V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Viết trên cát

- Huệ Trân



Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào ra là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu. Cả một trời thu im lắng, u hoài trùm phủ quanh tôi.

Ngồi trong lòng xe nơi bãi đậu, tôi đang chờ quý thầy, trên đường tới tụng kinh hộ niệm cho người quá vãng của một gia đình nghèo mà thầy tôi vừa tình cờ biết tin.

Gió nhẹ
Lá thu rơi
Người còn
Kẻ mất
Hợp rồi tan

Ai cũng biết thế, nhưng dường như những lá thu rơi nhẹ nhàng, thanh thản hơn con người lúc ra đi. Lá lìa cành, theo gió, bay lượn êm ả như vẫy chào cây, rồi thầm lặng nằm trên mặt đất. Đất ân cần đón lá, lá an nhiên tiếp nhận nắng mưa, và lá biết rằng, rồi lá sẽ thành đất, để đất lại nuôi cây …

Bỗng nhiên, những tiếng gào khóc bật lên từ bên trong nhà quàn, vang động, xé rách không gian đang lặng lẽ ! Tiếng khóc, tiếng kể lể, tiếng thảm thiết gọi tên người vừa chết làm xôn xao những người đang hiện diện. Nhưng bên ngoài, nơi tôi vẫn ngồi yên trong lòng xe, gió thu vẫn thổi nhẹ, lá thu vẫn thong thả rơi, đất vẫn thầm lặng, nhẫn nhục, nhận những Đến và Đi …

Những tiếng khóc khi người-mất-người có mang chút nào ân hận vì đã chẳng tử tế đủ, khi còn nhau hay không ? Có lẽ nhiều ân hận, người ta mới khóc than như thế ! Nếu sống với nhau mà tử tế, mà thủy chung như cây với lá thì sự ra đi chỉ là tạm biệt, là chuyển hóa.

Tử tế với nhau thì có gì ân hận lúc chia tay theo lẽ vô thường !

Tiếng gào khóc càng lúc càng bi thương. Phải chi tôi có thể kể cho người đang khóc nghe một câu chuyện ngắn mà tôi từng được nghe từ một vị giảng-sư.


Hai huynh đệ đồng tu, khá thân thiết, đang cùng đi trên sa mạc. Hai vị nói đủ các thứ chuyện quanh đề tài tu học, và ở một đề tài, có sự bất đồng đến mức huynh thẳng tay giáng cho đệ một bạt tai. Đệ không nói gì, quỳ xuống trên cát, dùng ngón tay viết giòng chữ “Hôm nay bạn tôi đã tát tôi.”

Hai người tiếp tục đi, không ai nói gì với ai nữa. Ngang qua một khu sình lầy, người em hụt chân, lún xuống bùn. Lập tức, người anh đưa tay kéo em lên. Không một lời cám ơn, hai người tiếp tục đi, ra khỏi sa mạc, tới vùng đồi núi. Người em nhìn quanh, tiến tới một tảng đá lớn, dùng những viên sỏi nhọn, vận dụng hết sức lực để viết trên đá dòng chữ “Hôm nay bạn tôi đã cứu tôi.”

Lúc đó, người anh mới lên tiếng hỏi:

- Sao lúc huynh tát đệ, đệ viết trên cát, mà lúc cứu đệ, đệ lại viết trên đá ?

- Thưa huynh, những tàn nhẫn, đau buồn, hãy viết trên cát để cát bụi thời gian xóa nhòa đi, nhưng những tử tế, ơn nghĩa phải viết trên đá mà ghi tâm khắc cốt.

。。。

Câu chuyện chỉ có thế, nhưng nước mắt tôi đã lã chã rơi vì biết rằng, giữa cõi ta-bà chập chùng những dối gian, bội phản, tàn nhẫn này, phải có bao nhiêu bãi cát để nhân gian viết đủ ?!

Nhưng may thay, cũng an ủi, là đứng trước tảng đá, cắn ngón tay chảy máu làm mực, người con Phật còn lòng biết ơn sâu xa để viết xuống sáu chữ:

“NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ...”


CÓ và KHÔNG

- HT. Thích Huyền Tôn



Chớ vương vào có, mơ có có
Học đạo không không, phải thật không
Có có mà chi, đeo với có
Đã không, thì chớ cột vào không

Luân hồi sanh tử, ôi có có
Bỏ hết trần lao, lặng lẽ không
Có-Không, có có ... không không … có
Bạn đã thấy gì, lẽ Có-Không ?

Cái có chơn thường, là có có
Cái không không thiệt, lại không không
Tất cả đều không, không thật có
Hiểu rồi, thật có với thật không

Không như sừng thỏ, là không có
Có tợ chiêm bao, ấy có không
Chẳng chấp vào không, chấp vào có
Thong dong tự tại kể gì “CÓ - KHÔNG”

Danh ngôn (3)

- Tom Cruise



Khi cuộc đời nhấn chìm bạn nơi dòng xoáy hung dữ, bạn chỉ có hai con đường: buông xuôi để rồi chìm xuống dưới đáy hoặc sẽ hít một hơi dài để dũng cảm bơi tiếp.

Lục bát không đề

- Sưu tầm



Thõng tay buông những lụy phiền
Chậm sâu hơi thở trên triền trầm luân
Lắng lòng trong giọt tham sân
Là khi thiền vị đã gần nơi tâm

Thấy trong tiền kiếp xa xăm
Là bao ngày tháng u trầm sắc không
Tử sinh ngụp lặn giữa dòng
Sắc-Không vẫn cứ Sắc-Không nối liền

Từ nơi trùng khởi nhân duyên
Bước đi đi mãi về miền Chân Như
Thấy đời là cõi huyễn hư
Thấy Chân Như vẫn Chân Như đó mà

Vô minh rớt lại Ta Bà
Soi trong tự tánh thấy ta lại về
Thoát ra từ vực u mê
Vô Thường được mất có hề chi đâu

Bút máu

- Vũ Hạnh

Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười, có bài “Tơ liễu trong trăng” được tán thưởng nhất mấy câu:

Trăng cũ phô đầu bạc
Liễu tơ chuốt mi dài
Trăng, liễu xa ngàn dặm
Một tối hẹn vườn ai

Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người Cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được người Cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:

- Máu người tanh quá !

Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về. Ðến nhà, lạy Cậu thưa lên:

- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người ! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.

Người cậu giận lắm, bảo rằng:

- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội !

Lương Sinh cúi thưa:

- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng ? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.

Cậu nói:

- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời ! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên ! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữa.

Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình, dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngõ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lời.

Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi. Nhân tết Nguyên Đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa, phiếm du xuân thủy.

Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lưng muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùa. Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:

Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Ðông biếc, thoáng cười tiên nữ
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân

Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:

- Có người ám hại tiểu thư.

Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời. Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng. Ðám đông có tiếng thì thào:

- Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấy.

- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.

- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thư vàng ngọc !

Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen này. Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.

Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:

- Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẻo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.

Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày, Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt …

Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẻ khác màu, miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc “dân chi phụ mẫu” mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.

Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạc. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.

Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại . Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư, vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.

Người Cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, … văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo ? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn ! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng ? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào !

Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật.

Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo, chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi:

- Bác khóc thương thân quyến nào vậy ?

Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:

- Người nằm dưới mồ không phải là bà con quen thuộc của tôi.

Sinh nghĩ: “Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng ?” Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:

- Ông từ đâu mà đến đây ?

- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.

Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn:

- Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: “Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài.” Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồi. Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà thôi !

Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:

- Chẳng hay bác có biết ... danh sĩ ấy tên gì không ?

Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:

- Làm gì mà biết ! Mà biết làm gì ? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có ! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu ! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọa. Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: “Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người.” Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: “Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó !”

Người nông phu dừng lại nghẹn ngào nói tiếp:

- Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần !

Ðoạn gục đầu trước mồ khóc thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống hòa tiếng khóc theo.

Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.

Mộng

- Thư Pháp Việt



Chiêm bao mấy bận qua cầu
Tỉnh ra lại thấy rớt sâu giữa đời

Ta về giữ mộng trinh nguyên
Bờ hun hút lạnh, nắng xuyên hình hài

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài, gót mỏi đi quanh

Miệng nở Sen hồng

- Thích Tánh Tuệ



Ít nói cho lòng được tịnh thanh
Cho tâm hoa nở đóa Sen lành
Nhiều lời, lắm lỗi, đa phiền não
Bao nhiêu rối rắm mãi vây quanh

Ít nói quay về với tự tâm
Nương theo hơi thở niệm Phật thầm
Sáu cửa cài then, phòng hộ ý
Tỉnh thức từng giây, dứt lỗi lầm

Ít nói cho đời bớt nhiễu nhương
Chỉ cần im lặng trải tình thương
Gìn thân, miệng, ý … như gìn ngọc
Hoa Từ - Trái Huệ tự thơm hương

Ít nói, không là câm nín đâu
Cốt là ý nghĩa chẳng nhiều câu
Một lời đem lại nhiều an lạc
Hơn cả ngàn muôn ... rộn ý sầu

Ít nói tâm rền tiếng Phật âm
Lắng nghe an tịnh thoát mê lầm
Con nguyện vuông tròn câu Chánh Ngữ
Thắp đèn Tuệ Giác rạng nơi tâm

Ta là ai ?

- Ngọc Bảo



Mười năm về trước, trong một điện thư, tôi nhận được hai bài thơ chuyển đến từ một người bạn đạo tiền bối như sau:

Ta là ai
trong bể khổ cuộc đời

Ta là ai
trong nghiệp chướng vô minh

Ta hỏi người
người ngoảnh mặt làm ngơ

Ta hỏi ta
ta ngẩn ngơ lạc lối

Ta hỏi đời
đời lặng lẽ thả trôi

Ta hỏi em
em xa xôi ngàn dặm

Ta hỏi trời
trời yên không tiếng gió

Để ta say
say trong cõi phù du


Ta vẫn mong chờ tiếng Đạo gọi mời
Ta vẫn mong bình an đến cho người
Ta vẫn mong thời gian bớt ưu phiền
Ta vẫn mong thế giới sớm bớt thương đau

( Phạm Tiến )

Và bài thơ trả lời:

Ta chẳng phải ai, chẳng phải người
Như áng mây che khuất mặt trời
Chừng mây tan biến, trời quang đãng
Ta vắng trong ta, Đạo sáng ngời

( Nguyễn Văn Nghiêm )


Có bao giờ bạn tự hỏi, mình đích thực là ai không ?

Có bao giờ tự hỏi vì sao ta đến và đi trong cuộc đời này trong hình dáng như thế, sinh vào gia đình như thế, có những tính khí như thế, và gặp những điều xảy ra như thế ?

Đời sống có phải chỉ bắt đầu khi con người sinh ra và chấm dứt khi con người chết đi không ?

Có nhiều người tin như vậy, nhưng nếu khi tự hỏi “Ta là ai ?” thì câu trả lời sẽ không phải như vậy. Bởi sự sống không phải chỉ bắt đầu từ một thời điểm này và chấm dứt tại một thời điểm khác, mà luân chuyển qua nhiều thời điểm khác nhau, mãi mãi và vô tận. Sự sống đã có trước khi ta sinh ra và vẫn còn đó khi thân xác này không còn nữa. Thật ra, con người sinh ra từ sự sống, chứ không phải sự sống sinh ra từ con người.

Mỗi người sinh ra đều có một đời sống riêng biệt, một tâm tư riêng biệt, không có ai là giống ai cả. Cái gì làm nên sự khác biệt ấy nếu lúc sinh ra không có những hạt giống tiềm ẩn từ trước đem lại ? Ngay cả trong một kiếp sống này, chúng ta cũng luân chuyển từ con người này sang con người khác, từ một tâm tình này sang một tâm tình khác, như sinh ra và chết đi vậy. Như dòng nước chảy không bao giờ ngừng lại, từng ý nghĩ, từng cảm nhận đến và đi theo từng hơi thở, không có gì dừng lại, không có gì nắm giữ lại được.

Con người của ngày hôm qua không giữ lại được.

Con người của ngày hôm nay không giữ lại được.

Con người của ngày mai cũng không giữ lại được.

Tâm của quá khứ, hiện tại và vị lai đều không nắm giữ được. Thế thì ta là ai trong vòng biến dịch trùng trùng vô tận này ?

Những gì do duyên hợp đều sẽ do duyên tan, tất cả là giả tạm, vô thường mong manh như bọt nước, như giọt sương. Dưới lớp vỏ con người của ta trong sự kết hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần là một nền tảng KHÔNG bao la, rỗng rang không một vật, nhưng trong đó lại hàm chứa tất cả.

Ta đi tìm ta, để thấy ta chẳng phải là ta, cũng chẳng phải là ai cả. Nhưng khi không thấy mình là ai cả, ta mới giải thoát chính mình ra khỏi cái ta nhỏ hẹp tầm thường. Tâm ta sẽ rộng mở không còn vướng mắc nơi những điều yêu ghét hơn thua, hòa nhập vào sự sống mênh mông miên viễn, không có khởi đầu, không có chấm dứt.

Chỉ khi thấy ta không phải là ai cả, ta mới tìm lại được cái ta đích thực.

Cho bỏ lúc trăm năm

- Thích Tánh Tuệ



Đời ngắn lắm cầm tay nhau chưa đủ
Nói làm chi lời chia cách vực sâu
Hắt hơi thở là tạ từ cuộc lữ
Dẫu muốn tìm, chẳng dễ gặp nhau đâu

Ngày ngắn lắm chưa cười đêm đã xuống
Sao ta hoài ước muốn chuyện ... sương tan
Sao chỉ thấy ngày mai là hạnh phúc
Còn bây giờ, để phai úa thời gian

Em dẫu biết đời chẳng chi thường tại
Sao vẫn buồn ngây dại giữa hư hao
Khi sân khấu tấm màn nhung khép lại
Kiếp huy hoàng, lộng lẫy ... cũng chiêm bao

Đời ngắn ngủi sao lời thương chưa nói
Ngại ngần chi, người đang rủ nhau đi
Ai khóc ngất tiễn ai vào mộ địa
Bởi niềm thương giấu nhẹm lúc đương thì

Đời quá ngắn thương nhau còn chưa đủ
Bận lòng chi bao oán hận bâng quơ
Ta cười, bóng trong gương cười trở lại
Lòng yêu thương thành biển rộng vô bờ

B I Ế T

- Ngọc Bảo


Khi xưa còn bé, tôi nghe được một câu danh ngôn, không biết do danh nhân nào nói ra, nhưng đã để lại ấn tượng tới ngày nay, vì cho tới bây giờ tôi vẫn ... chưa hiểu hết được ý nghĩa của câu nói đó. Câu nói rằng: “Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống ...”

Trong đời sống trần gian, thông thường người KHÔN hay nắm được thời cơ hành động nên dễ được thành công và có nhiều lợi thế trong mọi phương diện - người DẠI trái lại ít khi nhận biết rõ vấn đề nên hay thất bại hoặc chịu thiệt thòi. Thế nhưng KHÔN và DẠI đều chết như nhau, chỉ có BIẾT mới sống. Thế thì BIẾT cái gì, và làm sao BIẾT ?

Một cách diễn giải giản dị là: sự khôn ngoan sắc xảo quá sẽ tạo sự chú ý và dễ gây thù chuốc oán, còn ngu dại quá sẽ bị lợi dụng và phản bội trở thành vật hi sinh tế thần … Thế thì phải BIẾT như thế nào để có thể sống được tốt đẹp an lành ? Thắc mắc này đã nằm ngủ quên trong tôi mấy chục năm nay, bây giờ tự nhiên trỗi dậy, vì một cơ duyên nào đó … Làm sao định nghĩa được chữ BIẾT ? Tìm nơi sách vở thánh hiền, trong Luận Ngữ của Khổng Tử, có một câu nói về BIẾT như sau:

Khổng Tử dạy Trọng Do: “Anh Do, ta dạy cho anh thế nào là Biết này. Biết điều gì thì nhận là biết, không biết thì nhận là không biết, như vậy là biết.” Câu này thoạt nghe có vẻ như … huề vốn, nhưng nghĩ lại thấy cũng rất sâu sắc. Chỉ nói điều mình biết, và thẳng thắn thú nhận điều không biết, đó là đã tự biết mình, biết những gì làm được và không làm được, và thoải mái thành thực với chính mình trong sự “biết mình” ấy. Chợt nhớ đến câu nói trong dân gian thật thấm thía: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe ...”

Tìm sự hiểu biết trong sách vở đã là điều khó, nhưng tuy sách vở nhiều vô biên mà biển học bao la lại còn vượt lên trên sách vở nữa, nhất là học về cuộc đời. Đời sống không đơn giản mà có rất nhiều liên hệ chằng chịt với nhau, cái biết chẳng phải chỉ có một mà có vô lượng, vô biên, nhưng nói chung “biết người” để mà sống là điều cần thiết, như Khổng Tử nói: “Đừng lo người ta không biết mình, chỉ lo mình không biết người.”

Biết người rồi lại còn phải tự xét mình, cẩn trọng trong lời nói và hành động để khỏi gây nên những hậu quả đáng tiếc. Khổng Tử nói:

Người quân tử có chín điều phải suy nghĩ:

1- Lúc nhìn, phải xem xét đã nhìn rõ chưa
2- Lúc nghe, phải xét xem đã nghe đúng chưa
3- Về sắc mặt, xét xem thần sắc có ôn hòa không
4- Về dáng dấp, xét xem có khiêm cung không
5- Lúc nói năng, xét xem có thành thực không
6- Lúc giải quyết công việc, xét xem có nghiêm túc không
7- Có điều nghi ngờ, xét lại coi đã thỉnh giáo người khác chưa
8- Lúc phẫn nộ, có nghĩ tới hậu quả xấu liên lụy đến người thân chưa
9- Đạt được điều gì, phải xét xem có thích ứng không

Theo lời dạy của Khổng Tử, trong nhân gian có hai hạng người, người cao quý và người thấp hèn. Quân tử là người cao quý, biết kỷ cương, sống theo luân thường đạo lý, còn tiểu nhân thì có lòng dạ hẹp hòi, chỉ biết đến quyền lợi mình mà bất kể người khác. Theo Luận Ngữ, người quân tử có một số hành động điển hình như sau:

- Người làm trước những điều mình nói, rồi mới nói sau.

- Người quân tử trông mong ở mình, kẻ tiểu nhân trông mong ở người.

- Người quân tử thân với mọi người mà không kết đảng vì tư lợi, kẻ tiểu nhân kết đảng vì tư lợi mà không thân với mọi người.

- Không oán trời, không trách người, học những điều phổ thông trong xã hội mà thấu hiểu thiên mệnh.

Cuộc đời của người quân tử theo khuôn mẫu của Khổng Tử là như sau:

“Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo lý). Ba mươi tuổi biết tự lập (biết khắc kỷ theo lễ nghĩa). Bốn mươi tuổi không nghi hoặc (tức có trí đức, hiểu rõ nhân, nghĩa, lễ). Năm mươi tuổi biết mệnh trời (biết những gì làm được, những gì không làm được). Sáu mươi tuổi đã biết theo mệnh trời. Bảy mươi tuổi sống tự nhiên theo ý mình mà không vượt ngoài khuôn khổ đạo lý.”

Nói chung, cái biết của Khổng Tử là cái biết về đạo lý lễ nghĩa để tạo lập một xã hội có kỷ cương trật tự. Cái biết ấy chú trọng vào những mặt nổi trong tương quan giữa người và người hơn là đi sâu vào đời sống tinh thần bên trong mỗi con người. Cá nhân chỉ là một thành phần mờ nhạt trong một tập thể vững chắc với nhiều thứ bậc.

Cao xa hơn Khổng Tử, Lão Tử phân tích đời sống tới tận nguồn gốc, đi vào một thế giới bao la và huyền nhiệm của vũ trụ. “Đạo khả đạo phi thường đạo ...” Bản nguyên của vũ trụ, những gì tạo nên thế giới này là điều vượt ngoài ngôn ngữ luận bàn, không thể nói ra, không thể đặt tên được, chỉ tạm gọi đó là Đạo. Đạo sinh ra vạn vật, Đức bao bọc, nuôi dưỡng cho vạn vật sinh trưởng và phát triển. Ở đây, chữ Đức được dùng với ý nghĩa khác với chữ Đức của đạo Khổng. Đức của đạo Nho mang ý nghĩa thiện ác, còn Đức của đạo Lão không có ý nghĩa thiện ác mà là lực tự nhiên của trời đất. Làm những gì hợp với lẽ tự nhiên của trời đất thì gọi là hợp với Đạo Đức.

Lão Tử chủ trương một đời sống phóng khoáng, không áp đặt kỷ cương lễ nghĩa, cho rằng mọi sự nếu để tự nhiên sẽ đi theo một trật tự nhất định. Đó là cách sống Vô Vi thuận theo những quy luật thiên nhiên của trời đất. Một trong những quy luật căn bản là Luật Phản Phục. Phản Phục tức là quay về. Mọi sự sinh ra trên thế giới này đều đi theo một vòng rồi trở về khởi điểm, sự sống cứ như vậy mà vận hành, luân chuyển và đổi mới mãi mãi, đó là quy luật thường hằng và vĩnh cửu (bất biến). Đạo Đức Kinh nói:

“Luật vận hành của Đạo là trở lại lúc đầu, diệu dụng của Đạo là khiêm nhu. Vạn vật trong thiên hạ từ “có” mà sinh ra, “có” lại từ “không” mà sinh ra.”

Biết được cái “thường” của quy luật này thì sáng suốt, không vọng động mà gây họa:

“Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên. Trở về căn nguyên thì tĩnh (bản tính của mọi vật), gọi là “trở về mệnh”. Trở về mệnh là luật bất biến (thường) của vạn vật. Biết thường thì sáng suốt, không biết thì vọng động mà gây họa.”

“Biết luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bình, công bình thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với Đạo, hợp với Đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy.”

Như thế, cái Biết của Lão Tử là cái biết Đạo, tức quy luật của thiên nhiên trời đất mà sống thuận theo đó, tạo lập một thế giới an bình hài hòa cho mình và cho mọi người. Thế giới đó là một “cõi tiên” lý tưởng, một chốn “non bồng, nước nhược” mà ngay cả thời Lưu Nguyễn ngày xưa cũng đã khó thể tìm thấy, bởi vì những người ở trong thế giới đó phải là những người thanh cao thoát tục, không nhuốm chút bụi trần. Thời xưa có những người đi vào chốn rừng sâu núi thẳm mà người đời cho là “tu tiên” để được trường sinh bất tử. Nhưng “cõi tiên” đó cũng có thể là một góc sâu kín nào đó trong tâm tư để ta trở về những khi mỏi mệt với những hệ lụy trần ai, muốn xa rời những lao xao của đời sống thế gian:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao

“Dại”“Khôn” ở đây, dĩ nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối và hàm chứa ẩn ý khác.

Trong chốn lao xao có biết bao điều phiền não khởi lên từ những đua tranh quyền lợi, từ những hơn thua, thắng bại. Mặc dù vậy, con người bao giờ cũng bị lôi cuốn trong những trò chơi ảo hóa thế gian, chạy theo hấp lực của thanh sắc, tình tiền và danh vọng. Mấy ai hiểu được những điều huyền vi mầu nhiệm của đạo Lão, mà nếu có ai hiểu được chắc cũng chẳng muốn nói ra, vì nói với người không hiểu thì chỉ gây thêm ngộ nhận. Bởi vậy Lão Tử nói:

“Người biết thì không nói, người nói thì không biết” (Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri)

Nói chung, đạo Khổng thiên về đời sống thế gian thường nhật, đạo Lão đi vào một thế giới lý tưởng xuất thế gian. Cả hai điều này đều được bao gồm trong đạo Phật, như trong câu nói: “Phật Pháp bất ly thế gian giác” - có nghĩa pháp Phật không ở ngoài cái biết về thế gian. Nhưng cái biết trong đạo Phật không chỉ là kiến thức, mà vượt trên giới hạn của kiến thức để trở thành cái biết vô biên của Trí Tuệ, của Tri Thức chuyển thành Giác Ngộ. Giác ngộ là mục tiêu đầu tiên trong đạo Phật. Giác có nghĩa là biết, Ngộ là gặp hay nhận ra - có nghĩa giác ngộ là nhận ra chân lý của đời sống đã có sẵn ngay nơi chính mình.

Danh từ “Giác Ngộ” đã được đạo Bà La Môn dùng trước khi đạo Phật được lập ra. Người giác ngộ được gọi là “Buddha”, Việt Nam xưa đọc là “Bụt”, sau theo tiếng Hán gọi là “Phật Đà”. Tuy nhiên, sự diễn giải về giác ngộ vẫn còn rất nhiều mơ hồ, vì đó là một trạng thái không thể đem chữ nghĩa ra luận bàn, mà chỉ có thể được cảm nhận qua sự thể nghiệm của từng cá nhân.

Trong Trung Bộ Kinh có kể câu chuyện như sau:

Vào thời Đức Phật tại thế, các đạo sĩ Bà La Môn thường hay bàn luận với nhau về câu hỏi thế nào gọi là một vị Phật, hay là người giác ngộ. Có một vị đạo sĩ già tên là Brahmayu, nghe tin Đức Phật Thích Ca là người đã giác ngộ đang du hành đến thị trấn của ông, nên quyết định đến thăm ngài để hỏi điều thắc mắc chính vẫn ấp ủ xưa nay: “Làm thế nào để được gọi là Phật, một người giác ngộ ?”

Đức Phật trả lời qua bốn câu kệ như sau:

Những gì cần biết rõ, ta đã biết rõ
Những gì cần từ bỏ, ta đã từ bỏ
Những gì cần tu tập, ta đã tu tập
Do vậy, vị đạo sĩ kia, Ta là Phật

Như vậy, sự giác ngộ của một vị Phật không chỉ là kinh nghiệm chứng đắc, mà là cả một quá trình vô hạn định để thực hành ba điều trong đời sống: biết những gì cần biết, bỏ những gì cần bỏ, và tu những gì cần tu.

Từ cung vàng điện ngọc Thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ tất cả, quyết chí đi tìm chân lý để giải quyết cho nỗi vấn nạn muôn thuở của con người: sinh lão bệnh tử. Vì đâu con người sinh ra trên cõi đời này để phải chịu những khổ não không tránh khỏi trong vòng luân hồi vô tận ? Có cách gì để xa lìa sinh tử, giải thoát khổ đau hay không ? Và chân lý ngài giác ngộ đã được trình bày trong bài pháp đầu tiên “Bốn chân lý cao thượng” (Tứ Diệu Đế), cũng được gọi là bài kinh Chuyển Pháp Luân:

1- KHỔ: là một sự thực hiển nhiên của kiếp người - sinh lão bệnh tử là khổ, muốn mà không được là khổ, yêu mà phải cách xa, ghét lại phải ở gần là khổ ... Nói về bản chất, con người do năm uẩn tạo thành (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) nên sự hiện hữu là vô thường, giả tạm, nếu chấp con người mình là thực thì khổ.

2- Nguyên nhân sự Khổ (TẬP): đó là lòng ham muốn, ái dục, tìm cầu những điều hoan lạc. Yêu và ghét đều kể là ái dục. Trong sự tham ái khởi lên lòng chấp thủ, trong lòng ham muốn khởi lên sự tìm cầu thỏa mãn - tất cả đều đưa đến đau khổ. Giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là trung gian cho ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nhưng vướng mắc trong những cảm giác của giác quan sẽ đưa đến cái khổ, vì thế trong kinh nói: “Thọ (cảm thọ) thị khổ”. Sâu xa hơn nữa, nguyên nhân đưa đến sự đau khổ trầm luân của con người là sự không biết rõ, hay biết sai lầm về bản chất sự hiện hữu của mình (vô minh), từ đó làm nhân cho luân hồi sinh tử.

3- Diệt khổ (DIỆT): là sự đoạn trừ khổ đau bằng cách xả ly lòng tham ái, sự ham muốn nắm giữ. Buông xả được dục vọng sẽ được tự tại tự do, giải thoát khỏi những phiền não. Ý niệm buông bỏ chỉ khởi lên khi nhận thức được sự khổ và nguyên nhân gây khổ. Nhưng sự buông bỏ rốt ráo chỉ có khi có trí tuệ thấy biết được bản chất mọi tướng là Không (chiếu kiến ngũ uẩn giai không) và tất cả những gì duyên hợp đều chỉ là huyễn ảo, lúc đó mới có thể “vượt qua mọi khổ ách” (độ nhất thiết khổ ách).

4- Con đường chân lý (ĐẠO): cũng gọi là Bát Chánh Đạo, là phương pháp diệt khổ và được giải thoát, gồm có tám phần: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định.

Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo là cốt lũy của đạo Phật, bao hàm ba yếu tố chính để làm thành một vị Phật, một người giác ngộ theo như lời Đức Phật nói: sự hiểu biết chân lý, từ bỏ và tu tập. Đối với con người bình thường, quá trình hiểu biết chân lý và tu tập này dường như quá cao xa, nhưng thật ra điều đó cũng có thể tóm gọn trong bài kệ thật đơn giản sau đây:

Buông mọi niệm ác
Năng giữ niệm lành
Giữ thân tâm thanh tịnh
Đó là lời chư Phật dạy

Trong đó có đầy đủ ba yếu tố: Biết, Từ Bỏ và Tu.

Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất là BIẾT. Biết thế nào là niệm lành, niệm ác để giữ lại và từ bỏ. Điều đó bao gồm sự quán chiếu thân ý trong mọi lúc. Cái biết trong từng sát na là vòng đai bảo vệ con người khỏi bị lôi cuốn theo những cảm xúc khởi động. Cái biết đó là sự tỉnh giác, là cái nhìn khách quan về chính mình và ngoại cảnh. Và trong sự quán chiếu thân tâm mọi lúc đó, sẽ khai triển một cái Biết sâu xa hơn về bản chất của chính mình, để nhận thấy trong thân xác vô thường hoại diệt này vẫn thường hằng một cái gì bất sinh bất diệt - đó là cái Không cỗi rễ, nền tảng của mọi hiện hữu, không chứa chấp cái gì nhưng vẫn hàm chứa tất cả, vì từ đó vạn sự khởi lên và cũng ở đó vạn sự trở về. Nền tảng Không ấy chỉ có thể được cảm nhận qua cái Biết thuần túy và trực tiếp của Tánh Giác - và chỉ khi tiếp cận được cái Không ấy, ta mới cảm thấy bình an thực sự.

Con người sinh ra ai cũng có bản chất như nhau, nhưng có người chìm đắm trong mê muội khổ đau, người được tự tại giải thoát, chỉ vì khác nhau ở chỗ Biết (giác ngộ) hay Không Biết (vô minh). Dù khôn hay dại, thành công hay thất bại trong cuộc đời, ai rồi cũng đi theo một con đường chung nhất: sinh lão bệnh tử. Nhưng người đã hiểu được lý Không của đạo Phật thì thấy sinh tử chỉ là hai mặt khác nhau của sự sống, nên thường an nhiên tự tại ở ngay trong sinh tử.

Phải chăng sự giác ngộ chân lý của đạo Phật đưa người ta đến chỗ “liễu sinh thoát tử”, hiểu rõ sự sống mà xa lìa sự chết, chính là cái Biết để sống trong sự sống vô tận, cái Biết vượt lên trên sự Khôn và Dại của thế gian ?

Bao nhiêu ...

- Thích Tánh Tuệ



Bao nhiêu mưa đổ bên trời
Để hồn sa mạc xanh ngời cỏ cây
Bao nhiêu là những áng mây
Cho đời bóng mát giữa ngày Hạ sang

Bao nhiêu là giọt nắng vàng
Thắp cho màu mắt đã tàn nỗi vui
Bao nhiêu tiếng nấc ngậm ngùi
Để ta khôn lớn, hiểu đời biển dâu

Bao nhiêu là những đêm thâu
Để người quên một mối sầu tơ vương
Bao lâu sống biết yêu thương
Để bù lấp nỗi vô thường bỗng nhiên

Bao nhiêu câu nói, lời khuyên
Để môi nở nụ cười hiền, thứ tha
Bao nhiêu ngày tháng cách xa
Để mình trân trọng món quà hôm nay

Bao nhiêu chua xót, đổi thay
Để lòng vẫn cứ đong đầy yêu thương
Bao nhiêu sớm nắng chiều sương
Theo đời cơm áo ... mà thương Mẹ già

Bao nhiêu là bóng chiều tà
Để ân cần một tách trà hiếu nhi
Bao nhiêu ngày tháng qua đi
Mở lòng ... hay khép bờ mi hững hờ

Bao nhiêu ... câu hỏi xa mờ
Đều trông chờ tại bến bờ ... tự tâm


Câu chuyện trước miếu Quan Âm

- Trang Hạ dịch, theo Saycoo-ĐL



“Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ !”

Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ, mỗi ngày đều ngập trong khói hương và những lời cầu đảo, nhện dần có Phật tính. Trải nghìn năm tu luyện, nhện đã linh.

Một ngày, bỗng Phật dạo đến ngôi miếu nọ, thấy khói hương rất vượng, hài lòng lắm. Lúc rời miếu, ngài vô tình ngẩng đầu lên, nhìn thấy nhện trên xà. Phật dừng lại, hỏi nhện:

“Ta gặp ngươi hẳn là có duyên, ta hỏi ngươi một câu, xem ngươi tu luyện một nghìn năm nay có thật thông tuệ chăng. Ðược không ?”

Nhện gặp được Phật rất mừng rỡ, vội vàng đồng ý. Phật hỏi:

“Thế gian cái gì quý giá nhất ?”

Nhện suy ngẫm, rồi đáp:

“Thế gian quý nhất là những gì không có được và những gì đã mất đi !”

Phật gật đầu, đi khỏi. Lại một nghìn năm nữa trôi qua, nhện vẫn tu luyện trên thanh xà trước miếu Quan Âm, Phật tính của nhện đã mạnh hơn. Một ngày, Phật đến trước miếu, hỏi nhện:

“Ngươi có nhớ câu hỏi một nghìn năm trước của ta không, giờ ngươi đã hiểu nó sâu sắc hơn chăng ?”

Nhện nói:

“Con cảm thấy trong nhân gian quý nhất vẫn là “không có được” và “đã mất đi” ạ !”

Phật bảo:

“Ngươi cứ nghĩ nữa đi, ta sẽ lại tìm ngươi.”

Một nghìn năm nữa lại qua, có một hôm, nổi gió lớn, gió cuốn một hạt sương đọng lên lưới nhện. Nhện nhìn giọt sương, thấy nó long lanh trong suốt sáng lấp lánh, đẹp đẽ quá, nhện có ý yêu thích. Ngày ngày nhìn thấy giọt sương nhện cũng vui, nó thấy là ngày vui sướng nhất trong suốt ba nghìn năm qua. Bỗng dưng, gió lớn lại nổi, cuốn giọt sương đi. Nhện giây khắc thấy mất mát, thấy cô đơn, thấy đớn đau. Lúc đó Phật tới, ngài hỏi:

“Nhện, một nghìn năm qua, ngươi đã suy nghĩ thêm chưa ? Thế gian này cái gì quý giá nhất ?”

Nhện nghĩ tới giọt sương, đáp với Phật:

“Thế gian này cái quý giá nhất chính là cái không có được và cái đã mất đi.”

Phật nói:

“Tốt, nếu ngươi đã nhận thức như thế, ta cho ngươi một lần vào sống cõi Người nhé !”

Và thế, nhện đầu thai vào một nhà quan lại, thành tiểu thư đài các, bố mẹ đặt tên cho nàng là Châu Nhi. Thoáng chốc Châu Nhi đã mười sáu, thành thiếu nữ xinh đẹp yểu điệu, duyên dáng. Hôm đó, tân Trạng Nguyên Cam Lộc đỗ đầu khoa, nhà vua quyết định mở tiệc mừng sau vườn ngự uyển. Rất nhiều người đẹp tới yến tiệc, trong đó có Châu Nhi và Trường Phong công chúa. Trạng Nguyên trổ tài thi ca trên tiệc, nhiều tài nghệ khiến mọi thiếu nữ trong bữa tiệc đều phải lòng. Nhưng Châu Nhi không hề lo âu cũng không ghen, bởi nàng biết, chàng là mối nhân duyên mà Phật đã đưa tới dành cho nàng.

Qua vài ngày, tình cờ Châu Nhi theo mẹ lên miếu lễ Phật, cũng lúc Cam Lộc đưa mẹ tới miếu. Sau khi lễ Phật, hai vị mẫu thân ngồi nói chuyện. Châu Nhi và Cam Lộc thì tới hành lang tâm sự, Châu Nhi vui lắm, cuối cùng nàng đã có thể ở bên người nàng yêu, nhưng Cam Lộc dường như quá khách sáo.

Châu Nhi nói với Cam Lộc:

“Chàng còn nhớ việc mười sáu năm trước, của con nhện trên xà miếu Quan Âm chăng ?”

Cam Lộc kinh ngạc, hỏi:

“Châu Nhi cô nương, cô thật xinh đẹp, ai cũng hâm mộ, nên trí tưởng tượng của cô cũng hơi quá nhiều chăng ?”

Nói đoạn, chàng cùng mẹ chàng đi khỏi đó.

Châu Nhi về nhà, nghĩ Phật đã an bài mối nhân duyên này, vì sao không để cho chàng nhớ ra chuyện cũ, Cam Lộc vì sao lại không hề có cảm tình với ta ?

Vài ngày sau, vua có chiếu ban cho Trạng Nguyên Cam Lộc sánh duyên cùng công chúa Trường Phong, Châu Nhi được sánh duyên với thái tử Chi Thụ. Tin như sấm động giữa trời quang, nàng không hiểu vì sao Phật tàn nhẫn với nàng thế. Châu Nhi bỏ ăn uống, nằm khô nhắm mắt nghĩ ngợi đau đớn, vài ngày sau linh hồn nàng sắp thoát khỏi thân xác, sinh mệnh thoi thóp. Thái tử Chi Thụ biết tin, vội vàng tới, phục xuống bên giường nói với nàng:

“Hôm đó, trong những cô gái giữa bữa tiệc sau vườn thượng uyển, ta vừa gặp nàng đã thấy yêu thương, ta đã khốn khổ cầu xin phụ vương để cha ta cho phép cưới nàng. Nếu như nàng chết, thì ta còn sống làm chi.”

Nói đoạn rút gươm tự sát. Và giây khắc ấy Phật xuất hiện, Phật nói với linh hồn sắp lìa thể xác Châu Nhi:

“Nhện, ngươi đã từng nghĩ ra, giọt sương (Cam Lộc) là do ai mang đến bên ngươi chăng ? Là gió (Trường Phong) mang tới đấy, rồi gió lại mang nó đi. Cam Lộc thuộc về công chúa Trường Phong, anh ta chỉ là một khúc nhạc thêm ngắn ngủi vào sinh mệnh ngươi mà thôi. Còn thái tử Chi Thụ chính là cái cây nhỏ trước cửa miếu Quan Âm đó, anh ta đã ngắm ngươi ba nghìn năm, yêu ngươi ba nghìn năm, nhưng ngươi chưa hề cúi xuống nhìn anh ta. Nhện, ta lại đến hỏi ngươi, thế gian này cái gì là quý giá nhất ?”

Nhện nghe ra sự thật, chợt tỉnh ngộ, nàng nói với Phật:

“Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ !”

Vừa nói xong, Phật đã đi mất, linh hồn Châu Nhi quay lại thân xác, mở mắt ra, thấy thái tử Chi Thụ định tự sát, nàng vội đỡ lấy thanh kiếm …

–––––––––

Câu chuyện đến đây là hết, bạn có hiểu câu cuối cùng mà nàng Châu Nhi nói không ? “Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ !”

Trong suốt đời ta, sẽ gặp hàng nghìn hàng vạn loại người.

Để yêu một người thì không cần cố gắng, chỉ cần có “duyên” là đủ. Nhưng để tiếp tục yêu một người thì phải cố gắng. Tình yêu như sợi dây, hai người cùng kéo hai đầu, chỉ cần một người kéo căng hoặc bỏ lơi, tình yêu ấy sẽ căng thẳng hoặc chùng xuống. Vậy khi bạn đi kiếm người ở đầu kia dây, hãy cân nhắc. Hoặc bạn có quá nhiều sợi dây tình cảm, hoặc bạn cứ liên tục tìm cái mới, hoặc khi dây đã đứt, bạn không còn can đảm hay lòng tin, tình yêu để đi tìm một tình yêu mới nữa.

Bất kể thế nào, khi sợi dây đó đứt, bạn chỉ mất đi một người không yêu bạn, nhưng người đó đã mất đi một người yêu họ. Mất một người không biết trân quý bạn, có gì phải buồn rầu ? Bởi bạn còn cơ hội, một lần nữa, gặp người biết rằng bạn quý giá.


Cầm bằng lướt phím cầu mong

- Bùi Thị Bình



Cuộc đời của mỗi con người luôn có sự đồng hành giữa NIỀM VUINỖI BUỒN, giữa KHÔNG, giữa HỘI NGỘCHIA LY, giữa tròn và khuyết …

Dưới đây là trích đoạn trong bài thơ “Cầm bằng lướt phím cầu mong” của tác giả Bùi Thị Bình, đã được đăng trong Tuyển tập Lộc phát Nhâm Thìn 2012

“... Cuộc đời
vốn đã khóc cười
Là cay đắng
là ngậm ngùi, tiếc thương

Cuộc đời
bao nỗi vấn vương
Là giá rét
là phong sương, cơ hàn

Nhẹ lòng đi
chút lỡ làng …
Ngàn năm còn đó
dã tràng biển đông

Trần ai
sắc sắc
không không
Vui buồn
sướng khổ
vốn vòng trầm luân …”

Danh ngôn (2)

- I. Pavlop



Đừng bao giờ cho rằng bạn đã biết mọi điều tất cả. Dù người ta có đánh giá bạn cao đến đâu chăng nữa, bạn vẫn luôn cần dũng cảm mà tự nhủ: “ta là kẻ còn dốt nát”.

Soi lòng

- Thích Tánh Tuệ



Có đôi lúc ta cần nên thận trọng
Ngồi lắng nghe dư luận nói về mình
Không lệ thuộc trước những lời hư vọng
Chẳng coi thường bao góp ý công minh

Vì … không lửa thì làm sao có khói
Nên lắng lòng xem xét lẽ thực hư
Và cười nhẹ khi biết mình không lỗi
Hiểu thêm rằng ... dư luận vốn luận dư

Khi cầm mảnh gương soi vào tâm khảm
Ta biết mình đẹp, xấu, đục hay trong
Vườn tâm địa giăng mắc nhiều cỏ dại
Mà cũng không thiếu vắng những hoa hồng

Thánh nhân nào mà không mang quá khứ
Tội nhân nào chẳng thể có tương lai
Chính vì vậy, nhủ lòng luôn khoan thứ
Kiếp con người ai thoát khỏi lầm sai

Sau mưa gió bên kia trời ửng nắng
Sau lỗi lầm, cay đắng, trưởng thành hơn
Điều quan trọng là tự tri, vượt thắng
Những đam mê, giới hạn của tâm hồn

Thường soi bóng bên dòng sông tâm niệm
Nếu ta cười ... ảnh hiện nụ cười ta
Cùng thế ấy, luôn sống đời hướng thiện
Vững tin mai, hạnh phúc lại trao quà

Có đôi lúc ta hãy nên nhìn ngắm
Thế gian này bằng đôi mắt trẻ thơ
Để nghe tiếng thương yêu từ sâu thẳm
Chỉ cái nhìn, nhân thế hết bơ vơ

Danh ngôn (1)

- Posdsluy



Lúc giận dữ, bạn đừng nên làm gì hết, vì có khi nào bạn giăng buồm giữa lúc bão tố không ?

Tiếng chuông

- Thích Tánh Tuệ



Tiếng chuông như lời Phật
Gọi hồn con trở về
Giữa dòng đời tất bật
Giữa muôn ngàn u mê

Tiếng chuông lời Bồ Tát
Suối mát ngọt tình thương
Tiếng dịu dàng thanh thoát
Đồng vọng chốn thiên đường

Chuông ngân dài buổi sáng
Ấm áp cả núi đồi
Băng qua nghìn sông suối
Chuông gọi đời xa xôi

Ngân nga lời nhắc nhở
Tâm tưởng hoài phiêu linh
Nhẹ nhàng tìm hơi thở
Quay về lại chính mình

Tiếng chuông như tình Mẹ
Ôm ấp con vỗ về
Con ơi, đừng rong ruổi
Nỗi đau đời lê thê ...

Chuông từ còn vang mãi
Giữa trần thế sương mù
Lay gọi người say mộng
Thức giấc đời âm u ...

Sống

- Thư Đạo Việt



Sống là động nhưng lòng không xáo động
Sống là thương nhưng lòng không vấn vương
Sống yên vui, danh lợi mãi coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến

Sống không giận, không hờn, không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên theo kịp ánh ban mai
Sống chan hòa với những người chung sống

Sống là cho chứ đâu để nhận
Mà cho đi là đã nhận rất nhiều . . .


Đạo - Đời

- Minh Dũng

Đời là cõi tạm trần gian
Đạo là bến giác từ quang nhiệm màu
Đời là tạo sóng ba đào
Đạo là hỷ xả dạt dào từ bi
Đời là oan trái thị phi
Đạo là chân lý bất di bất dời
Đời là bể khổ tơi bời
Đạo là Bát Nhã thuyền rời bến mê
Đời là bình phẩm khen chê
Đạo là khiêm tốn chẳng hề lợi danh
Đời là tranh chấp phân tranh
Đạo là thanh tịnh thiện hành tu tâm
Đời là thế sự oái oăm
Đạo là chánh pháp thậm thâm diệu kỳ

Đạo - Đời hai chữ khắc ghi
Dung hòa hợp lại còn gì lành thay
Tốt đời đẹp đạo dựng xây
Thường Lạc Ngã Tịnh chắp tay Di Đà



Dòng đời bến đạo

- Lam Khê


Quân bước xuống xe, rẽ vào con đường đất đỏ, nơi có chiếc cổng Tam Quan màu xanh rêu cổ kính. Gần bên với tấm biển thấp nhỏ ghi rõ hàng chữ nơi mà anh muốn tìm đến. Đến ngồi nghỉ mệt bên chiếc băng đá, chậm rãi đưa mắt nhìn toàn cảnh, Quân khẽ lẩm bẩm:

- Đúng là đây rồi. Nhưng sao lại yên ắng thế này ?

Cái nắng buổi trưa như đỏ lửa ở vùng đất nửa đồng bằng nửa cao nguyên này, cứ làm cho người mới chân ướt chân ráo tìm đến một cảm giác khô khốc đến ngạt thở. Ngồi xe khách suốt hai giờ đồng hồ, để đến một nơi khỉ ho cò gáy xa xôi như thế này, thật tình thì Quân chẳng hề muốn. Nhưng rồi, lời khẩn khoản của bà vợ suốt mấy ngày đêm, đã làm cho anh phải chùng lòng:

- Ông đi đến đó một lần đi. Khi thằng Hậu sắp được về, Thầy có hỏi thăm gia đình. Biết ông là bạn học cũ hồi còn ngoài quê, nên bảo nó nhắn Ba lên chơi. Hơn nữa, vợ chồng mình cũng phải đến đó tạ ơn Thầy chứ. Thằng Hậu được gởi lên đó một năm mà bây giờ nó trở nên ngoan hiền chăm học, không còn theo chúng bạn xấu lêu lỏng hút sách nữa đấy …

- Thôi nào ! – Quân ngắt lời vợ – Hừ, bạn học. Bao nhiêu năm rồi tôi còn người bạn học nào ngoài quê đâu. Với lại, tôi chẳng quen ai là người tu hành cả. Đã bảo bà gởi tiền cúng dường cho Thầy ... hay cái trung tâm cai nghiện gì đó là được rồi. Tôi còn khối công chuyện làm ăn, đâu có thời gian để đi đây đó.

Vợ Quân thừa dịp bắt bẻ:

- Phải rồi, ông thì suốt ngày chỉ biết kinh doanh tiền bạc, đến ngày nhắm mắt rồi cũng trắng tay có mang theo được gì. Bỏ bê con cái, đến nổi thằng Hậu mới tí tuổi đời đã phải vào trung tâm cai nghiện. Lúc nó vào trại, ông cũng phó thác để mình tôi lo liệu. Một lần lên thăm con cũng không có.

Quân gắt gỏng:

- Ô hay cái bà này. Con hư tại mẹ. Bà không biết câu nói đó à ! Sao cứ đổ tháo hết cho tôi. Lúc ấy tôi bận đấu thầu mấy công trình lớn, đâu thể bỏ mà đi được. Tôi làm ra tiền là để lo cho mẹ con bà mà.

Chị lại khóc lóc tỉ tê kể lể. Quân đành thu xếp mọi việc để đi lên đây. Thôi thì, cũng là để tham quan cái nơi mà lâu nay báo chí vẫn luôn nói đến, sau cũng muốn giải khuây cho đầu óc bớt căng thẳng giữa chốn thương trường đầy rắm rối. Quân không đi xe riêng. Làm một kẻ hành hương phong trần chẳng là hay hơn sao. Vả lại, để người ta khỏi nghĩ mình cao kỳ này nọ.

Quân khoác ba lô rồi đứng lên đi dạo quanh một vòng khuôn viên. Đang giờ nghỉ trưa nên thật yên tịnh vắng lặng. Cảnh trí thoáng đãng tươi xinh. Biết cơ man nào là cây xanh, là hoa cỏ muôn màu muôn sắc. Xa xa những ngọn đồi chập chùng lên xuống, phủ đầy những luống cà phê thẳng tắp trông thật bắt mắt. Trên những lối đi nhỏ trải sỏi, dẫn vào mấy dãy nhà ngang dọc còn thắm màu ngói mới tinh. Mùi hương của hoa quả ngào ngạt theo từng cơn gió từ cánh rừng thổi vào, làm cho Quân nghe lòng thư thái, trút nhẹ mọi nóng bức đường trường. Anh thả bước vào sân chùa.

Ngôi chánh điện không lớn lắm, lại mang dáng dấp của lối kiến trúc vừa hiện đại vừa cổ kính. Những đường nét được khắc họa thật tinh tế qua màu khói hương ẩn khuất trang nhã, tạo nên một dáng vẻ uy nghiêm trang trọng của chốn thiền môn yên tịnh. Vị trụ trì ra tiếp khách có độ tuổi trung niên. Sắc mặt Thầy điềm đạm nhưng nụ cười luôn tươi tắn, cùng với cung cách từ tốn lịch thiệp dễ gây thiện cảm cho người đối diện. Quân nhìn chăm chăm vào vị thầy, cố tìm kiếm một nét gì quen thuộc qua dáng dấp giản dị từ hòa của bậc tu hành. Vị sư rót trà ra tách, mỉm cười bắt chuyện:

- Cậu là Quân, có biệt danh là Quân sư quạt mo hồi còn ở ngoài quê đây mà. Thời gian trôi nhanh quá. Mới đó mà đã hai mươi mấy năm rồi. Cuộc đời thay đổi khôn lường đã đưa đẩy chúng ta thành những kẻ tha hương. Trong ngần ấy năm trời mới có dịp hội ngộ nhau.

Quân đỡ lấy chén trà, lòng vẫn còn bỡ ngỡ xa lạ. Vị thầy tiếp lời:

- Cậu vẫn chưa nhận ra bạn cũ à. Tôi là Khiêm đây. Tên đạo là Phước Như. Hồi đó chúng mình thường hay bày ra những cuộc chơi tinh nghịch nhất xóm. Cậu luôn là đạo diễn cho những trò chơi đó, nên được gán cho tên hiệu là Quân sư. Một lần ở bên bờ sông, cậu và tôi đốn tre chặt bẹ chuối lợp thành căn chòi nhỏ, rồi cậu lên chùa mượn của chú tiểu Nhi cái áo tràng cũ, mũ len và xâu chuỗi hạt đem về bắt tôi mặc vào giả làm Tăng. Tôi không chịu thì cậu bảo: “Mình chơi trò lễ Phật cúng dường mà. Mày có vẻ mặt hiền lành chơn chất làm thầy tu được hơn. Mặc áo đội mũ rồi vào trong thất ngồi yên tịnh như mấy thầy ở trên chùa ấy.” Cậu đúng là quân sư, nghĩ ra đủ cách và bắt người ta phải làm theo mình. Khi ấy cậu làm gã thương buôn, đi hái hoa và cây trái đem vào thất lá cúng dường cho tôi đang ngồi thiền tịnh tu.

Dòng ký ức chợt quay về. Đầu óc Quân bắt đầu khuấy động lại bao chuyện cũ mà từ lâu lắm đã bị những gam màu thời gian xóa nhòa gần hết. Một thoáng gần như bất động trôi qua. Quân chợt phá lên cười ha hả, quên mất mình đang ngồi trước mặt một vị tu hành:

- Tớ nhớ ra rồi, Khiêm … à không … xin lỗi, là Thầy Phước Như chứ. Không ngờ trò chơi năm xưa lại ứng nghiệm vào cuộc đời bọn mình đến thế. Tôi nhìn tướng thầy là nhà tu hành, quả không lầm mà. Thật thú vị khi gặp lại bạn xưa trong màu áo đạo. Khi mà cuộc sống đầy những tranh chấp lợi danh, có được những giây phút thư giãn đàm đạo cùng bạn hiền thì còn gì bằng. Rõ chẳng uổng công mình lặn lội đến đây. Mà này, con đường tu của Thầy bắt đầu như thế nào vậy ? Có phải khơi nguồn từ cái buổi bị bắt buộc ấy không nhỉ ?

Vị Thầy vẫn nở nụ cười thân thiện hiền từ:

- Hồi ấy tôi cũng không ngờ có ngày mình lại bước chân vào cửa thiền môn. Mà lại lên tận đây hành đạo. Cũng là nhân duyên cả thôi. Còn cậu, bây giờ đã là một thương nhân thành đạt dày dặn hơn trước nhiều. Thương trường cũng khốc liệt như chiến trường, luôn phải chịu sức ép cạnh tranh được mất hơn thua như bàn cờ luôn biến dạng. Cậu là người tài ba, có nghị lực thì tất nhiên sẽ sớm gặt hái thành công mỹ mãn. Nhưng có bao giờ cậu chợt nghĩ rằng, những gì mình nắm bắt đó chỉ như là bọt nước phù du. Nó dễ dàng vuột mất khỏi tầm tay bởi những biến chuyển của đời thường. Mình bươn chải lo cho đời sống gia đình, mà lại không thể xây dựng lên một nếp sống gia đình hoàn mỹ. Biết bao những thảm kịch gia đình bắt nguồn từ đó.

Ngồi trầm ngâm im lặng bên tách trà, Quân vờ như đang lắng nghe tiếng kiểng báo thức từ khu nhà ngang phía dưới. Nhiều tăng sĩ trẻ đang đi lại bên ngoài. Đời tu hành nhịp nhàng theo quy luật mà vẫn toát lên một cung cách an nhiên bình dị, tự tin ngay cả lúc họ đang bận rộn làm việc. Quân lên đây với chủ ý nghỉ ngơi thoải mái vài ngày, nhưng trong lòng vẫn có những toan tính của người quen việc mua bán đổi chác lâu nay. Anh đã nghe nói nhiều về vị tăng sĩ trẻ đầy tâm huyết này. Một mình lặn lội lên rừng khai hoang cả chục mẫu đất để gieo trồng những cây cà phê đầu tiên ở xứ này. Từ một mái am tranh dựng tạm, từ những hạt mầm bé tí cùng sức người tầm tã với mưa nắng, đã hình thành một cảnh quan kỳ vỹ với khu vườn cây kiểng, vườn cây công nghiệp bạt ngàn đang cho thu hoạch hằng năm. Một ngôi chánh điện khang trang cùng với số lượng tăng chúng về tu học, cộng sự khá đông. Chùa có mở phòng thuốc nam từ thiện, bốc thuốc khám bịnh cho dân quanh vùng. Ngoài ra nơi đây còn tiếp nhận nuôi dạy, cai nghiện miễn phí cho thanh thiếu niên cơ nhỡ khắp nơi. Vợ Quân chẳng hiểu sao lại biết rõ nơi xa xôi này, mà cấp tốc đưa thằng con lỡ vướng vào nàng tiên nâu lên đây. Sau một thời gian thằng Hậu trở về khỏe mạnh, dễ dạy và đi học lại. Mấy ngày rảnh nó còn đòi lên chùa làm công quả nữa.

Lúc này mọi dự định muốn xây dựng cơ sở làm ăn nơi đây gần như tan biến. Quân chỉ thấy mình đang ngồi trước một vị thầy, một người bạn cũ nhiều năm mà đường đời dung ruổi gặp lại nhau theo hai ngã rẽ. Trò chơi ngày xưa do Quân khởi xướng, còn sự hội kiến ngày nay ắt cũng sẽ tạo nên nhiều khúc quanh khác mà anh không thể tự định đoạt. Bất giác Quân thở hắt ra, chậm rãi nói:

- Hồi đó nếu tôi giả làm Tăng, biết đâu cuộc đời mình sẽ đi theo một chiều hướng khác. Còn bây giờ tôi có tất cả những gì mình từng mong muốn. Tiền bạc nhà cao cửa lớn, tiếng tăm danh vọng với đời. Nhưng đúng như lời thầy nói, mọi thứ đều mong manh, nó dễ dàng vuột khỏi tầm chỉ một sơ xuất hay rủi ro nào đó. Vì vậy mà cứ phải lo lắng tính mưu tìm kế để tồn tại giữa một xã hội không ngừng cạnh tranh này. Ngay cả khi lên đây, tôi muốn đánh đổi tất cả để có được vài giây phút bình yên hạnh phút thật sự, mà cũng khó đạt được.

Thầy Phước Như cười nhẹ tiếp lời bạn:

- Cuộc đời là một trò chơi hư ảo giả tạm. Nhưng trò chơi đâu phải lúc nào cũng chính là hiện thực cuộc đời. Ngày xưa ai giả làm Tăng thì cũng vậy thôi. Đời và Đạo hướng đi nào cũng tốt. Ở cương vị nào mình sống hoàn hảo theo cương vị đó. Sống không hỗ thẹn làm người, thì khi chết cũng nhẹ nhàng buông xả. Cậu là một nhà lãnh đạo có tài, có trí phán đoán tinh tế, giao tế rộng lại nắm bắt được mọi vấn đề. Đem những ưu điểm đó, cùng với tâm tư luôn hướng thiện, san sẻ bớt cho đời những gì mình có, cậu sẽ thấy lòng mình trở nên thanh thản yên vui. Một cuộc sống biết đủ chan hòa, biết yêu thương chăm sóc gia đình và những người khác, lúc ấy cậu sẽ thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa, và bình yên nhất không phải tìm cầu mơ tưởng xa xôi.

- Vâng, tôi hiểu. Những điều Thầy nói, những việc Thầy làm luôn ý nghĩa, nhất là với tôi trong lúc này. Rất tiếc là chúng mình gặp lại nhau hơi muộn. Mà đúng ra là nhờ thằng Hậu. Vì tôi mãi lo làm ăn, nghĩ kiếm tiền thật nhiều là được, nên không gần gũi dạy bảo con. Chính sự lỡ lầm của con mới được gặp Thầy hôm nay.

Quân hớp ngụm trà lấy giọng rồi nói tiếp, như thể đang bắt được nhịp để bày tỏ tâm tư:

- Nói chẳng quá lời … chứ nhờ Thầy, nhờ cái trung tâm cai nghiện này mà thằng Hậu con tôi mới tìm lại được cuộc sống bình thường như trước kia, và sau này cháu nó chắc chắn sẽ trở thành con người tốt cho xã hội. Lâu nay tôi đã xao lãng việc gia đình để cho con phải chơi bời sa đọa. Nhưng từ đây tôi biết mình phải làm gì. Có lẽ từ giây phút vừa đặt chân đến đây, tôi nhận thấy lòng mình đã thay đổi. Khi đối diện và trò chuyện với Thầy thì sự nhận thức đó càng rõ ràng hơn. Tôi đã có cái nhìn khác về cuộc sống, về mình, và với con đường đạo mà Thầy đang xả thân cống hiến. Thầy là người tu hành lại có tâm huyết với đời với đạo. Vậy xin hỏi duyên cớ gì Thầy lên chốn này hành đạo, mà lại mở ra một trung tâm cai nghiện giữa chốn núi rừng xa tít mù này.

- Tất cả đều là tình cờ. Khi mới tới, tôi chỉ mong làm một thầy tu núi an bần lạc đạo là đủ rồi. Sau này khi đã có vườn tược rộng rãi, tôi lại định mở khóa niệm phật cho Phật tử về tu. Rồi một lần có người đưa con lên xin ở lại để cách ly mà dễ dàng cai nghiện ma túy. Thế là ý niệm lập ra một nơi để giáo dục và giúp đỡ con em sa ngã bắt đầu từ đó. Không ngờ ngày càng nhiều học viên được đưa đến để cai nghiện, cơ ngơi lại phải mở rộng thêm. Các ngành truyền thông bắt đầu để ý đưa tin. u cũng là nhân duyên đưa đẩy. Hơn nữa, tôi nghĩ dù là người tu hành, mình cũng nên làm chút gì đó với khả năng có thể, để giúp đỡ xoa dịu sự đau khổ của người đời, cũng là chia sẻ bớt gánh nặng với xã hội.

Ngoài kia ánh nắng chiều dần lịm tắt, mà câu chuyện đời đạo vẫn miên man bất tận. Lâu lắm rồi Quân mới có được buổi nói chuyện cởi mở và chân tình như thế này. Một người đang bơi ngược trên dòng đời dập dìu khói sóng, bất chợt dừng lại nơi bến đạo thanh bình … khi kịp nhận ra được chân ý của đời mình sau nhiều bước ngoặt thăng trầm trong cuộc sống.

Nét cọ cuộc đời

- Hàn Long Ẩn



Ta lấy viết phết cuộc đời lên giấy
Nghe đất trời cuồn cuộn âm ba
Giữa thinh không ẩn hiện bóng sơn hà
Nghiêng nét bút phóng ngang bờ ảo mộng
Từ điểm khởi ta xổ dài kiếp sống
Như đường gươm vun vút lao nhanh
Rồi đứng yên ngó lại cuộc vi hành
Tâm ta đó, nét nhòe đậm nhạt

Đã mang kiếp phong trần phiêu bạt
Thì sá chi cuộc thế eo xèo
Hơn thua nhau tảng đá nặng còn đeo
Chấm thêm mực ta phẩy dài lần nữa
Đi loanh quanh chuyện đời rồi cũng rứa
Cũng đầu đuôi ngang dọc xéo xiên
Cũng lên lên xuống xuống ưu phiền
Thôi ta chấm để vo tròn nét mực

Bóng nguyệt lòng sông

- Thích nữ Trí Hải



Không tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì cái không cũng vô tận vô cùng. Có ở đâu, không ở đấy, và ngược lại, không ở đâu, có ở đấy. Ta không thể nói một câu như: “Tôi không”. Không cái gì mới được chứ. Cho nên phải thêm: “Tôi không tu hoặc tôi không biết, hoặc tôi không tiền. Như vậy khi một người nói “Tôi không ...” cái gì đó, thì ta biết họ quan tâm tới cái ấy. Nghĩa là không phải là hoàn toàn không. Phải chăng ? Người ta không thể nói họ “không” một cái mà họ hoàn toàn không dính đến.

Hãy nói cho tôi nghe bạn không cái gì, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn có cái gì. Một người quan tâm tới tiền thì không tiền là mối băn khoăn của họ. Một người tha thiết với hiểu biết thì không biết là điều họ quan tâm. Khi Albert Einstein nói: “Tôi chỉ biết có một điều, là tôi không biết gì cả” thì ta thấy ngay sự cưu mang lớn nhất, mối bận tâm lớn nhất của ông là sự hiểu biết.

Cho nên mỗi người có một cái không khác nhau tùy trình độ tâm hồn, tri thức của từng người. Cái không của tôi khác cái không của anh và cũng không giống cái không của nó. Cái không của người tại gia khác cái không của người xuất gia. Cái không của phàm phu khác cái không của hiền thánh. Và những cái không của các bực thánh hiền cũng khác nhau, nên kinh Kim Cương dạy, nhất thiết hiền thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt (pháp vô vi - hay không - tùy từng bực hiền thánh mà khác nhau). Chẳng hạn, cái không của phàm phu là không giới định tuệ, không các pháp thượng nhân. Cái không của một vị xuất gia là không những hệ lụy của tại gia (không vợ con, không gia đình). Cái không của Tu Đà Hoàn là không ba kiết sử: thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Tiến lên những bậc Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán thì lại có các không khác. Tất cả cái không ấy đều phải được vượt qua, xả bỏ, mới đi đến giải thoát hoàn toàn. Bởi vì chúng vẫn còn tương quan với cái có, chưa phải là “Không” tuyệt đối, chân không.

Khi kinh dạy, hết thảy pháp đều không (chỗ ngồi của Như Lai là hết thảy pháp đều không - Kinh Pháp Hoa) thì phải hiểu pháp ấy là cái chúng ta đang cưu mang cho là thật có. Người chấp tài lợi thì pháp đó là tài lợi, chấp danh thì pháp đó là danh, chấp thân thì pháp đó là thân, chấp tâm thì pháp đó là tâm, chấp không thì pháp đó là không. Phàm phu chấp đủ thứ thì pháp đó là đủ thứ. Bậc thánh nhị thừa tu quán vô ngã, thấy thân thể này chỉ là địa thủy hỏa phong ... là thấy được không ngã, nhưng vẫn còn có pháp, pháp ấy là địa thủy hỏa phong ... Vậy cái không ngã ấy cũng cần vượt qua để đi đến không pháp.

Mà pháp đáng nói nhất là cái chi ? Là cái “Không” ! Vậy không pháp là không luôn cả cái không ấy. Những ai đang ôm một cái không và hãnh diện vì nó, sẽ giật mình: “Vậy thì ta sống làm sao bây giờ, nếu phải bỏ luôn cả cái không đó ?” Trần Nhân Tông, sơ tổ phái thiền Trúc Lâm, khuyên ta khi cầm chén cơm lên ăn, nhớ xem xét cái muỗng, cái thìa. Ngay trong những vật tầm thường nhật dụng: chính đó, chỗ đặt chân đầu tiên và cuối cùng. Chính từ đó mà hạ thủ công phu. Chính từ đó, mà tìm bất sanh bất diệt. Đi tìm cái không sinh diệt ngay trong sinh diệt là như thế. Và cái không khi ấy lại trở về trong cái có để thấy rằng:

Có - Không bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có, có không là gì ?

Khỉ vớt trăng

- Thích Tánh Tuệ



Xưa có bầy khỉ nọ
Lội xuống hồ vớt trăng
Vớt mãi hoài không được
Nên mặt mày ... nhăn nhăn

Lắm khi mình giống khỉ
Tìm hạnh phúc trần gian
Đôi tay vừa chạm tới
Ơ ... mộng vàng vỡ tan

Trăng nghìn thu vẫn đẹp
Vì không thuộc về ai
Hồn khát khao chiếm hữu
Trăm năm nỗi đau dài

Ta một đời ngây dại
Chạy đua với mặt trời
Vừa thấy bờ hạnh phúc
Hoàng hôn phủ xuống đời

Danh, lợi, tình mộng mị
Tợ đáy nước trăng ngà
Lặn chìm trong mê hoặc
Nên ngàn đời xót xa

U mê ... thành kiếp khỉ
Chúi xuống dòng đảo điên
Ai giật mình, ngước mặt
“Vầng trăng xưa” hiện tiền

Biển reo vì đợi chờ

- Cư sĩ Liên Hoa

Khi những cơn đau bám víu trong tâm như những lời réo gọi, xô đẩy cuộc đời bay nhảy, nhấp nhô trên phương trời huyễn mộng. Bắt gặp lại nhịp tâm trong những nỗi hững hờ, gợi lại trong hiện sinh những chân chất của tấm lòng. Ai người bay cao ? Ai người gục ngã trên bước đường trần ? Lời từ bi vẫn réo gọi như từng cơn sóng vuốt ve trong những biến động của cuộc đời.

Xin bàn tay dừng lại, mong bước chân trụ thế, bước tâm hồn mở rộng, … cho đá cười, mây thở, lòng tươi, để là những thảo linh dược cho cuộc nhân sinh.

Một cuộc đời đã mất
Dưới vực sâu u huyền
Đá buồn vì héo hon
Biển reo vì đợi chờ

Bàn tay thảo linh dược
Một thoáng dễ buông lơi
Sắc màu vờn sóng nhỏ
Trùng dương hội biển khơi

Tiếng chuông chùa

- Giác Ngộ





Chân đi đếm tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa lại về …
( Hồ Dzếnh )


Nhiều đêm thức giấc trong sự vắng lặng của thành phố nhỏ này, lan man nhớ lại thời tuổi trẻ, bỗng dưng tôi thèm nghe một tiếng chuông chùa. Tiếng chuông đó tôi đã từng gặp trong những ngày tháng thơ ấu, tiếng chuông thanh thoát như gợi lên từ tĩnh lặng, đến đây từ hư vô, đem lại cho tâm hồn sự bình an, không phiền muộn.

Xin cho con niềm tin

- Phật Âm




Xin cho con một niềm tin
Tin vào chính bản thân mình
Không phạm vào những điều răn
Hằng ngày sám hối ăn năn

Xin cho con một lòng nhân
Tình thương đem đến xa gần
Nhìn bằng ánh mắt từ bi
Trải rộng tấm lòng vị tha

Xin cho con một con đường
Đi vào nẻo chánh đường ngay
Để con tu tập thường ngày
Thân tâm an lạc từ đây

Xin cho mọi người như con
Tình yêu thương hãy sống còn
Dẹp hận thù đến với nhau
Cùng tu hành theo chánh đạo

Tha thứ

- Hân Nguyện

Một thiền sinh hỏi:
– Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại … Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây ?
Vị sư phụ đáp:
– Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ.
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại:
– Con đã học được tha thứ cho họ, sư phụ ạ ! Thật nhẹ cả người, coi như xong.
Sư phụ đáp:
– Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ.
Người đệ tử gãi đầu:
– Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương yêu họ thì … Thôi được, con sẽ làm !
Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình. Sư phụ gật gù bảo:
– Tốt ! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy.
Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Anh tuyên bố:
– Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ !
Sư phụ cười:
– Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.


SUY NGHĨ:

Câu chuyện thật ý nghĩa, chúng ta có thể nhận ra rằng tha thứ giúp cho chúng ta đóng lại những đau thương, bất công trong quá khứ và nhìn nhận các sự việc rõ ràng để buông xuống. Tha thứ giúp cho chúng ta mở rộng lòng yêu thương, giúp cho ta nhìn lại chính mình đã làm hao phí năng lượng khi đánh mất lòng khoan dung.

Tha thứ chính là một tiến trình tiến hóa tích cực của nội tâm, khi chúng ta thật sự đối diện và buông xuống những đau thương, mất mát, bất công … chúng ta sẽ không còn mang lòng oán hận, giận dữ … từ đó giúp cho chúng ta không nuôi dưỡng những niềm cay đắng, phẫn uất, trả thù … để rồi tạo thêm những điều bất thiện ở hiện tại và tương lai lại phải nhận sự khổ đau.

Qua đó, chúng ta nhận rõ tha thứ giúp cho chúng ta sống an ổn hiện tại và tương lai. Vì vậy, có thể nói rằng “tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình”, vì khi chúng ta buông bỏ lòng thù hận, sẽ giúp cho tâm mình luôn bình an. Tâm bình an sẽ là chất liệu để tạo dựng nên lòng yêu thương từ bi cho mình và cho tất cả.

Đọc và suy ngẫm câu chuyện một lần nữa, chúng ta thấy rõ như một trình tự khi bạn biết tha thứ, bạn sẽ có lại tình thương với những đối tượng đã gây cho mình đau khổ mà bấy lâu mình đánh mất vì thiếu lòng khoan dung, hiện khởi Tâm Từ Bi rộng lớn, nhớ ơn tất cả đã cho chúng ta sự thành tựu này và chợt nhận ra rằng “vạn pháp vốn bình đẳng”.

Trên bước đường tu tập của người con Phật, chúng ta phải cảm ơn những bậc thiện hữu tri thức đã đưa đến cho mình nghịch duyên để chúng ta có cơ hội nâng cao đời sống tâm linh của chính mình. Nghịch tăng thượng duyên là vậy ! Thật vậy, nếu lúc nào cũng thuận duyên, cũng đều được quý mến thì ta dễ dàng bị ru ngủ trong niềm tự hào, hãnh diện, ta đang biến mình thành nô lệ cho sự cống cao ngã mạn … tự đánh mất chính mình lúc nào không hay. Vì vậy, vị sư đã dạy người học trò của mình phải biết ghi ơn những người đã đem đến cho mình những phiền não, oan uổng … để chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình, thực hành và chuyển hóa nội tâm, để nhận chân sự thật “Chẳng có ai là người tha thứ và được tha thứ cả !”

–––––––––

Với tôi, việc học cách tha thứ và hành theo những lời dạy của Chư Phật, Chư Tổ, ... không phải đơn giản và dễ dàng, nhưng cũng không phải là quá khó nếu mình muốn. Và tôi đã bắt đầu cho những sự việc nhỏ nhất từ trong cuộc sống của chính mình với mọi người xung quanh … để có được sự bình an hạnh phúc chân thật !

Cổ Đức có câu: “Càng buông bỏ dưới chân này - Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao” !