Con cừu đá không nhúc nhích. Con cọp đá cũng không nhảy chồm lên vì đói. Điểm mấu chốt là đó - hãy đối mặt với sự việc vượt lên cả suy tư. Chúng ta được gì khi thực sự nắm bắt sự vật như chúng đang là ? Vượt trên sự suy tư. Vượt lên trên suy tư không cho phép nó tự suy tư. Dù bạn có nghĩ thế hay không, sự vật cũng đơn giản như chúng là. “Tất cả mọi pháp đều trống không” có nghĩa là không có gì để chúng ta can dự vào, vì không có gì thực sự xảy ra. Chưa từng có gì xảy ra, bất chấp những gì như đang xảy ra - đó là trạng thái tự nhiên. Ảo tưởng là đánh mất trạng thái tự nhiên này. Thông thường chúng ta không nhận ra được trạng thái tự nhiên này. Chúng ta che giấu nó với một điều gì khác, nên nó không còn tự nhiên nữa. Phật pháp có nghĩa là trạng thái tự nhiên này. Thực hành theo Phật có nghĩa là hoàn toàn sống trong giây phút hiện tại này - là cả cuộc sống của ta - ngay đây và bây giờ.

12. GỬI NGƯỜI MUỐN HỌC PHẬT PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN BẢN THÂN, “lý thuyết rỗng tuếch” là cách ta gọi những kẻ sính dùng thuật ngữ. Kiểu đó thì không ích lợi gì. Hãy đắm cả hồn và xác vào đó, bạn phải hoàn toàn chết để có thể quán tưởng về Phật pháp. Chỉ tự hành xác và chết nửa vời thì không đủ.

13. GỬI NGƯỜI CHO RẰNG PHẬT GIÁO KHÔNG CÓ NGHĨA LÝ GÌ ĐỐI VỚI HỌ, khi nói về Phật, bạn đang nghĩ đến một điều gì xa vời, không liên quan đến bạn, đó là lý do tại sao bạn chỉ chạy loanh quanh trong vòng tròn. Chúng sanh và Phật đều có cùng hình tướng. Tỉnh giác và si mê cũng có cùng hình tướng. Khi ta thực hành theo Phật pháp, chúng ta là Phật. Hay đúng hơn, chính vì ta đã là Phật nên ta có thể thực hành theo Phật pháp. Bạn nghĩ rằng Phật giáo thì hơi khác với mọi thứ, nhưng không phải như thế chút nào, Phật giáo chính là mỗi và tất cả mọi thứ.

14. GỬI NGƯỜI KHÔNG BIẾT VIỆC HÀNH THIỀN CỦA MÌNH CÓ ÍCH LỢI GÌ KHÔNG, thiền có ích gì, hoàn toàn không ?! Nhưng cái “chẳng ích lợi gì” này phải thấm vào xương thịt bạn cho đến khi bạn thực sự thực hành cái “chẳng ích lợi gì”. Chỉ đến khi đó, thì việc hành thiền của bạn mới thực sự chẳng ích lợi gì. Bạn nói rằng bạn muốn trở thành người tốt hơn bằng cách hành thiền. Nhưng thiền không phải là về việc học làm thế nào để thành một con người. Thiền là dừng lại việc làm người. Bạn nói, “khi thiền, tôi bị ảo tưởng !”, điên rồ, sự thật là chỉ khi hành thiền bạn mới ý thức đến các ảo tưởng của mình. Khi bạn quay cuồng với ảo tưởng của mình, bạn đâu hề để ý tới chúng. Lúc bạn hành thiền, một con muỗi chích bạn cũng biết ngay. Nhưng khi bạn đang quay cuồng, thì con vắt có cắn bạn cũng không hề hay. Đừng càu nhàu. Đừng có trao tráo mắt nhìn khoảng không. Chỉ ngồi !

15. GỬI NGƯỜI VỚI TÂM BẤN LOẠN ĐANG CỐ HẾT SỨC ĐỂ ĐƯỢC TÂM AN, tâm bạn không an vì bạn đang chạy đuổi theo lý tưởng của một tâm hoàn toàn thanh tịnh. Đó là đi thụt lùi. Hãy theo dõi tâm trong từng giây phút, dù nó có loạn động đến thế nào. Ta chỉ có thể đạt được tâm an lạc rộng lớn khi thực hành với tâm loạn động này. Khi sân cuối cùng được chấp nhận là tâm sân, thì tâm sẽ an lạc.

16. GỬI NGƯỜI CHO RẰNG MÌNH ĐẠT ĐƯỢC TRẠNG THÁI TÂM TỐT ĐẸP HƠN NHỜ THIỀN ĐỊNH, khi nào bạn còn cho rằng thiền là việc tốt thì có điều gì đó không bình thường. Hoàn toàn không có gì đặc biệt về thiền không vết nhơ. Không cần phải hàm ân về điều đó. Đừng làm ô uế việc hành thiền của bạn bằng cách nói là bạn đã tiến bộ, cảm thấy tốt hơn, hay trở nên tự tin hơn trong việc hành thiền. Chúng ta chỉ nói “mọi việc tốt đẹp” khi chúng xảy ra theo ý ta, lí ra chúng ta phải để dòng nước của trạng thái ban đầu của ta như nó là. Nhưng thay vào đó, ta cứ liên tục vọc tay vào đó để xem nước lạnh hay ấm. Đó là lý do nó bị vẩn đục. Thiền không phải là máy đo khi nhiệt độ từ từ tăng lên: “thêm chút nữa …, đúng rồi, giờ tôi đã đạt được giác ngộ”, thiền không bao giờ trở thành một điều gì đó đặc biệt, dù bạn có thực hành nó trong bao lâu. Nếu nó trở thành đặc biệt, chắc chắn là bạn đã lơi lỏng chỗ nào rồi.

17. GỬI NGƯỜI KỲ VỌNG MỘT CÁCH SỐNG TUYỆT ĐỐI, Phật pháp là gì, đó là để mọi khía cạnh trong đời sống hàng ngày của bạn đều nương tựa theo Phật. Cốt lõi của tất cả mọi hành động là đi đến chỗ tận cùng. Nếu tâm bạn vắng mặt dù chỉ một giây, bạn không khác gì cái xác chết, thực hành là luôn tự hỏi mình “ngay bây giờ tôi có thể làm gì theo như Phật ?”. Đạt được đích chỉ một lần thôi chưa đủ. Điểm tối đa của năm ngoái chẳng ích lợi gì. Bạn cần phải đạt được đích ngay bây giờ.