V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


VỘI

- Thích Tánh Tuệ



Vội đến, vội đi, vội nhạt nhòa
Vội vàng sum họp vội chia xa
Vội ăn, vội nói rồi vội thở
Vội hưởng thụ mau để vội già

Vội sinh, vội tử, vội một đời
Vội cười, vội khóc vội buông lơi
Vội thương, vội ghét, nhìn nhau lạ
Vội vã tìm nhau, vội rã rời …

Vội bao nhiêu kiếp rồi vẫn vội
Đuổi theo hạnh phúc cuối trời xa
Ngoài hiên đâu thấy hoa hồng nở
Vội ngày, vội tháng, vội năm qua

Cứ thế nghìn thu đời vẫn vội
Mặt mũi ngày xưa không nhớ ra
“Đáy nước tìm trăng” mà vẫn lội
Vội tỉnh, vội mê, vội gật gà …

Vội quên, vội nhớ vội đi-về
Bên ni, bên nớ mãi xa ghê
Có ai nẻo Giác bàn chân vội ?
“Hỏa trạch” bước ra, dứt não nề …

Chiếc áo cô đơn

-Cư sĩ Liên Hoa



Trên vai mang cánh hạc
Thỏng tay vào cuộc đời
Tìm ai trong say tỉnh
Tỉnh say một cuộc chơi
Hỏi rằng sanh là mộng ?
Hay tử là bến mơ ?


Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng. Tôi không phải là nhà văn hay thi sĩ để diễn tả những mảng hình chung quanh, nhưng cả bầu trời tuyệt đẹp. Có ai đã từng nhặt chiếc lá vàng rơi còn hương nhụy vẫy vùng muốn sống, muốn trở về thân cây mẹ nên tuôn những hương xót xa, lìa cành. Cái mùi hương này thật dễ chịu, thoáng mát. À quên, xin được nói nhỏ, đây chỉ là tưởng tượng cho ra văn vẻ, chứ đừng nên làm như vậy. Còn nếu muốn chứng tỏ mình nhiều thi tính, mộng mơ, nên nhớ đừng cho ai thấy, vì khi thấy mình gom lá nhiều quá, người ta sẽ nghĩ đó là người phu quét rác, hoặc nếu mơ mộng, cứ cầm lá vàng lên ngửi tới ngửi lui, e rằng họ sẽ nghĩ chắc là từ nhà thương … mới ra.

Tôi không nhớ rõ đã quen được con người này bao lâu rồi và trong hoàn cảnh nào. Chỉ biết là khi mới gặp nhau mà đã như thân lắm. Tôi là một thanh niên mới lớn, một sinh viên, sống phong trần, xa cha mẹ, anh em, họ hàng … một thân một mình trên đất Saigon. Saigon của những năm trong thập niên 70, lăn lóc trong hoàn cảnh đất nước đang bị chiến tranh, một xã hội đang bị xáo trộn tận gốc. Mọi giá trị tinh thần đều như đang bị định giá lại, tuổi trẻ không biết được ngày mai ra sao ? Và, tôi đã gặp vị tu sĩ này, cùng học chung lớp với nhau tại Trường Đại học.

Không biết tại sao tôi lại bị quyến rũ bởi dáng dấp thư thái, an nhàn nhưng tôn nghiêm của người này, hay như một nhân duyên nào đó. Thực tình, tôi không muốn làm quen với các vị tu sĩ, vì cảm thấy chán lắm, không có gì để mà sôi động hoặc thích thú cả. Tóc tai thì không có, cái model kỳ lạ. Tôi nghĩ nếu mà đầu mình láng như ông thầy, có nuớc phải chạy trốn hết mấy đứa bạn hoặc phải đội tóc giả quá. Mặt thì lúc nào trang nghiêm, dù hơi cười mỉm. Và ông ta - hình như cũng chẳng mấy quan tâm đến thái độ của mọi người chung quanh đối với mình, “kính nhi viễn chi”.

Bạn bè rất nhiều, nhưng rồi tôi lại lân la làm quen với vị tu sĩ này. Có lẽ, vì tò mò, vì khoảng trống vắng đang nở dần trong tâm hồn, cô đơn trước cuộc đời, bạn bè mỗi ngày thưa dần, đứa bỏ học, bỏ nhà ra đi bụi đời vì chán hoàn cảnh sống, đứa lên đường vì đất nước cần, đứa phơi thây ngoài trận địa. Chung quanh tôi, bóng đen đang dần dần bao phủ, quyện cuộc đời vào tâm trạng khắc khoải, buồn chán, hoang mang của tuổi trẻ thời chiến. Có nhiều lúc tự hỏi đời sống là gì ? Lý tưởng của tuổi trẻ ra sao ? Bấp bênh, vô định .v.v.v.

- Này ông, tôi phải kêu ông như thế nào hả ?

- Anh cứ gọi tôi tự nhiên, Sư hay Thầy gì cũng được.

- Vậy, gọi là Thầy nha. Sao Thầy đi tu vậy, đi tu hồi nào vậy ? Thầy có chán đời hay gì gì đó … không ? Xin lỗi nha, vì hỏi như vậy kỳ quá.

- Anh nói gì là gì hả ? À, anh muốn ám chỉ thất tình, phải vậy không ? Thú thật, tôi đi tu từ còn nhỏ, nên chưa hiểu thất tình là gì. Mà anh có thấy khi nào đứa bé 9-10 tuổi thất tình không há ?

Cả hai chúng tôi đều cười, nhất là câu hỏi nguợc lại dí dỏm của ông Sư này. Như vậy là tốt rồi. Tình thân giữa tôi và ổng càng ngày càng gần, bớt khoảng cách.

- Thầy à ! Mấy thầy tu có bao giờ biết yêu không Thầy ?

Vừa hỏi, tôi nhìn thẳng vào mặt của Thầy, tò mò muốn khám phá một phần nào bí ẩn đời sống của vị tu hành. Sao mặt ổng vẫn thản nhiên, cười cười. Một vẻ cười an nhiên, tự tại.

- Anh nghĩ sao ? Người tu chúng tôi đâu phải là người ngoài hành tinh xuống, hì hì …Tôi cũng là con người, cũng biết xúc cảm, biết rung động trước ngoại cảnh, chẳng hạn như sắc đẹp đổ nước nghiêng thùng. Tuy nhiên, Đạo Phật rất tự do. Khi mình không còn duyên tu hay đúng hơn, nếu mình không thể cuỡng lại những đam mê, ham muốn hay yêu đương của mình, mình có thể cởi áo tu ra, không ai cấm hết. Nhưng nếu đã quyết chí tu, thì do tuơng chao mỗi ngày, nên hì hì … mình sẽ chuyển những tình yêu cá nhân làm cho thăng hoa lên. Từ vị mình dần dần sẽ chuyển hóa thành vị người. Nè, vị người là vô ngã đó nha, chứ không phải vị một người nào đâu - có nghĩa sống cho nhiều người hơn. Khi mình sống vô ngã, mình sẽ thấy con đường rất thênh thang và tâm hồn mở rộng.

Và Thầy chợt đọc bài thơ ngắn …

Sao ta nỡ bắt mùi huơng
Trong đôi tay bé nhốt từng mây hương
Mở tay huơng thoát bay xa
Để hương lan toả, ta-người thảnh thơi
(Minh Thanh)


- Ủa mà Thầy cũng biết làm thơ nữa hả ? Hay thiệt ! Tại sao lại đi tu làm chi cho uổng vậy để phải cạo đầu ? Phải mặc áo nâu ? Phải ăn chay ? Phải tụng kinh ? Phải và phải …? Tu có phải chán đời không ?

Nghe những câu hỏi dồn dập của tôi, ông Thầy cười quá chừng chừng, làm tôi cũng ngượng. Dù gì thì tôi cũng không muốn mất người bạn này.

- Rất nhiều người mang thành kiến giống anh. Cứ thấy mấy ông sư hay ni cô là nghĩ rằng họ là những kẻ chán đời hay thất tình mới đi tu. Có lẽ họ bị ảnh hưởng của câu chuyện cải luơng “Chuyện tình Lan và Điệp” đó. Nếu mình đi tu mà tất cả giống như ở ngoài, thì còn gì để nói. Khi lìa gia (xuất gia) có nghĩa là chấp nhận cuộc sống khác thuờng tình, thì mình mới nương vào hình tướng đơn sơ đó làm khuông giữ mình. Người tu phải cạo đầu để hoại sắc, để không còn bám víu vào những giả tuớng, phải mặc những quần áo tầm thường để khỏi tham đắm, mê nhiễm, và ăn chay là để nuôi dưỡng lòng từ .v.v.v.

Có lẽ vì muốn cho tôi hiểu, ông còn nói về Tam Thường Bất Túc (Ăn, Mặc, Ngủ phải không đủ) của tu sĩ và còn nói, nói nhiều lắm. Ông giảng cho tôi biết cặn kẽ từng chút một để hiểu và để thông cảm với nhau. Tôi thật thán phục lối trình bày, khúc chiết và đồng ý với những lý giải đó.

- Thực ra, nếu phải nói ai là người yêu đời nhất, thì đó chính là người tu sĩ. Tôi không nói suông đâu nha. Anh nghĩ xem. Sống ở đời, hầu hết ai nấy đều lo cho mình, bản thân mình, gia dình mình, người thân mình, những gì liên quan hay thuộc về mình .v.v.v. Người tu sĩ lại khác, biến mỗi người thành người thân của mình. Họ là những người đa tình nhất như Đấng Cha Lành mà họ quy y - sau khi thành Chánh Giác, Ngài đã qua 49 năm lăn lội khắp bao nẻo đường, tiếp cận với tất cả mọi người để hướng dẫn đến bờ Giác. Đó là tấm lòng quá cao cả. Cho nên, người tu sĩ yêu con người và cũng muốn hoàn thiện mọi người, huớng dẫn tất cả đến Chân Thiện Mỹ. Sống và yêu lý tưởng đó theo con đuờng “Phục sự chúng sanh tức là cúng dường Chư Phật”…

- Thầy nghĩ sao về cuộc sống hiện sinh của thanh niên hiện nay ?

Tôi không phải là con người đang đi tìm cho mình một lý tưởng để sống, nhưng muốn tìm hiểu, qua vị sư trẻ này - quan niệm của Phật giáo hay tư tuởng của Thầy như thế nào về hiện sinh. Bởi vì, như nói ở trên, hoàn cảnh đất nuớc tôi bị chiến tranh và tất cả cho chiến tranh. Mạng sống con người vô nghĩa. Luân lý, đạo đức cần phải hỏi lại vì sự chênh lệch giữa mọi giai tầng trong xã hội đang bị giao động mãnh liệt. Thanh niên chán đời, sống hiện sinh. Tóc tai dài thược, quần ống loa, rộng thênh thang và … đó là những nỗi đau lòng da diết, nếu còn chút ý nghĩ về cuộc sống, về xã hội, về con người .v.v.v.

- Tôi muốn chia sẻ cùng anh về con đuờng của Đạo Phật. Anh có biết Phật giáo là con đường Siêu Hiện Sinh không ? Tuy nhiên, hiện sinh của lớp thanh niên hay trí thức .v.v.v. bây giờ khác xa với hiện sinh của Phật giáo.

Hiện sinh của tầng lớp người đang sôi nổi hiện giờ chỉ là một phong trào hay một lối sống bắt chước Tây phương. Sau Đệ nhị thế chiến, con người của xã hội Tây phương bỗng trở nên chán nản, vì thấy đời sống quá vô lý. Sự hoang tàn, chết chóc thê luơng, tàn bạo. Thượng Đế đối với họ đã chết, vì nếu có thì tại sao lại để cho chiến tranh tàn khốc xảy ra, tiêu hoang, hủy diệt biết bao nhiêu sinh mạng con người. Đó không thể cho là mầu nhiệm thử thách hay trừng phạt .v.v.v. Cho nên, để phản kháng lại sự vô nghĩa lý cùng cực này, họ lý luận rằng không cần đến Thần linh, Thượng đế. Họ chính là Thượng đế hay là chủ nhân của con người họ, sống bất cần ngày mai, sống cho mình và vì mình. Đó cũng có thể là một phần trong lý do phát triển của chủ nghĩa cá nhân cực đoan và lan tràn qua nhiếu quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Descartes nói rằng: “Tôi suy tư tức là tôi hiện hữu”. Như vậy, nếu tôi không suy tư thì tôi ở đâu, là gì ? Sự hiện hữu của tôi là hiện hữu có điều kiện, lệ thuộc vào một đối tượng, dù là tinh thần hay vật chất. Câu nói này quá nguy hiểm, đã làm bao nhiêu con thiêu thân lao vào, tạo sự phản kháng dù là tiêu cực để cuộc đời băng hoại, sống cá nhân vị kỷ hay bằng hành động tích cực, như đả phá thần tượng, phản đối cuộc đời, xã hội.

Một Jean Paul Sartre, một Albert Camus, một Francois Sagan và bao lớp nhà trí thức hiện sinh khác nữa .v.v.v. đã đóng góp thêm cho sự sinh động của quan niệm hiện sinh này và hậu quả ra sao thì mọi người đều rõ. Tôi không phê phán mà chỉ muốn chia sẻ với anh hay với họ. Họ rất đáng thương, đáng tội nghiệp vì bị vẫy vùng trong sự cô đơn. Bởi vì chính những gì họ phản kháng, đập vỡ … lại vô tình làm cho họ đau khổ, cô đơn hơn. Tất cả suy tư để hiện hữu chỉ là những vọng tưởng. Ráng nắm bắt vọng tưởng như một thực hữu, chỉ còn lại là khoảng không. Họ ráng đi tìm bản ngã, nhưng lại không dám đối diện hay sờ mó bản ngã, vì nó không thực hữu. Chia cắt nó ra, chỉ còn là tên gọi, họ đâm ra sợ hãi. Cho nên, hiện sinh chỉ là một phương pháp tạm thời để chạy trốn thực tại chứ không phải là cách giải quyết toàn diện khổ đau.

Như tôi đã nói với anh ở trên, người tu sĩ Phật giáo là những con người yêu đời và yêu con người. Những người con của Đức Phật là những người cô đơn chứ không cô độc như con người hiện sinh vị kỷ. Họ cô đơn quán chiếu nội tâm và họ khám phá ra rằng tất cả mọi hiện tượng dù tâm hay vật đều vô thường, đều không có thực ngã, mà do duyên hợp. Cho nên, bám víu vào đó sẽ đưa đến đau khổ.

Và điều hạnh phúc vô cùng của họ, chính là khám phá ra rằng trong tâm họ, Tánh giác thường hằng, rực sáng, dù qua bao lớp sóng vô minh, và tất cả mọi người đều có tánh Phật. Đó chính là lý tưởng tuyệt đẹp mà họ dấn thân. Hoàn thiện con người Giác ngộ của mình và giúp mọi người đều hoàn thiện Tánh giác của họ. Họ có biết bao nhiêu là Bậc Trưởng thượng, Tôn túc, Thầy Tổ .v.v.v. đã làm, đang dấn thân và sau này, sẽ có còn nhiều, nhiều nữa, những con người mang chiếc áo cô đơn tiếp nối, vì đó là sứ mạng của họ.

Chúng sanh nhiều vô kể, con xin thề nguyện độ
Phiền não nhiều vô tận, con xin thệ nguyện đoạn
Pháp môn nhiều vô số, con đều xin được học
Phật đạo rất cao thượng, con xin thệ nguyện thành

Ngài A-nan nguyện rằng: “Xin Đức Phật chứng minh cho con. Nếu ngày nào còn một chúng sanh chưa thành Phật, con sẽ không vào Niết Bàn”.

Ngài Địa Tạng: “Ngày nào còn chúng sanh khổ đau trong địa ngục, con sẽ không thành Phật”.

Đó phải chăng là con đuờng Siêu Hiện Sinh tuyệt vời. Hiện sinh với mình, sống hiện tại với tâm và làm nẩy nở Phật chất trong mình và đồng thời, chia sẻ với mọi người để giúp họ nhìn thấy và sống với Tánh Phật của chính họ. Sống với Tánh giác, đầy đủ suối nguồn từ bi và trí tuệ, biên giới ích kỷ, chia cách giữa người người chấm dứt và mọi người đều chan hòa trong hạnh phúc của cõi Cực Lạc trần gian, biến nơi đây là Tịnh thổ như bản hoài của Đức Phật.


– – – – – – – – –

Tôi vội vàng chạy đến ngôi chùa, nơi vị tu sĩ này đang ở. Nghe văn phòng của truờng học, các vị giáo sư phụ trách lớp và các bạn sinh viên cùng lớp cho biết vị sư đã qua đời, và ngày mai, sẽ đem đi hỏa thiêu. Họ vừa được tin sáng nay, và báo cho tôi, vì ai cũng biết chúng tôi rất thân với nhau. Tôi giật mình, gằn giọng hỏi: Có thật vậy không ? Và hy vọng câu trả lời của mấy đứa bạn là chỉ đùa giỡn. Không được, cả các giáo sư cũng đều cho biết như vậy mà. Nếu mấy tên này không thì còn có thể nói là vui đùa được, vì sự sống chết lúc này rất bất thường đối với mọi người trong thời buổi nhiễu nhương, chiến tranh. Do đó, chúng tôi thường hay vui đùa với nhau, dù rằng có đem cái chết ra nói nữa.

Trong gian phòng của Vãng Sanh Đường, chiếc quan tài nằm im lặng, bất động giữa phòng. Chỗ đầu quan tài, trên cao sát vách tường, có hình vị Phật cầm hoa sen, tay phải buông xuôi xuống như đang tiếp ruớc. Khuông hình long lanh hình ảnh của vị Thầy nằm phía dưới, như đang mỉm cười. Bài vị có tên họ, pháp danh … ngày mất 14.07.1972. Như vậy là đúng rồi ! Thầy chết còn trẻ quá. Ước nguyện làm ích lợi cho Đạo, giúp Đời mà ngày nào Thầy tâm sự cùng tôi còn đó. Từ vị sư này, tôi học được nhiều, nhiều lắm. Cái cách đi, cách nói, đứng, cười, lý giải, cách sống theo sáu nguyên tắc sống hòa thuận .v.v.v. đã bao lần làm tôi bình tĩnh, an tâm trong những lúc hoang mang, cùng quẫn với con đường trước mặt. Tôi không những quý kính Thầy vì là Thầy tu, mà còn là một người bạn thân thiết. Thầy ra đi để lại trong tôi khoảng trống vô biên. Nước mắt tôi rơi xuống, đứng lặng yên thật lâu trước di ảnh của Thầy. Vẫn biết đời sống con người ngắn ngủi, nhưng tình thân thì thật là dài. Và như không dằn được, tôi quỳ xuống. Thầy ! Thầy ơi ! Tôi buột miệng kêu lên và bất động.

Thầy có tuổi trẻ, tôi cũng vậy. Nhưng con đường Thầy chọn nó đẹp và nên thơ, qua cách sống và lý tưởng của Thầy. Tuổi trẻ của tôi là những nổi loạn, bất mãn, chán đời, vì chỉ có những xáo trộn, điên cuồng này mới biểu lộ được sự hiện hữu của chúng tôi. Còn với Thầy thì tuổi trẻ là chia sẻ, ban cho và đi với người để chỉ đến con đuờng an lạc. Thầy thường nói Đạo Phật không phải là các tuợng Phật đang được tôn thờ, là những kinh sách dầy đặc như rừng, mà là phải sống với Tánh Phật của chính mình, mình mới không bị đau khổ và mới có sự an lạc để đem chia sẻ đến mọi người.

Đó là những dấu ấn của tâm linh, nuôi dưỡng tâm tôi trong những sắc màu của Phật giáo. Người ta nói Đạo Phật rất cao siêu, huyền diệu .v.v.v. nhưng đối với tôi, qua một khoảng thời gian dài quen biết vị Thầy này, với những bài Pháp ngắn gọn, thực tế, trẻ trung, cùng những cách chỉ làm sao chăm chút ngôi vườn Tâm, là những dấu ấn tinh thần sinh động. Hiểu Đạo Phật đâu cần phải nơi xa, cao siêu, đâu cần phải triết lý này hay triết lý nọ, nếu chúng ta không dẫm chân trên mặt đất này, với từng giờ phút sống hiện tại. Nếu chúng ta cứ bay bổng trên cao vời vợi, nhưng guơng mặt lúc nào cũng không tươi mát, cau có như …

Tôi không tôn thờ Thầy như một thần tượng, nhưng là một người bạn thân. Thầy đã đến và chia sẻ với tôi như vậy. Trong Phật giáo không có sự tôn thờ thần tượng. Khi chúng ta tôn Đức Phật như một vị thần linh, cầu ban phuớc, mà quên rằng Đức Phật chỉ là vị thầy chỉ đường cho chúng sanh thấy được tánh Phật của mình, rồi chúng ta cầu khẩn, van xin những thứ tầm thường theo uớc vọng của mình, chúng ta đã đi sai đường và làm mất ý nghĩa của Đạo Phật. Khi chúng ta tôn vị Thầy, dù là bất cứ ai lên làm thần tượng, vô tình chúng ta đã biến vị Thầy đó là sở hữu của mình, để biến hóa vị Thầy theo ý mình muốn hay tình cảm của mình. Biến phương trời cao rộng của vị Thầy thành những thứ thường tình, lạt lẻo, vô nghĩa.

Chúng ta rất vui mừng vì hiện nay, Phật giáo đang nở rộ, phát triển mạnh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Phật giáo như một biểu tượng của Tình thương - Trí tuệ sáng suốt và Hoà bình, cùng với những truyền thống tâm linh khác, đóng góp và đem lại niềm an lạc thực sự cho nhân loại. Riêng Việt Nam, suốt dòng lịch sử truyền thừa của Đạo Phật và truớc năm 1975, trong các vị Tơn Đức, Tăng Ni … chỉ có vài vị có được học vị ngoài đời với cấp bằng Tiến sĩ hay Cử nhân .v.v.v. nhưng sức sống tâm linh của Phật giáo qua các vị Thạc đức - cuồn cuộn đi vào cuộc đời, phổ cập ở mọi miền đất nuớc, chia sẻ và đem lại an lạc tinh thần cho biết bao nhiêu người Việt. Đơn giản nhất là khi ăn, mà các Ngài vẫn còn nghĩ đến:

“1- Công khó của người làm ra vật thực. 2- Xem xét đức hạnh của mình. 3- Không được tham đắm. 4- Đây chỉ là lương dược nuôi sức khoẻ. 5- Và quan trọng, phải thành Phật quả.”

Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông
(Huyền Không)

Tự tri

- Thích Tánh Tuệ



Nhiều lắm phù du sống một ngày
Đời mình cũng rứa, có ai hay
Diễm mộng đêm qua thành triệu phú
Thức giấc, bật cười ... vẫn trắng tay


Nhà dẫu trăm gian ngủ một giường
Bạc vàng chất chứa ngập trong rương
Một cơn gió ác thành thiên cổ
Thần thức ngục tù trong vấn vương

Dẫu ta quen biết đầy thiên hạ
Mấy kẻ quan hoài cho ... nén hương
Tơ tình bao mối thành xa lạ
Mình lẻ loi đi, nghiệp dẫn đường

Vô thường một sớm làm cây chổi
Quét lá mùa thu, quét mạng người
Nếu hay vạn sự là mây nổi
Thì giờ nắm níu hoặc buông lơi

Nhiều lắm trăm năm một kiếp người
Đến rồi ai cũng phải đi thôi
Hãy sống sao cho đầy ý nghĩa
Để buổi xuôi tay miệng mỉm cười


Chăn trâu

-Ngọc Bảo

“Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ ...
Ngồi mình trâu phất ngọn cờ lau, và miệng hát nghêu ngao ...”


Bài hát chăn trâu này là một bài hát quen thuộc ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1950-1970, đến nỗi gần như ai cũng có thể thuộc và hát được, vì tiết điệu và lời hát giản dị, vui tươi, gợi lên một thời kỳ êm ả, với những thú vui mộc mạc của đời sống đồng nội.

Thế nhưng không phải chăn trâu lúc nào cũng dễ dàng và thảnh thơi như vậy. Trâu có thể là một con vật đắc lực nhất cùng sát cánh với người nông dân trong công việc đồng áng nặng nhọc, nhưng cũng thuộc về giống dữ, nếu chưa thuần hóa sẽ phải bỏ rất nhiều công sức ra mới chế ngự được nó.

Riêng đối với đạo Phật, trâu còn mang một ý nghĩa đặc biệt, đó là hình ảnh của đạo Tâm, và thường được nhắc đến trong ngôn ngữ của Thiền. Chúng ta thường nghe nói “cưỡi trâu đi tìm trâu” – đang ở trên lưng trâu mà đi tìm trâu ở ngoài, làm sao thấy được trâu ? Điều đó cũng giống như là đem tâm đi tìm tâm – đang ở trong tâm mà muốn đi tìm tâm, làm sao thấy được tâm. Giai thoại nổi tiếng của Huệ Khả và sơ tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma đã nói lên điều này.

Huệ Khả một hôm thưa với thầy rằng:

– Bạch thầy, tâm con không an, xin thầy chỉ cho con cách an tâm.

Đạt Ma nói:

– Đem tâm đây ta an cho.

Huệ Khả xoay lại tìm tâm, quán chiếu đến cùng, chẳng thấy tâm đâu, bèn nói:

– Bạch thầy, con không thấy tâm ở đâu cả.

Đạt Ma nói:

– Ta đã an tâm cho ngươi rồi.

Một giai thoại nổi tiếng khác của Thiền Tông về trâu, cũng là một câu thoại đầu để suy ngẫm, là câu nói của Thiền sư Linh Hựu ở núi Quy Sơn. Một hôm sư thượng đường bảo chúng:

– Sau khi lão Tăng trăm tuổi, đến dưới núi làm một con trâu, hông bên trái viết năm chữ “QUY SƠN TĂNG LINH HỰU”, khi ấy gọi là Quy Sơn Tăng hay gọi là con trâu ? Gọi là con trâu hay gọi là Quy Sơn Tăng ? Gọi thế nào mới đúng ? Tướng trâu và tướng Tăng, đâu mới là thực tướng của Quy Sơn Linh Hựu ? Đó là câu hỏi mà vị thiền sư đã đặt ra cho chúng ta.

Một công án khác nổi tiếng của Thiền Tông là công án “Con trâu đi qua cửa sổ”. Con trâu to lớn lực lưỡng đã chui lọt thân mình qua được cửa sổ, nhưng chỉ vì một cái đuôi nhỏ xíu mà bị mắc kẹt. Làm sao giải thích được sự phi lý này ?

Trâu tượng trưng cho Tâm. Trâu chui lọt thân mình qua cửa sổ ví như tâm đã được chuyển hóa từ vô minh qua giác ngộ, nhưng vẫn không liễu ngộ được vì còn một chút gì vướng mắc. Sự vướng mắc ấy, dù nhỏ đến đâu, cũng vẫn là chướng ngại cho sự giác ngộ. Câu trả lời cho mỗi người về sự vướng mắc của mình chỉ được tìm thấy qua kinh nghiệm tự tu tự chứng, không phải là một công thức chung cho mọi người.

Làm sao trâu lại được ví với tâm ? Trâu là con vật có thể rất dữ, nhưng cũng có thể rất hiền nếu đã thuần phục được nó. Một tâm buông lung theo vọng tưởng điên đảo ví như con trâu hoang, nếu không biết chế ngự sẽ tạo bao nhiêu nghiệp ác, gây tổn hại cho bản thân và tha nhân. Trong thiền môn có pháp tu chăn trâu, ngụ ý phải chăn dắt tâm mình như chăn dắt trâu vậy, cho đến khi hoàn toàn chế ngự được tâm thì tâm sẽ được an định, và tự đó sẽ trở thành một suối nguồn an vui lợi lạc.

Nổi tiếng nhất là mười bức tranh chăn trâu, còn được gọi là «THẬP MỤC NGƯU ĐỒ», có thể xem như một biểu hiện cô đọng nhất, tinh túy nhất của pháp môn tu tâm. Các bức tranh chăn trâu được sáng tác trong thời nhà Tống (960-1279) và ngay từ đầu đã được xem như những bức họa tiêu biểu, trình bày tinh hoa, cốt tủy của Thiền Tông. Có nhiều bộ tranh chăn trâu khác nhau, nhưng nổi tiếng nhất là hai bộ tranh chăn trâu của Thanh Cư và Quách Am.

Bộ tranh chăn trâu của Thanh Cư được coi như tranh Đại Thừa gồm sáu bức, đầu tiên thiền sư Thanh Cư vẽ có năm bức nhưng sau đó thiền sư Tự Đắc vẽ thêm bức thứ sáu. Trong bộ này, con trâu đầu tiên toàn màu đen, rồi trổ trắng dần qua từng bức tranh, từ trên đỉnh đầu, rồi lan qua mình, cho đến chót đuôi. Trâu đen tượng trưng cho tâm si mê, chìm lấp trong lớp bùn lầy của vọng tưởng, dần dần qua công phu tu tập, gạn lọc được những lớp vỏ trần cấu bao bọc mà trâu đen trở thành trâu trắng, tượng trưng cho chân tâm thanh tịnh. Đây là pháp môn tu niệm theo giới định tuệ, sử dụng công phu theo từng nấc thang.



















Bộ tranh chăn trâu của thiền sư Quách Am Sư Viễn gồm mười bức, được coi như là tranh của Thiền Tông, diễn tả xa hơn quá trình công phu của một hành giả từ lúc bắt đầu tu tâm cho đến khi giác ngộ viên mãn. Tiến trình của mười bức tranh có thể nói sơ lược như sau:

– Bức thứ nhất: MỤC ĐỒNG ĐI TÌM TRÂU
Tìm trâu ở đâu ? Chung quanh chỉ là rừng sâu núi thẳm, nẻo dọc đường ngang, mục đồng tìm kiếm mệt nhoài mà chỉ nghe tiếng ve sầu réo rắt.

– Bức thứ hai: THẤY DẤU VẾT TRÂU
Sau bao nhiêu công sức, mục đồng đi đến ven rừng bến nước, vạch cỏ ruồng cây, bỗng thấy dấu chân trâu hiện ra.

– Bức thứ ba: THẤY THÂN TRÂU
Mục đồng đến nơi cảnh trí tươi mát, chim hót trên cành, nắng ấm gió hòa, bờ liễu xanh, thì ra trâu vẫn sừng sững ở đó mà không thấy.

– Bức thứ tư: BẮT TRÂU
Mục đồng chụp lấy trâu, rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh, canh chừng không để trâu xổng ra, dũng mãnh quyết thắng trâu.

– Bức thứ năm: CHĂN TRÂU
Lần lần trâu thuần tánh, mục đồng buông roi mà trâu vẫn đi theo như bóng với hình.

– Bức thứ sáu: CƯỠI TRÂU VỀ NHÀ
Mục đồng thong thả cưỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, ca hát líu lo, cả người lẫn trâu đều vui vẻ.

Nói về ý nghĩa từ bức thứ nhất đến bức thứ sáu, cũng là toàn bộ sáu bức tranh của Đại Thừa, có thể tóm gọn như sau:

Con người sống buông lung theo vọng tưởng để rồi chìm đắm trong ngoại cảnh, tâm đi lạc hướng theo những cảm xúc mà không chủ động, không nắm bắt được nên không thoát được phiền não, một lúc nào đó tỉnh ngộ muốn đi tìm lại tâm. Lúc đó như chú mục đồng đi tìm trâu, từ bao lâu nay để mất trâu, đến lúc đi tìm thì như lạc vào trong rừng rậm. Tìm tâm cũng như đi vào rừng rậm, trùng trùng lớp lớp vọng tưởng bao quanh không biết đâu là dấu vết của tâm. Thế nhưng sau bao công phu kiên trì, quen quán chiếu tâm rồi thì bắt đầu dần dần lìa được vọng tưởng, không còn bị vọng tưởng vây hãm như trước, khu rừng rậm của tâm đã quang đãng dần để biến thành cảnh giới an vui với suối trong gió mát, chim hót hoa nở. Lúc đó mục đồng thấy trâu cũng như hành giả đã thấy được tâm, trong nhà Thiền gọi là Kiến Tánh, vì tâm cũng chính là tánh trong Thiền Môn. Tuy nhiên, những tập khí, thói quen sâu dầy xưa nay vẫn còn chưa dứt bỏ được, nên hành giả phải tinh tấn dũng mãnh thúc liễm con trâu tâm chưa thuần thục qua ngọn roi trí tuệ và sự thấy biết quang minh của Tánh Giác. Khi đã làm chủ được tâm rồi thì tâm không còn đi theo cảnh mà theo người, hay nói cách khác, người không còn chạy theo cảnh mà cảnh theo người, người và tâm đều an vui, vững chãi trong căn nhà ngũ uẩn của mình.

Tranh chăn trâu của Đại thừa tới đây là hết, nhưng tranh chăn trâu của Thiền Tông còn đi xa hơn tới tận gốc rễ, với bốn bức sau:

– Bức thứ bảy: QUÊN TRÂU CÒN NGƯỜI
Cưỡi trâu về nhà rồi, việc đã xong, mục đồng quên trâu mà buông roi, nằm ngủ nhàn hạ không âu lo. Tâm đã định, nên hiện rõ gốc rễ của Tâm vốn là Không. Tâm không nên không còn vướng mắc, mọi phiền não tan biến. Tuy nhiên vẫn còn thấy có tướng mình, tướng người (tướng nhân, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả).

– Bức thứ tám: NGƯỜI, TRÂU ĐỀU QUÊN
Biểu hiện bằng một vòng tròn trống không, không thấy có trâu và người trong đó. Roi gậy, người trâu thảy đều tan biến. Đến đây hành giả đã lìa được mọi tướng, không còn thấy tuớng mình, tướng người mà ở trong cái thấy biết vô tướng, vô ngã của trí huệ bao la Bát Nhã, không phân biệt trong ngoài. Đây là giai đoạn của sự chiếu kiến ngũ uẩn thấy «Sắc tức thị Không».

– Bức thứ chín: TRỞ VỀ NGUỒN CỘI
Tới đây trong tranh lại hiện ra cảnh thiên nhiên chim bay, gió thổi, với lá rụng về cội, nước chảy về nguồn. Bao lâu nay nhọc công đi tìm, khi trở về nguồn cội thì thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Từ «Sắc tức thị Không», hành giả thấy «Không tức thị Sắc», tuy ở trong Không nhưng vẫn thấy những hiện tượng trước mắt hiển hiện, sinh diệt, biến chuyển và tuần hoàn. Suối vẫn reo, nước vẫn chảy, dòng đời vẫn trôi như thế, tất cả đều bất biến trong sự chuyển biến, hằng thường trong sự vô thường.

Trong am chẳng thấy ngoài vật khác
Nước tự mênh mông, hoa tự hồng

– Bức thứ mười: THÕNG TAY VÀO CHỢ
Mục đồng từ nay đã biến thành nhàn đạo nhân đi vào chợ đời, cầm xâu cá, bầu rượu thảnh thơi đi về nhà. Đi chân đất, ngực lấm bùn đất vẫn nở nụ cười, đói ăn mệt ngủ, không có gì phải tìm kiếm, không có gì làm cho mê hoặc, mọi sự đều được nhìn thấy trong thực tướng Như Như của chúng. Đó là cảnh giới của tâm Viên Giác, nhưng cũng là một cảnh giới rất bình thường của một con người bình thường. Đạo hiển hiện ngay trong cái đơn giản bình thường của đời sống hàng ngày. Không cần phải tìm bí quyết thần tiên ở nơi xa xôi nào, trong khắp pháp giới trước mắt những điều kỳ diệu vẫn hiển lộ tràn đầy.

Bí quyết thần tiên đâu cần đến
Cây khô cũng khiến nở hoa lành

Mười bức tranh chăn trâu cho ta thấy phần nào những nét chính trong quá trình của một hành giả từ bước khởi đầu đến giác ngộ, tuy nhiên ngôn từ giới hạn không thể nào diễn giải hết được ý nghĩa thâm diệu của những bức tranh này, mà phải có công phu tu tập mới thể nhập được. Nhưng xét cho cùng, chân lý vốn không phải là những gì xa xôi ở ngoài thế giới này, mà chính là những điều bình thường trong cuộc sống trước mắt. Chỉ vì tâm con người luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn mong cầu, nên thường tạo ra cho mình những ảo ảnh, những mục tiêu xa vời, để rồi không thoát khỏi phiền não. Tổ Đạt Ma nói: “Đừng yêu sinh tử, cũng đừng ghét sinh tử”, còn yêu còn ghét là còn chưa hiểu được sinh tử, và vẫn mãi chìm đắm trong biển khổ luân hồi. BÌNH THƯỜNG TÂM THỊ ĐẠO, trở về với bình thường là trở về với trạng thái tự nhiên, không còn vọng tưởng, không còn điên đảo – mưa đã tạnh, gió đã tan, mặt hồ lại trở về tĩnh lặng như muôn thuở, đó là trạng thái tự nhiên của hồ, như tâm không vọng tưởng là trạng thái tự nhiên của tâm. Hành giả thõng tay vào chợ không chối bỏ đời sống thế gian, cũng không đắm mê theo cuộc thế, như chiếc thuyền có người lái trên dòng sông sinh tử, dù qua bao khúc quanh gập ghềnh hay những lúc êm đềm chảy trôi, cũng vẫn ung dung đi tới trước, vì đã biết được chốn về.

–––––––––

Từ xưa đến nay, trong thế gian này có biết bao nhiêu người đã giác ngộ nhưng họ vẫn là con người bình thường, sống cuộc sống bình thường như tất cả mọi người. Các vị tổ nói: “Phàm nhân trở thành thánh nhân vẫn không đổi mặt, cá biến thành rồng vẫn không thay vẩy”, chỉ khác một điều là người mê thì bị cuốn hút theo cảnh, còn người đã tỉnh mộng thì tuy ở trong cảnh nhưng vẫn lìa được cảnh.

Tìm lại được con trâu Tâm và làm chủ được nó tức là làm chủ được vận mệnh của mình vậy.


Gập ghềnh sông mê

- Thích Tánh Tuệ



Có người đứng giữa đôi bờ
Bao lần tự hỏi ... biết giờ về đâu ?
Quay qua ngó lại, bạc đầu
Ngập ngừng, bịn rịn, chìm sâu giữa đời

Đôi dòng, kẻ ngược người xuôi
Đôi bờ lận đận, tới lui muộn phiền
Tay này muốn vịn cửa Thiền
Tay kia dệt mộng ... trần duyên sa đà

Lên rừng, nhớ tưởng phồn hoa
Ngồi nơi phố mộng trăng ngà đầu non
Lắm khi gối mỏi chân mòn
Mà hồn chưa mỏi, đời còn mê say

Mắt vừa hướng tới nẻo mây
Vội che khuất bởi bàn tay nhân tình
Dùng dằng trong chốn tử sinh
Khi ni, lúc nọ … Hỏi mình về mô ?

Dưới lòng nôi, một nấm mồ
Biết rồi sao vẫn lửng lơ nẻo về ?
Cây Si với Cội Bồ Đề
Nghiêng đôi bóng đổ nặng nề cõi đêm

Chợt vô thường đến gọi tên
Chỉ còn dư lệ trên miền ăn năn
Xưa kia nếu chẳng dùng dằng
Biết đâu thanh thản nhọc nhằn tử-sinh

Trầm luân vì nợ thế tình
Mong manh hồn nhỏ, gập ghềnh sông mê

Không ai sung sướng cả

-Sưu tầm


Có một câu chuyện ngụ ngôn khiến người ta phải suy ngẫm.

Hai vợ chồng nhà nọ nuôi một con trâu và một con chó. Con chó được ở trong nhà còn con trâu phải ở riêng ngoài chuồng. Mỗi ngày trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chạng vạng tối mới về, còn chó chỉ việc nằm ở cổng rào canh chừng cửa.

Một hôm nọ trâu đi làm về, thấy chó nằm trước cửa nhà phe phẩy cái đuôi trông thật sướng, đang lúc mệt nhoài nó nổi cáu bảo:

- Không có ai sung sướng bằng mày, chỉ ăn rồi nằm. Thật là đồ vô tích sự !

Con chó nghe con trâu hậm hực nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ trâu tuy to xác nhưng không có trí. Nó bèn nói với trâu:

- Anh trâu không hiểu đâu, tôi nào có sung sướng như anh tưởng. Anh tuy làm lụng nặng nhọc ngoài đồng nhưng có giờ có giấc, sáng ra đồng, chiều lại về, tối còn được nghỉ ngơi, cứ lăn ra mà ngủ. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật sự thì mệt cầm canh đâu có ai biết. Nằm lim dim mà lòng không yên, phải để tâm canh giữ cửa nhà, không dám lơ là công việc. Nếu ngủ quên hoặc bất cẩn để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được. Đêm đêm trong khi mọi người ngon giấc, tôi có được nghỉ ngơi đâu, tôi phải lắng tai nghe ngóng, đưa mắt nhìn trông, hễ nghe có động tĩnh gì thì phải sủa to để cảnh báo. Lúc chủ nhà vui thì tôi còn được ăn no, chứ khi họ có chuyện buồn bực trong lòng thì bỏ mặc tôi đói khát, không ai để mắt quan tâm. Những lúc sân si nổi lên họ còn trút giận lên đầu tôi không thương tiếc, họ đánh họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi. Mỗi khi bạn bè, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa tôi vồ thì họ đánh tôi, chửi tôi là đồ ngu. Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ đuổi đi, ném đá đến toạc đầu đổ máu. Ngẫm lại coi, anh và tôi ai sướng hơn ai chứ ?

Con trâu nghe nói mới hiểu tình cảm của con chó, nghĩ mà thương nên an ủi:

- Đúng là mày cũng không sung sướng gì. Tao với mày ở chung nhà mà chưa một lần trò chuyện với nhau nên không hiểu nhau. Bây giờ tao đã hiểu nỗi khổ của mày, mày cho tao xin lỗi. Nghe mày nói tao mới biết cả hai chúng ta đều khổ cả.

Đang nói, con trâu bỗng nghe tiếng chim ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn nên rồi than thở:

- Bọn chim trời cá nước sung sướng làm sao ! Chúng có thể tự do tự tại bên ngoài, không bị ai giam cầm quản thúc, không phải làm việc nặng nhọc vất vả, không phải chịu nỗi khổ của kiếp tôi đòi. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như thế.

Khi ấy một chú chim nghe thấy lời trâu, bèn đáp lên lưng trâu nói:

- Anh trâu ơi, anh không biết đâu, tôi cũng không sung sướng hơn các anh đâu. Tuy loài chim chúng tôi không phải giữ nhà, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc, nhưng chúng tôi cũng có nỗi khổ của mình. Hiểm họa luôn rình rập chúng tôi, những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng tôi bất cứ lúc nào. Tổ của chúng tôi làm khó khăn vất vả biết bao, chưa chắc ở được lâu vì sự phá hại của con người. Trứng chúng tôi sinh ra chưa kịp nở con thì đã bị con người lấy mất. Loài người biết thương con của mình nhưng nào biết thương con của kẻ khác. Các anh chỉ bị hành hạ, còn tôi bị cướp đi mạng sống của mình, chết rồi còn bị nhổ lông, xẻ thịt, nấu nướng, thân thể không vẹn toàn. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, nào biết tôn trọng sự sống muôn loài. Các anh có cái khổ của các anh, chúng tôi cũng có cái khổ của chúng tôi, không có ai sung sướng cả.

Bầy cá đang ở dưới mé nước nghe trâu nói mình sướng cũng không đồng tình:

- Còn loài cá chúng tôi cũng không sung sướng đâu. Nhà cá chúng tôi thường bị loài người đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả bầy đàn. Không nơi nào là nơi để chúng tôi yên tâm mà sống, đâu đâu cũng có lưới bủa câu giăng, đâu đâu cũng có bàn tay con người truy bắt.

Trâu nghe chim và cá nói thì ngao ngán thở dài não nuột:

- Hóa ra tụi mày cũng khổ. Hiểu biết của tao hạn hẹp quá nên không biết còn nhiều nỗi khổ trên đời này.

Nói như thế rồi trâu buồn bã đi vào chuồng, nó nằm mông lung suy nghĩ về thân phận của nó và bạn bè. Nó nghĩ, loài nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cuộc đời thật bất công, loài người đối xử tệ bạc với các loài khác mà lại được sung sướng, không phải chịu sự khổ sở nào. Đang lúc đó bỗng trâu nghe tiếng quăng bát ném đĩa trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết ông bà chủ đang gây gổ. Tiếng ông chủ gào lên:

- Sao tôi khổ đến thế này, không bằng con trâu con chó nữa ! Con trâu đi cày còn được nghỉ, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu với nhà cửa, vợ con, cơm áo gạo tiền, làm quần quật đêm ngày không lúc nào rảnh rỗi. Tôi khổ sở như vậy là vì ai ? Vậy mà bà vẫn không để cho tôi yên, hễ thấy mặt là hạch sách, càm ràm, đay nghiến. Vừa phải thôi, làm quá tôi cho cả nhà ra chuồng trâu mà ở !

Nghe chủ nhà nói thế trâu bỗng giật mình, bất giác than rằng: “Hóa ra sống ở trên đời đâu có ai không khổ !”

– – – – – – – – –

Trong chúng ta, mỗi người có một hoàn cảnh, xuất thân, có một hoàn cảnh sống, có thể là vui, có thể là khổ, nhìn chung là như thế, song nếu xét cho kỹ thì không ai hoàn toàn hạnh phúc, chỉ khác nhau là ít-nhiều những nỗi vui-khổ mà thôi. Khổ và vui đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa cuộc đời chúng ta, không một ai thoát cả. Người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già, người giàu có cái khổ của người giàu, người nghèo có cái khổ của người nghèo, dù trong hoàn cảnh nào cũng có những điều không như ý, cũng có những nỗi khổ thân, khổ tâm, hoặc cả thân tâm đều khổ. Có ai không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, hy vọng điều gì ? Có ai chưa bao giờ buồn phiền, thất vọng, hay bất mãn, chán nản ? Có ai hoàn toàn khỏe khoắn, thoải mái cả về thể xác lẫn tinh thần ? Chắc chắn là không có ai. Cũng như Đoàn Như Khuê đã nói trong bài thơ “Bể thảm”:

… Bể thảm mênh mông sóng lụt trời
Khách trần chèo một lá thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió
Ngẫm lại cùng một bể thảm thôi ...

Đức Phật đã từng nói: “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”, và khẳng định bản chất cuộc đời là khổ, một sự thật hiển nhiên (Khổ đế). Bởi vì trong hoàn cảnh nào thì con người cũng không thoát khỏi sự chi phối của định luật vô thường, mà hễ vô thường thì khổ. Cụ thể là con người khổ vì sinh, già bệnh, chết, khổ vì mong cầu không toại nguyện, tử biệt sinh ly, khổ vì oán ghét mà phải gặp nhau, khổ vì ngũ ấm bất hòa, cả thân tâm đều khổ.

Khi nhận biết cuộc đời là khổ, và cái khổ tác động đến tất cả mọi người cho dù con người có ở hoàn cảnh, địa vị, hay thân phận nào đi chăng nữa, bấy giờ chúng ta sẽ không còn cảm thấy đau khổ vì cho rằng mình khổ hơn người khác, mình là kẻ bất hạnh, vô phần hơn người khác, cũng như trường hợp con trâu trong câu chuyện ngụ ngôn nói trên. Khi nhận biết cuộc đời là khổ, chúng ta sẽ bớt tham đắm và chịu huệ lụy bởi cuộc đời, biết tìm cho mình phương cách sống tích cực để có được cuộc sống an vui hạnh phúc, ví dụ, biết sống thiểu dục tri túc, biết xả ly, biết yêu thương san sẻ .v.v.v.

Khi nhận biết cuộc đời là khổ, chúng ta mới có nhu cầu thoát khổ, mới có ý muốn, chí hướng tu tập tìm con đường giải thoát khổ đau. Đây chính là lý do vì sao Đức Phật nói Khổ đế trước khi dạy các pháp môn tu là phần Đạo đế, khi chiêm nghiệm về sự khổ ở thế gian:

Đường danh nẻo lợi lắm người trông
Chen chúc làm chi giữa bụi hồng
Kìa bóng nguyệt câu qua cửa sổ
Nọ tranh vân cẩu có rồi không
Lỡ cười, lỡ khóc trên sân khấu
Khi nở, khi tàn mấy cụm bông
Muốn kiếp phù sinh ra khỏi lụy
Quyển kinh câu kệ chớ nài công

Muốn cuộc đời an vui không còn khổ nữa, muốn thoát ra khỏi những triền phược, hệ lụy thì phải cố gắng tu, bởi vì:

Hữu vi là pháp vô thường
Sớm còn tối mất vô phương vững bền
Một mai sinh diệt đã không
Niết Bàn an lạc thong dong tháng ngày

Ngày xưa khi còn là thái tử, Đức phật đã bỏ cung vàng điện ngọc xuất gia đi tu, vua Trần Thái Tông cũng từ bỏ ngôi vua vào núi tu hành. Các ngài nhận thấy làm vua cũng không sung sướng như người ta tưởng, làm vua cũng có những cái khổ của một vị vua và những cái khổ chung mà mọi chúng sinh phải chịu. Trong bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển ở thành Ba-la-nại, Đức Phật đã nói về bản chất của thế gian là bất toàn, vô thường, bất toại nguyện, đau khổ (gọi chung là dukkha). Đức Phật nói nguyên nhân của khổ (Tập đế) là do hành động tạo tác của thân và tâm ý (Nghiệp) dưới sự thúc đẩy của phiền não vô minh và ái dục. Đức Phật cũng nói về hạnh phúc chân thật có được khi khổ đau không còn (Diệt đế), và Ngài chỉ rõ con đường đưa đến hạnh phúc chân thật đó (Đạo đế) là con đường Bát Chánh Đạo:

1. Chánh kiến (thấy biết đúng đắn sự thật của cuộc đời, hiểu rõ pháp Tứ đế)

2. Chánh tư duy (suy nghĩ đúng đắn phù hợp chân lý)

3. Chánh ngữ (lời nói chân chánh)

4. Chánh nghiệp (làm những việc lành có ích cho mình, cho người khác)

5. Chánh mạng (sống bằng nghề chơn chánh, lương thiện)

6. Chánh tinh tấn (siêng năng, chuyên cần theo chiều hướng tiến bộ, tu dưỡng bản thân và tích cực làm lợi ích cho nhân loại chúng sinh)

7. Chánh niệm (luôn ý thức và kiểm soát hành vi của thân, khẩu, ý, luôn nhớ nghĩ các pháp lành, tâm an trú trong thiện pháp)

8. Chánh định (nhiếp phục tâm ý, có định lực, có tuệ quán)

Nội dung Bát Chánh đạo có thể nói không ngoài bài kệ sau:

Không làm các việc ác
Siêng làm các việc lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Đó là lời Phật dạy
(Kinh Pháp cú 183)


Một ngày ... Một đời

-Vĩnh Thuyên



( nhắm mắt mở mắt
hết một ngày
nhắm mắt không mở mắt
hết một đời )


Gì … cũng quên nhớ còn có một
Đời long đong trêu cợt phận người
Bỏ suy tư chiều hôm gác lại
Tựa lưng miền ký ức ngủ say

Đêm nhắm mắt sớm mai thức dậy
Ngày qua nhanh tháng kiệt năm cùn
Gì … cũng xa gần như còn một
Tuổi xế chiều lạc giũa mông lung

Và một hôm mặt trời không mọc
Biển dỗi hờn gió giận lốc xoay
Lần nhắm mắt không lần mở mắt
Thì cũng đành cúi mặt buông tay

Tỉnh giác là đạo

-Sưu tầm



Thiền Sư Tư Nghiệp - trước khi xuất gia, làm nghề đồ tể. Một hôm, đang thọc huyết heo bỗng chợt tỉnh liền đi xuất gia. Ngài có làm bài kệ:

Tạc nhật Dạ Xoa tâm
Kim triêu Bồ Tát diện
Bồ Tát dữ Dạ Xoa
Bất cách nhất điều tuyến

Dịch:

Hôm qua tâm Dạ Xoa
Sáng nay mặt Bồ Tát
Bồ Tát cùng Dạ Xoa
Chẳng cách một sợi tóc

Lời bình:

Một con người bị miệt thị là kẻ đồ tể. Thế mà ngay khi xuống tay thọc huyết heo, thì liền chợt tỉnh. Người đồ tể hôm nay khác nào người đồ tể thuở trước: Đồ tể Quảng Ngạch. Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật (Quăng dao mổ heo, ngay đó thành Phật).

Xưa nay chỉ một tâm. Xưa nay chỉ một hành động. Kẻ xưa và người nay không khác. Người bên cạnh Phật một thuở, người cách Phật nghìn năm vẫn không khác. Tâm và hạnh giống nhau, người nay vẫn đồng xưa. Chánh pháp, mạt pháp nào có quan hệ. Chánh mạt chỉ ở tâm này.

Làm sao dựng lập thời gian trên một tâm mê hay tâm giác? Giác mê, mê giác bao nhiêu mặt, cách một thời gian nào ? Mặt mũi Dạ Xoa và Bồ Tát, chỗ khác nhau được xác định bởi ranh vức nào ?

Ai biết rằng, chính đây, ngay đây.

Chánh niệm tỉnh giác không phải là nỗ lực loại bỏ hay nắm giữ một trạng thái thực tại nào mà là thái độ rỗng lặng trong sáng, hoàn toàn vô ngã đối với mọi trạng thái thực tại đang là. Nắm bắt và loại bỏ chính là tham và ưu (sân) mà đức Phật đã khuyến cáo là không để xen vào khi chánh niệm tỉnh giác.

Buông thái độ phản ứng của cái ta lăng xăng trong nỗ lực nắm giữ hay loại bỏ trạng thái thực tại chính là tinh tấn, và ngay đó lập tức chánh niệm tỉnh giác lặng lẽ chiếu soi thực tại như nó đang là một cách tự nhiên vô vi, vô ngã.


Làm sao giữ lại

- Thích Tánh Tuệ



Làm sao giữ lại điều không thể
Cát biển tuôn dần qua kẽ tay
Làm sao miên viễn ... đời dâu bể
Bảo gió trên ngàn thôi cuốn mây

Làm sao níu áo thời gian lại
Ngắm nụ xuân thì chưa úa môi
Làm sao tìm thấy dòng sông cũ
Lạ lẫm chiều nay bến lở, bồi

Làm sao giữ được tình ban sớm
Chưa kịp hoàng hôn đã úa màu
Ta trách sao người thay đổi vội
Chắc gì ... ta chẳng đổi thay đâu !

Làm sao nắm giữ ngày nhung lụa
Hào phú vang danh của một thời
Phút chốc một chiều bao “cái của …”
Đồng tình đội nón chạy xa xôi

Soi gương thấy nụ cười năm đó
Chẳng biết vì đâu ... méo mó rồi !
Làm sao giữ được điều không thể
Cầm bằng như ... nước cuốn hoa trôi

Vốc nước lòng tay khôn giữ được
Mọi vật trên đời cũng ... rứa thôi !

Câu chuyện về hai vị thiền sư

- Tác giả: Văn Đan. Như Nguyện dịch

Có một vị thiền sư trú trong túp lều tranh ở trên núi, một buổi tối khi đi thiền hành trở về, nhìn thấy một tên trộm đang chiếu cố túp lều tranh của mình nhưng tìm không được vật gì cả. Ngài bèn cởi chiếc áo ngoài đang mặc trên người và đứng ngoài cửa đợi tên trộm ra, vì ngài sợ làm kinh động tên trộm.

Tên trộm vừa quay ra thì gặp thiền sư, trong lúc tên trộm hốt hoảng, vị thiền sư liền nói: “Anh bạn ! Đường sá xa xôi vất vả lên núi thăm tôi, tôi không đành lòng để anh về tay không, đêm khuya rồi, khoác chiếc áo này mà về cho đỡ lạnh.” Nói xong, ngài cầm chiếc áo khoác lên thân tên trộm. Tên trộm xấu hổ, cúi đầu rồi chạy thẳng xuống núi không dám nhìn lại. Thiền sư nhìn dáng tên trộm khuất dần trong núi rừng mờ mịt, không ngừng thương cảm nói: “Rất đáng thương, tôi muốn tặng cho anh cả vầng trăng để chiếu sáng con đường cho anh xuống núi.”

Vài hôm sau, khi thiền sư đang mở to đôi mắt nhìn ánh bình minh xuất hiện, thì nhìn thấy chiếc áo mà ngài khoác lên thân tên trộm mấy hôm trước đó được xếp rất ngay ngắn đặt trước cổng, thiền sư vui vẻ nói: “Cuối cùng thì ta cũng đã tặng anh ta cả vầng trăng sáng rồi.”

Lại có câu chuyện khác cũng tương tự. Trong thiền viện của thiền sư Tiên Nhai, có một vị học tăng rất ham chơi, vị này không chịu nổi cái cảnh vắng lặng yên bình của chốn thiền môn. Vào những buổi tối vị tăng sinh này thường ra vách tường sau chùa, đặt một cái ghế để leo qua tường ra bên ngoài chơi.

Sau khi thiền sư biết được, ngài không nói với ai. Một lần, vị tăng sinh này trèo tường trốn đi chơi, ngài đi theo phía sau và đem chiếc ghế để qua một bên rồi ngồi vào chỗ đó đợi vị học tăng trở về. Đêm khuya vắng vẻ, vị học tăng trở về, không biết chiếc ghế đã bị di chuyển nên vẫn leo qua vách tường và thò chân xuống ghế như mọi khi để vào chùa, nhưng khi vừa đặt chân xuống thì cảm thấy chiếc ghế dưới chân mình sao mềm mại là lạ, cúi xuống nhìn thì hóa ra mình đang đứng trên vai vị thiền sư thầy mình. Lập tức vị học tăng hồn bay phách tán quỳ xuống nói không ra lời. Thiền sư liền đỡ vị học tăng đứng lên và nhẹ nhàng nói: “Đêm khuya sương nhiều, cẩn thận chứ ướt lạnh, hãy nhanh vào phòng nghỉ ngơi.”

Sau khi về phòng, vị tăng sinh cứ phập phồng lo sợ không yên, trắng đêm không ngủ, lo sợ thiền sư sẽ trách phạt mình trước mặt đại chúng. Nhưng sự việc thì ngược lại, cứ ngày ngày trôi qua, thiền sư không nhắc đến chuyện, cũng không nói cho ai biết. Vị tăng trẻ tự trong lòng cảm thấy rất hổ thẹn vô cùng, từ đó về sau không dám trốn ra ngoài chơi mà quyết chí tu học, cuối cùng trở thành một vị tăng nổi tiếng đương thời.

– – – – – – – – –

Hai vị thiền sư này, xử sự không giống những người bình thường như chúng ta mà lấy sự khoan dung đại trí, đại bi để thay đổi một tên lãng tử thành vị danh tăng. Con người không phải là thánh nhân nên tất nhiên có những sai trái, đối với những người phạm lỗi chúng ta nên có thái độ rộng lượng khoan dung. Im lặng mà hơn cả to tiếng trách móc, đây là phương pháp giáo dục tốt nhất. Khoan dung là một phẩm chất đạo đức tốt, khoan hồng tha thứ lỗi cho người giống như ngọn gió mùa xuân mang mưa xuân đến thấm nhuần cây cỏ làm vạn vật thêm xanh tươi. Khoan dung còn hơn cả vàng, khoan dung là một phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người chúng ta.

Ta về

- Thích Tánh Tuệ



Ta về bỏ lại đằng sau
Chữ danh, chữ lợi, biển dâu chữ tình
Ta về sống với chính mình
Trút đi cái vỏ hư vinh một thời

Ta về vui với đất trời
Gom mây làm áo rong chơi cõi hồng
Ta về lắng đục khơi trong
Bon chen chi cũng lòng vòng được thua
Ta về vui với bốn mùa
Trăng sao làm bạn, chuông chùa kết thân
Ta về quên chuyện ngã nhân
Hư tình giả ý cõi trần đãi bôi

Ta về tìm một chỗ ngồi
Mặc đời xuôi ngược miếng mồi đỉnh chung
Đời kia có nói không cùng
Tới lui vui khổ ... lạ lùng chẳng qua
Ta về rũ bỏ kiêu xa
Quên nhà máy lạnh, hoan ca, tiệc tùng ...
Nhân gian cười bảo ta khùng
Làm duyên một nụ, “thôi đừng phân bua !”

Sáng nay nhẹ bước vào chùa
Ơ, cành Sen trắng cũng vừa mãn khai
Chợt ta bắt gặp hình hài
Ngày chưa rời bỏ Liên đài mộng du …

Quả của Nghiệp

- Sưu tầm

Hạnh phúc hay đau khổ đều bắt nguồn từ những hành động trong quá khứ của ta. Vì vậy, ta có thể giải thích nghiệp một cách dễ dàng trong một câu ngắn gọn: nếu ta làm việc thiện hảo thì mọi việc sẽ tốt đẹp, nếu ta làm việc xấu thì mọi việc sẽ bất hảo.

Nghiệp có nghĩa là hành động. Về phương cách hành động thì hành động có thể thuộc về thân, ngữ hay ý. Về mặt hậu quả thì hành động có thể có đạo đức, thất đức hoặc trung hòa. Về mặt thời gian, có hai loại hành động – hành động còn trong ý định, khi ta nghĩ đến điều sắp làm, và hành động đã xảy ra, tức là biểu hiện của tâm lực qua hành động cụ thể hay lời nói.




Thí dụ, tôi đang nói chuyện với một chủ ý và vì vậy tôi đang tạo ra hành động thuộc về lời nói, hay gọi là khẩu nghiệp. Với sự khoa tay, tôi cũng đang tạo ra những thân nghiệp. Những hành động này tốt hay xấu, phần lớn là do chủ ý của tôi. Nếu tôi nói với chủ ý tốt, với sự chân thành, tôn trọng và thương mến mọi người, thì hành động của tôi tốt và có đạo đức. Nếu tôi hành động với chủ ý từ sự kiêu mạn, oán ghét, chỉ trích và vân vân, thì thân và khẩu nghiệp của tôi thiếu đạo đức.

Vì vậy, nghiệp đưọc tạo ra trong mọi lúc. Khi một người nói với chủ ý tốt thì người ấy sẽ tạo ra một bầu không khí thân thiện ngay lập tức, đồng thời hành động này tạo ra một ấn tượng trong tâm người đó, mang đến sự sung sướng trong tương lai. Với một chủ ý xấu, một bầu không khí bất hòa sẽ xảy ra ngay lập tức và sự đau khổ sẽ đến với người nói điều này trong tương lai. Đức Phật dạy rằng ta là chủ nhân của chính mình, tất cả mọi việc đều tùy thuộc vào chính mình. Điều này có nghĩa rằng hạnh phúc hay đau khổ bắt nguồn từ những hành động đạo đức hay thất đức, chúng không đến từ bên ngoài mà đến từ nội tâm của ta. Lý thuyết này rất hữu ích trong đời sống hằng ngày, bởi vì khi ta tin tưởng vào sự tương quan giữa hành động và kết quả, thì dù có một người cảnh sát ở bên ngoài hay không, ta cũng sẽ luôn luôn tự cảnh giác và kiểm điểm chính mình. Thí dụ, nếu có một món tiền hay một viên ngọc quý ở đây và không có ai ở chung quanh, ta có thể chiếm nó một cách dễ dàng, tuy nhiên - nếu ta tin vào nghiệp quả, thì chính ta có trách nhiệm về tương lai của mình, nên ta sẽ không lấy món tiền hay viên ngọc quý ấy.

Trong xã hội tân tiến, dù cho có những hệ thống an ninh tinh vi đầy đủ kỹ thuật tân tiến, người ta vẫn thành công trong việc khủng bố. Cho dù một bên có nhiều kỹ thuật tinh vi để theo dõi phía bên kia, thì phía bên kia lại càng trở nên tinh vi hơn để tạo khó khăn cho đối thủ. Sự chế ngự thật sự duy nhất phải đến từ nội tâm – đó là sự quan tâm và tinh thần trách nhiệm cho chính tương lai của mình và lòng vị tha, quan tâm đến sự an vui của tha nhân.

Về phương diện thực hành thì phương pháp chế ngự sự phạm pháp hữu hiệu nhất là sự tự chủ. Với sự thay đổi nội tâm, tội ác có thể được chấm dứt và xã hội sẽ có hòa bình. Tự kiểm điểm là điều tối quan trọng. Vì vậy, tinh thần trách nhiệm đối với bản thân trong Phật pháp rất hữu ích, vì nó bao gồm sự tự vấn và tự chủ, cho lợi ích của chính mình và tha nhân.

Về phương diện hậu quả của nghiệp thì ta có thể giải thích bằng nhiều dạng khác nhau. Dạng thứ nhất được gọi là “quả của sự kết trái”. Thí dụ, nếu một người tái sinh thành một con thú vì một hành động thất đức, thì sự tái sinh này là hậu quả của sự kết trái của nghiệp từ một kiếp sống khác. Một loại hậu quả khác được gọi là “kinh nghiệm tương đương với nhân”, thí dụ như ta bị tái sinh vào một cõi giới xấu vì đã giết người, sau đó lại tái sinh làm người, nhưng bị giảm thọ. Như vậy, hậu quả (giảm thọ) tương xứng với nhân đã tạo là giết người. Một dạng hậu quả khác nữa được gọi là “hành động tương đương với nhân”, thí dụ như người này sẽ có khuynh hướng tạo thêm hành vi bất hảo sau này, chẳng hạn như tiếp tục giết người.

Những thí dụ tương tự cũng có thể được áp dụng cho những hành vi đạo đức. Cũng như thế, có những hành động mà kết quả của nó được cộng hưởng – nhiều chúng sinh đã tạo nghiệp giống nhau thì sẽ cùng hưởng những hậu quả tương tự, thí dụ như họ sẽ hưởng cảnh sống trong cùng một môi trường nào đó. Điểm quan trọng là sự trình bày của Phật pháp về nghiệp có thể cống hiến sự hữu ích cho xã hội loài người. Tôi hy vọng rằng cho dù chúng ta có tín ngưỡng hay không, chúng ta cũng sẽ học hỏi lẫn nhau để thu thập những tư tưởng và phương pháp hữu ích, hầu mang lại sự tiến triển tốt đẹp cho nhân loại.

* Ghi chú: Trên đây là bài dịch từ trang 26-28 trong quyển “Kindness, Clarity and Insight” của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso

Chùm thơ Sen

- Minh Đức Triều Tâm Ảnh



SEN KINH PHẬT
Loài hoa tiết hạnh dị thường
Đêm đêm giữ ngọc, gìn hương cho đời
Trinh nguyên lay động đất trời
Thơm câu kinh Phật, ngát lời ca dao

SEN TU THIỀN
Kết đài, lá lục vươn lên
Cọng xanh xuyên nước, tụ thiền đầu hoa
Thuyết kinh, nhất đóa nhất tòa
Thơm lừng hương pháp, ta bà hóa duyên

SEN BIẾN TẤU
Đáy bùn, mầm chuyển hóa sinh
Chắt chiu nhựa luyện, kết tinh ngọc ngà
Phong Lan cùng với Liên Hoa
Sắc hương biến tấu khúc ca hạ vàng

SEN CÁT TƯỜNG
Đình, chùa biểu tượng tinh anh
Phù điêu, bích họa khắc tranh cát tường
Đóa Liên hoa, tuệ đông phương
Sinh từ bùn đất, thiền hương dịu dàng

SEN GƯƠNG TRONG
Loài hoa công hạnh ngôn dung
Đúng mùa, đúng tiết thủy chung với đời
Nết cao sang, đức rạng ngời
Lấy bùn đất mực, viết lời gương trong

SEN BẢY ĐÓA
Hoa kia ngọc khiết băng trinh
Chẳng lây uế nhiễm bùn sình tanh tao
Kết đài điểm mắt trăng sao
Sen thơm bảy đóa thuở nào còn hương

SEN ĐỒNG QUÊ
Tuyệt vời hương sắc hoa Sen
Đục trong cứ vẫn, bùn phèn có sao
Đông quân đã có Mai Đào
Ai ngờ chúa hạ, sinh bào đồng quê

SEN THI NHÂN
Hồ ao Sen viết bài thơ
Trăng thanh thần khí, bùn nhơ cốt phàm
Hồn văn chương chẳng dính chàm
Chữ lời khiết nhã, sương ngàn đọng hương

SEN TINH ANH
Tinh anh, cao sáng vẹn mười
Giữa miền lửa hạ, nụ cười an nhiên
Hồ đêm, trăng nước ngủ quên
Nắng mai hương tỏa, tình thiền khiết trong

SEN HẠ THẮM
Sen từ hạ thắm bước ra
Nhụy vàng rắc nguyệt, áo hoa phớt hồng
Tình mênh mông, cảnh mênh mông
Rong xanh bèo tía, ướp bồng bềnh hương

Kinh Rùa mù tìm bộng cây

- Sưu tầm

Một hôm, Phật ở Trùng Các Giảng Đường bên hồ Di Hầu, tôi nghe như vầy:

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: “Ví như quả đất sụp thành bể cả, có một con rùa mù sống vô lượng kiếp, một trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Trong biển có bộng cây nổi chỉ có một lổ, trôi giạt trên mặt biển theo gió sang Đông Tây, con rùa mù một trăm năm mới trồi đầu lên tìm bộng cây, sẽ gặp được bộng cây này chăng ?

A Nan bạch:

- Không thể gặp, thưa Thế Tôn ! Vì cớ sao ? Vì con rùa này nếu đến bể Đông, bộng cây đã theo gió đến bể Tây, Nam, Bắc bốn phía, chung quanh cũng vậy, không thể gặp nhau.

Phật bảo A Nan:

- Con rùa mù tìm bộng cây tuy sai lạc, nhưng có lúc gặp nhau, kẻ phàm phu ngu si trôi giạt trong ngũ thú tạm được thân người, rất khó hơn con rùa mù kia tìm bộng cây. Vì cớ sao ? Vì chúng sanh kia không hành nghĩa, không hành pháp, không hành thiện, không hành chơn thật, sát hại lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, tạo vô lượng tội ác. Thế nên, Tỳ Kheo ! Đối Tứ Thánh Đế nếu chưa được vô gián đẳng, phải chuyên cần tìm phương tiện mong muốn tăng thượng, học vô gián đẳng.

Phật nói Kinh này rồi, chư Tỳ Kheo nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.

Lời bình:

Qua câu chuyện rùa mù Phật dẫn trên, chúng ta xét có trái với tinh thần “Vô ngã” của Phật giáo không ? Vì chủ trương của Phật giáo là phá ngã, thấy thân ngũ uẩn giả hợp như bèo bọt không nghĩa lý gì, tại sao ở đây lại quý thân ?

Thật ra ở đây nói thân này “khó gặp”, không phải quý thân và quan trọng nó tợ hồ một bảo vật để tôn thờ như người ta lầm tưởng, mà ý nghĩa quý ở đây là muốn nói đến trong cuộc sống, thời gian sống, phải làm gì cho đúng ý nghĩa của nó. Ở đời có hai hạng người lầm chấp:

- Hạng người thứ nhất quá bi quan đối với thân này, cho nó là bất tịnh, là xấu xa, đê tiện, tạm bợ .v.v.v. rồi muốn phá hoại cho nó tiêu tan, như câu chuyện: “Khi Phật còn tại thế, một hôm giảng đạo Ngài nói về pháp “Quán thân bất tịnh”. Sau đó Ngài tuyên bố với chúng Tăng để cho Ngài ở yên một thời gian ba tháng, không ai được thăm viếng chỉ trừ một người thị giả thôi. Sau ba tháng trở ra, Ngài thấy số Tỳ Kheo bỗng nhiên thưa thớt đi. Ngài hỏi lý do, thì A Nan thưa rằng sau khi nghe Thế Tôn giảng về pháp “Quán bất tịnh”, các Thầy Tỳ Kheo quán thấy thân này nhơ nhớp quá nên một số Thầy mướn người giết đi để khỏi còn thấy nó nữa !” … Phật liền họp các Thầy Tỳ Kheo lại, chế giới ngăn cấm: “Không ai được mướn người giết, nếu mướn giết là phạm giới.” Đó là hạng thứ nhất.

- Hạng người thứ hai thì trái lại, họ quá quan trọng thân này, quanh năm suốt tháng cứ một bề lo bồi bổ tưng tiu chìu chuộng cái thân, không dám dùng nó vào việc gì, mặc dù việc đáng làm và nên làm.

Hai hạng trên đều trái với tinh thần đạo lý của Phật dạy. Phật nói thân này là vô thường, bất tịnh .v.v.v. là chỉ rõ lẽ thật cho chúng ta nhận thấy để khỏi đắm mê chạy theo dục lạc. Khi hiểu rõ rồi, chúng ta lại phải lợi dụng nó để tiến tu hoặc làm các việc lợi ích cho mọi người … chớ không phải hiểu rõ lý vô thường để bi quan chán đời rồi đi tự tử, thật là một điều lầm lẫn !

Với cặp mắt của người tu Phật, vẫn thấy thân này là giả tạm vô thường, không đáng kể, nhưng họ vẫn giữ lấy thân này để làm phương tiện tiến tu. Như người muốn qua sông, vẫn biết khúc gỗ mục không đáng giá chút nào, nhưng lúc chới với giữa dòng vẫn phải dùng nó làm chiếc phao khi mình chưa đến bờ. Có ai dại dột gì khi còn lênh đênh ngoài biển mà vội bỏ “bè” không ? Cũng thế, khi chưa đạt đạo thì phải mượn thân này làm thuyền bè để đến bờ giác ngộ. Khi qua đến bờ lúc đó bỏ bè cũng không muộn gì. Nếu chưa đạt đạo mà vội hủy bỏ thân là một điều lầm lẫn đáng tiếc !

Trong Kinh chép:

Một hôm Phật khơi một chút đất dính đầu móng tay đưa lên hỏi trong chúng hội:

- Đất đầu móng tay nhiều hay đất quả địa cầu nhiều ?

Trong chúng hội đều đáp:

- Bạch Thế Tôn, đất quả địa cầu rất nhiều, so với đất đầu móng tay có thấm vào đâu !

Phật kết luận:

- Cũng thế, chúng sanh khi bỏ thân này rồi mà trở lại được thân người rất ít như đất đầu móng tay, còn đi vào các thú thì nhiều như đất quả địa cầu.

Cũng nói ý này, Cổ Đức có câu:

“Trăm năm cây sắt trổ hoa còn dễ
Một phen mất thân này, muôn kiếp khó tìm !”

(Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhứt thất nhơn thân vạn kiếp nan !)

Vì thế, chúng ta là hành giả đang đi trên lộ trình xa vạn dặm, phải có quan niệm chính xác đối với thân này để khỏi phải dở dang giữa đường mà chưa đạt đến bờ kia !


Tự nguyện

- Thích Tánh Tuệ



Xin nguyện sống thênh thang đời của gió
Cuộn xa vời ... không giữ một làn hương
Thôi trói buộc, ai làm mình đau khổ
Chẳng tơ vương, thì cách trở ai buồn

Xin nguyện sống như con đường lặng lẽ
Khi chân đời dẫm nát cõi lòng ta
Vẫn độ lượng, bao dung như Tình Mẹ
Trong âm thầm hy hiến, chẳng kiêu sa

Xin nguyện sống như dòng sông trôi chảy
Nỗi niềm riêng không nói được ai cùng
Bao phiền muộn, lo âu và sợ hãi ...
Thả theo dòng ... xuôi hết thảy lao lung

Đêm trầm mặc soi bóng mình trên vách
Nghe thị phi gõ cửa mặc nhiên chào
Lòng tự nhủ chẳng “quên mình theo khách”
Chỗ nào vui, nơi đó có niềm đau

Xin nguyện sống một cuộc đời an tịnh
Giữa muôn ngàn mời gọi của trần gian
Và làm bạn với khiêm hòa, nhẫn nhịn
Biết thở cười ... dù lúc dạ xốn xang ...

Xin nhóm lửa thắp ngời đêm tăm tối
Mời tình thương, trí tuệ ngự lòng ta
Đường Bát Chánh, Bụt ngàn xưa mở lối
Nguyện bước theo một quyết trở về nhà

Nửa hồn xuân

- Truyện ngắn của Thích nữ Tịnh Quang

“Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong”


Dịch:

“Cửa này, năm ngoái, hôm nay
Hoa đào phản chiếu mặt ai ửng đào
Mặt người giờ ở nơi nao ?
Hoa đào vẫn đó cười chào gió đông ” . . .


Thoáng chốc mà đã ba mươi sáu năm, như ba sáu ngày nhẹ nhàng trôi trên dòng thời gian vô hình vun vút. Cũng một buổi chiều xuân với bầu trời trong vắt, ánh mặt trời rãi màu vàng lốm đốm trong vườn đào đầy thơ mộng này, và cũng dưới cội đào già này, Đông và Xuân đã gặp nhau…Trái tim chàng từ đây đã trỗi nhịp yêu thương, thổn thức, mong chờ và hồi hộp… tâm hồn của chàng đã là nửa hồn của nàng Xuân ngày ấy. Và giờ đây…“thời gian thiệt phũ phàng…!” chàng lẩm bẩm như kẻ vừa thức giấc sau một cơn mộng đẹp. Chàng ôm đầu tựa vào gốc hoa đào và nở một nụ cười nhạt nhẽo man dại, nhìn chân trời xanh xa xa, ký ức của chàng lui dần về quá khứ…

Đông nhớ rằng ngày ấy họ còn trẻ lắm, chàng và nàng chỉ mới hai mươi tư, tuổi của niềm đam mê và tràn đầy hứa hẹn… Chiều mồng hai tết Đông đi du xuân và gặp Xuân tại vườn đào kế bên nhà nàng… Ánh nắng chiều biêng biếc đã tô đẹp thêm nhan sắc của tuổi mộng mơ… Họ nhìn nhau, lưu luyến nhau và rồi ngàn lời thề non hẹn biển để xây đắp tổ uyên ương khi chàng đã hoàn tất công danh sự nghiệp của mình. Nhưng nghịch cảnh đã đẩy đưa, họ tạm gác lại lời thề ấy. Đông và Xuân mỗi người một ngả, chàng ra đi còn nàng phải ở lại quê nhà.

Đông nhớ mồn một hôm nao Xuân tiễn chàng lên máy bay, họ quàng vai nhau khóc sướt mướt, chàng biết rằng Xuân yêu chàng lắm, nàng rất muốn khăn gói theo chàng nhưng ngặt một nỗi cha nàng mất sớm, mẹ thì tật bệnh, nàng còn phải gánh buôn để nuôi mẹ và hai đứa em nhỏ dại nên không thể theo chàng. Còn chàng chỉ có hai cha con và phải vâng mệnh cha để lên chuyến bay cuối cùng đến Mỹ vào tháng tư năm một chín bảy lăm...

Ba năm đầu định cư tại Mỹ chàng sống như cái xác không hồn, đêm mộng ngày mơ về quá khứ. Cha chàng bảo: “Con Xuân đã hớp hồn mày rồi !” Đúng vậy, Đông làm gì cũng thất bại không đâu ra đâu, bởi hồn chàng chỉ còn một nửa và một nửa là ở bên kia đại dương xa tít mù khơi. Đông rất mừng khi đi ra đường gặp người Việt Nam. Lúc chàng đang lái xe mà gặp một người Châu Á đi bộ bên lề đường là chàng quay xe lại, tấp vào lề và hỏi: “Are you Vietnamese ?” Nếu là người Việt Nam chàng hỏi thăm đủ thứ chuyện, đặc biệt là chàng muốn biết khi nào Việt Nam mở cửa cho Việt kiều về thăm quê cũ.

Mùa xuân năm thứ nhất… thứ hai… thứ ba… trôi đi, rồi đến xuân thứ tư… xuân thứ năm… từng đàn én lượn xôn xao khi chiều đến, nhưng trong lòng chàng vẫn trĩu nặng một nỗi buồn u uẩn khi bên kia bờ vẫn bặt vô âm tín, chàng không còn hy vọng trở về Việt Nam, chàng không còn hy vọng xây đắp lời thề. Chàng nghĩ rằng cha mình cho rằng mình “hoang tưởng” là đúng… Thế rồi Đông tự vực dậy cuộc đời mình, lo làm ăn và lập gia thất để không làm buồn khổ cha của chàng nữa.Tuy nhiên trong tâm chàng luôn ao ước cho Xuân vạn sự an lành và hạnh phúc, và lời thề kia chàng xin hẹn lại kiếp lai sinh tới.

Chuyện quá khứ tưởng chừng nguôi ngoai như thuyền đã ra khơi, thời gian đã sang trang mới, nhưng đầu mùa xuân năm thứ hai mươi mốt Đông nhận được lá thư của Xuân từ một người bạn học cũ của Đông vừa sang nhập cư. Đọc thư Xuân, biết nàng vẫn còn mạnh khỏe, nàng không có gì thay đổi, vẫn còn chiếc bóng lẻ loi, biết nửa hồn của Xuân vẫn còn thuộc về chàng… Đông đau đớn lắm. Như vết thương đã lành theo thời gian nay lại tái phát, chàng đã tiếp tục tơ tưởng về quá khứ… về một chiều xuân bên cội hồng đào, về những tháng ngày mặn nồng hò hẹn, về những tình thư đang còn dang dở, về những ngôn từ chan chứa ngàn lời yêu thương… Chàng bị ám ảnh với vẻ mặt ngọc mày ngà, với “dáng buồn như cúc, điệu gầy như mai” của Xuân…Ký ức chàng trỗi dậy, chàng phải tìm đến hộp đêm và men rượu để giải sầu và chàng không còn tha thiết đến vợ con nữa… Cuối cùng chàng đã từ bỏ tất cả và sống với chiếc bóng quá khứ “ma quái” của mình.

Và trong căn hộ đơn chiếc Đông đã gặp lại ngày xuân quá khứ của chàng. Hằng năm cứ mỗi mùa xuân là chàng nhận được chiếc áo ấm chính tự tay Xuân đan cho chàng. Chiếc áo không đẹp như những chiếc áo ấm tân thời, nhưng chàng vẫn thích chờ đợi mỗi mùa xuân đến để có thêm chiếc áo mới. Chàng hồi hộp khi nhận món quà đúng vào ngày cuối đông, sinh nhật của chàng. Chàng nhẹ nhàng cẩn thận mở nó, không dám nặng tay để hư bao bì bên ngoài, chàng quý trọng từng kỷ vật “thiêng liêng” của tình yêu mà Xuân gởi tặng cho chàng… Chàng đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve chiếc áo nơi có thêu hai tên Đông Xuân với màu tím nhạt lấp ló sau hai trái tim đỏ gắn liền nhau, chàng ôm chiếc áo vào lòng rồi ngửi mùi áo mới, chàng thoảng nghe rằng hương xuân vẫn mãi còn đâu đây như chưa từng biến động. Mỗi năm chàng mặc một chiếc áo mới, mỗi năm là một sắc màu tươi trẻ. Những chiếc áo len cũ chàng cho vào tủ kiếng khóa chặt cẩn thận như sợ rằng ai đó vô tình đụng vào báu vật của chàng.

Mùa xuân năm nay Đông có thêm chiếc áo len thứ mười lăm, chàng không muốn như trẻ thơ cứ mãi hồi hộp chờ đợi những món quà của người thương khi mùa xuân đến nữa. Chàng đã về hưu, chàng muốn tận hưởng những giây phút hạnh phúc thực sự của tuổi xế chiều, chàng muốn hai mảnh hồn đơn ghép lại thành ánh trăng vàng giữa bầu trời tâm mông lung này… Chàng không thể chịu đựng được nỗi cô đơn cứ dai dẳng đeo bám chàng, chàng phải sống với sự thực, chàng phải đem Xuân trở về với chàng để đêm sớm có nhau cho đời thôi quạnh quẽ. Đông say sưa nhìn vào tấm hình mà Xuân mới gởi cho chàng, chàng ngớ ngẩn và đê mê trước nhan sắc vượt thời gian của Xuân, nàng như một cô tiên “chim sa cá lặn”, mắt biếc mày xanh và đôi môi chín mọng kia vẫn còn quyến rũ bao kẻ si tình như chàng. Chàng không muốn mình là kẻ nhút nhát yếu đuối nữa, chàng phải tự quyết định tình yêu của mình, chàng phải có tinh thần “nam nhi chi chí”… Chàng bấm số điện thoại gọi cho Xuân và đi thẳng vào vấn đề… và chàng chờ đợi tin vui từ câu trả lời của Xuân… Lặng thinh một giây lâu rồi bỗng chốc Xuân sặc cười và nói: “Đông ơi là Đông, anh đang đùa hay đang điên thế ?” Chàng rưng rức van nài một lần nữa, Xuân trả lời một cách dứt khoát: “Tốt nhất là chúng ta đừng bao giờ gặp nhau nữa nhé !” và nàng luống cuống tắt máy.

Như một gáo nước lạnh tạt vào mặt, chàng giận và hận nàng lắm. Suốt đêm chàng không sao ngủ được, chàng nghĩ đúng là hoa hồng càng đẹp gai càng nhọn. Chàng không hiểu vì sao nàng lại sợ hãi sự thực, sợ hãi tình yêu và hôn nhân trong khi Xuân cũng đã yêu chàng và họ đã có lời thề sắc son từ thuở ban đầu lưu luyến ấy kia mà. Chàng là Việt kiều, chàng có thể về Việt Nam hay bất cứ nơi đâu để cưới cô gái xinh đẹp tuổi mười tám đôi mươi nếu chàng muốn. Đông nghi ngờ nàng… Phải chăng nàng đã dối lừa chàng (?) Phải chăng nửa hồn của Xuân đã cập vào một bến lạ…(?) và chàng muốn đi tìm sự thực, chàng muốn biết sự thực. Chàng muốn gây sự bất ngờ đối với Xuân…

… Mệt mỏi qua hai chuyến bay về Việt Nam, chàng vẫn không ngủ được, có lẽ không quen khí hậu và thời giờ khác biệt giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vì chàng từ giã nó đã ba mươi sáu năm, và điều quan trọng nhất là những thao thức mà chàng dự tính cho ngày mai. Đông bước ra khỏi giường rất sớm, tắm rửa sạch sẽ, gọi người lao công khách sạn mua cho chàng một tô phở điểm tâm, xong chàng mở máy laptop để xem tin tức Hoa Kỳ qua những trang web hải ngoại như thường lệ… Đến chín giờ, chàng có cuộc hẹn với những người bạn cũ và đi ăn trưa tại một nhà hàng hải sản cùng họ, xong chàng trở về lại khách sạn.

Đông đến trước tủ kiếng lớn để nhìn ngắm dung nhan của mình: “Mắt to, mũi thẳng, da trắng nổi bật bên màu tóc đen lóng lánh vừa mới nhuộm và chải keo mềm, dù có không ít vết nhăn trên khuôn mặt và những dấu chân chim tơi bời ở đuôi mắt… Không sao, ta vẫn còn bảnh bao lắm, đàn ông ở độ tuổi này có được khuôn mặt thanh lãm và vóc dáng như ta cũng hiếm…” chàng tự nhủ. Chàng đeo kiếng nâu Ray-Ban, diện bộ com-lê France xanh với chiếc cà vạt đỏ thẩm, mang đôi giày đen bóng láng hiệu Canali Italy và không quên xức nước hoa Sexy Men. Chàng bước ra khỏi khách sạn và gọi taxi đưa chàng về hướng Bình Chánh vùng ngoại ô Sài Gòn, nơi có vườn đào thơ mộng nằm cạnh căn nhà bé nhỏ của Xuân.

“Hôm nay là ngày mồng hai tết, ba mươi sáu năm trước cũng vào một chiều xuân ngày này ta và em gặp nhau ở vườn đào thơ mộng, không biết cội đào già kia có còn ra hoa không ? Không biết chim trên cành có còn reo vui khi mình gặp gỡ…?” Hàng trăm câu hỏi cứ lẩn thẩn trong đầu chàng với ngày trở về “bí ẩn” này. Qua cửa kiếng xe, chàng ngước nhìn bầu trời xanh bình lặng, những cụm mây trắng nổi trôi tạo thành dáng vẻ thướt tha của kiều nữ ở độ tuổi xuân thì và chàng mường tượng đó là Xuân - Xuân chưa từng phai, Xuân đẹp mãi nghìn đời.

Ô kìa đây rồi ! Đông bước xuống xe, chàng lặng người một giây lâu để ngắm vườn đào không gì thay đổi. Chàng không biết nó là vườn đào của ba mươi sáu năm hay người ta mới trồng lại trong những năm gần đây. Chàng tới gốc gây đào xưa và thẩn thờ ngắm những cánh hoa đào phơi sắc trong nắng và gió, những nụ hoa hồng thắm vừa mới nở e ấp duyên dáng như mời gọi chàng khẽ lung linh trong gió mới, những cánh hoa đu đưa khiến cho bóng nắng cứ vờn qua vờn lại như những bức tranh di động muôn màu. Chàng nâng một nụ hoa rồi hôn lên nó, hít vào thật sâu để tận hưởng trọn vẹn hương hoa của ngày xuân chớm nở, chàng nhắm mắt lặng nghe tiếng chim hót, tiếng gió thì thào bên những cành đào xuân thì, chàng mơ màng dư âm ngày cũ đâu đây hiện về trong phút giây thực tại… Chàng run rẩy với hạnh phúc đơn sơ mà chàng đã bị tuột mất qua những tháng năm dài ray rức.

Chậm rãi, Đông bước tới cuối vườn đào và đi về hướng trái, căn nhà của Xuân hiện ra với tường sơn xanh mới tinh thay vì đó là ngôi nhà gỗ cũ kỹ. Chàng móc địa chỉ trong túi áo ra và dò lại số 5/35, đúng rồi. Chàng gõ cửa… tim chàng đánh thình thịch và chàng phải ôm chặt bó hoa hồng vì sợ nó bung ra khỏi tay chàng. Tiếng chốt sắc vừa kéo lên, cánh cửa mở tung, một phụ nữ già run rẩy chống gậy, chân tay khô đét, đầu tóc lưa thưa trắng phau, mặt xệ da nhăn, đôi mắt lem nhem, răng rụng gần hết, móm méo hỏi chàng sau một cơn ho sặc sụa:

- Ông muốn tìm ai ?

Đông lễ phép nói:

- Dạ thưa, cháu muốn gặp Xuân, cụ ạ.

- Tui chính là Xuân đây, ông cần gì ?

Bà ta vừa trả lời vừa ráng nhướng to đôi mắt để nhìn chàng.

Chàng chợt nhận ra giọng nói quen thuộc, khựng một lúc… rồi chàng lấp bấp:

- X… in… l…ỗi !

Bó hoa hồng vụt rơi xuống đất, chàng lảo đảo bước nhanh về phía vườn đào như bị ma rượt… Đến gốc cây đào cũ, Đông quỵ xuống và cảm thấy toàn thân rã rịu, một lúc sau chàng như sực tỉnh một điều gì đó rồi cười như điên dại với chính chàng. Chàng há hốc mồm nhìn lên cành xuân, những cánh đào tơ vẫn đang phơi phới khẽ gọi nửa hồn xuân, chàng lẩm bẩm: “Đào hoa y cựu tiếu đông phong !”

Một tiếng chuông chùa vừa đổ ở bên kia đồi. Đông đứng dậy hướng về phía ngôi cổ tự heo hút cuối trời tây, chàng lững thững bước trên cái bóng xiêu vẹo của chính mình khi chiều đã ngã vàng nắng nhạt.

Có hề chi

- Thích Tánh Tuệ



Hề chi một chiếc lá rơi
Mùa thu vẫn cứ đẹp ngời nhân gian
Gió lay giàn mướp hoa vàng
Lời ru mẹ vẫn nồng nàn, mênh mông

Hề chi một đóa xuân Hồng
Bình minh nở thắm, chiều trông phai tàn
Trong vườn còn Huệ, còn Lan
Người ta đâu chỉ ngó ngàng Hồng thôi

Hề chi một ánh sao rơi
Bầu trời đêm vẫn tuyệt vời ngàn sao
Ánh sao lịm tắt phương nào
Con đóm đóm nhỏ tự hào sáng hơn

Hề chi, vắng mợ chợ buồn
Người ta vẫn cứ bán buôn rộn ràng
Đầu thôn, cuối xóm, giữa làng
Ai vì mợ vắng vội vàng hỏi thăm ?

Hề chi thiếu một thẻ trầm
Mà bàn thờ Bụt lặng thầm khói hương
Sư đi hóa độ hoằng dương
Điệu ra tiếp khách thập phương thế thầy

Hề chi con sáo xa bầy
Mà đàn sáo nọ từ rày lặng im
Có con nào nhọc bay tìm
Còn chăng giọng hót trong tim bạn bè

Hề chi trên lối khuya về
Đèn đường vụt tắt, nặng nề bước ai
Nắng khuya vằng vặc canh dài
Không đèn còn ánh trăng cài ngõ đêm

Hề chi một phận đời riêng
Buông hơi nằm xuống mà nghiêng đất trời
Thiếu ta, đời cũng vậy thôi !
Ta là hạt bụi giữa đời bao la …

Hãy rũ bỏ và đứng lên

- Sưu tầm

… Một người nông dân nuôi một con lừa để chuyên chở hàng hóa ra chợ bán. Hôm ấy, sau một buổi sáng làm việc mệt nhọc, người nông dân để con lừa đứng bên một miệng giếng cạn. Thật không may, con lừa sẩy chân rơi xuống giếng. Nó kêu rống lên cầu cứu. Người nông dân đến xem xét. Ông ta thấy rằng để đưa con lừa lên khỏi giếng phải mất rất nhiều công sức, trong khi đó, nó đã là một con lừa già nua mà ông đã muốn loại bỏ từ lâu.





Sau một lúc cân nhắc, người nông dân quyết định sẽ mua một con lừa mới chứ không bỏ công sức cứu con vật khốn khổ. Ông ta gọi một người hàng xóm đến và họ cùng xúc đất lấp giếng. Ngay từ đầu, lừa đã hiểu chuyện gì đang xảy ra và nó kêu la thảm thiết. Nhưng sau đó lừa trở nên im lặng. Con lừa vô cùng phẫn nộ. Nhưng rồi, nó thấy rằng có căm phẫn cũng chẳng ích gì. Và nó bỗng để ý thấy mỗi xẻng đất hất xuống mình nó, nó có thể rũ bỏ (shake-off) và bước lên trên (step up).

Thế là con lừa bắt đầu làm cái công việc giải cứu chính mình. Mỗi xẻng đất đổ xuống trên mình, nó lại rũ bỏ và bước lên trên. Cứ mỗi lần một tảng đất rơi đè lên vai, nó lại lắc mình cho đất rơi xuống và cố ngoi lên trên ! Và nó đã làm như vậy, từng chút một, với lời tự nhủ thầm và tự cổ vũ “Nào mình hãy hất nó xuống và bước lên trên…, hất nó xuống và bước lên trên…” Mặc cho sự đau đớn ê ẩm phải chịu sau mỗi tảng đất đổ ập xuống, mặc cho sự bi đát cùng cực của tình huống đang gánh chịu, con lừa tiếp tục chiến đấu chống lại sự hoang mang, hoảng sợ, tiếp tục theo đúng phương châm: “Hất nó xuốngvà bước lên trên !”

Dần dần, đất đầy lên và con lừa bước ra khỏi miệng giếng. Những đất đá tưởng sẽ vùi lấp con lừa lại trở thành phương tiện để cứu thoát nó. Chỉ một lúc sau mọi người nhìn thấy chú lừa xuất hiện trên miệng giếng và lóc cóc chạy ra ngoài. Những gì như sẽ đè bẹp và chôn sống nó, trên thực tế đã cứu sống nó. Tất cả đều nhờ vào cái cách mà con lừa đã can đảm đối diện với nghịch cảnh của từ sự hoảng loạn, sự cay đắng và sự tự thương hại, thì những nghịch cảnh tưởng chừng như có thể chôn vùi chúng ta, lại sẽ tiềm ẩn trong chính những phần thưởng không ngờ tới.

Các bạn thân mến !

Đôi khi, trong cuộc sống của bạn, có những lúc bạn tưởng như tuyệt vọng vì bao nhiêu khó khăn đổ ập xuống mình. Vậy hãy làm như con lừa thông minh kia: rũ bỏ và đứng lên (shake-off and step up) !

“Hất nó xuống và bước lên trên” - hãy can đảm từng chút ra khỏi cái giếng mà chúng ta đang gặp phải. Cuộc sống là như vậy đó ! Cuộc sống sẽ đổ rất nhiều thứ khó chịu lên người bạn. Bạn phải đối mặt với các vấn đề của mình một cách tích cực và quả cảm, bình tĩnh và có sự khôn ngoan. Hãy xem mỗi vấn đề bạn gặp phải là một hòn đá để bạn bước lên cao hơn. Chúng ta có thể thoát khỏi cái giếng sâu nhất chỉ đơn giản bằng cách đừng bao giờ đầu hàng. Và bạn sẽ thấy, những khó khăn tưởng như vùi lấp ta hóa ra lại là những phương tiện để nâng cao con người ta lên.


Nếu không còn ngày mai

- Thích Tánh Tuệ



Giả dụ ngày mai ... tôi bỏ tôi
Dù bao mộng ước vẫn đầy vơi
Tôi sẽ đi trong niềm thanh thản
Hay ngoảnh nhìn sau ... lệ tiếc đời !

Giả dụ ngày mai phải tạ từ
Một đời gom góp những riêng tư
Tôi mang theo tất, hay nhường lại
Dẫu tận đáy lòng, bao luyến lưu !

Giả dụ ngày mai ... tôi bỏ mình
Yên bình, phúc lạc với lời kinh
Hay ra đi giữa nghìn thương hận
Giữa những giằng co mé tử sinh ?

Tôi biết ngày mai nếu vắng tôi
Vầng hồng vẫn mọc, vẫn mây trôi
Vẫn tiếng trẻ thơ cười trong trẻo
Tôi, nghĩa gì đâu giữa cuộc đời !

Nếu thật ngày mai sẽ ... ngủ say
Thì nay tôi sống thế nào đây
Lời thương xin nói thay thù hận
Hay mãi ngập lòng chuyện đắng cay ?

Tôi biết trần gian một giấc mơ
Mà vẫn tranh giành đến xác xơ
Cố vớt trăng vàng trên bến mộng
Mấy độ trầm luân ... tiếp dại khờ

Ví dụ ngày mai tôi bước xa
Bàn tay quen nắm có buông ra
Còn hơn thiên hạ từng câu nói
Bao nỗi căm hờn quên thứ tha !

Nếu thật ngày mai tôi bỏ đời
Chiều nay ngồi nhẹ ngắm mây trôi
Niềm thương xin gửi cùng đây đó
Nguyện chỉ mang theo những nụ cười

Tôi như đã đến, chưa từng đến
Thì đời đâu rớt lệ chia phôi
Hôm nao gặp gỡ ... chưa từng hẹn
Đi, chẳng ai chờ... Có thế thôi !

Hái dưa cho người không vào vườn ăn

- Sưu tầm

Thiền Sư Thanh Phẩu ở nơi hội Ngài Đại Dương. Một hôm Sư đang trồng dưa, Đại Dương vào vườn hỏi:

- Dưa đã chín chưa ?

Sư thưa:

- Dưa đã chín.

Đại Dương bảo:

- Lựa một trái hái ăn chơi.

Sư thưa:

- Hái cho người nào ăn ?

Đại Dương bảo:

- Hái cho người không vào vườn ăn.

Sư thưa:

- Chưa biết người không vào vườn có ăn không ?

Đại Dương hỏi:

- Ông có biết y chưa ?

Sư thưa:

- Tuy nhiên không biết mà đâu được chẳng cho.

Lời bình:

Đã có người hỏi xin mà chủ vườn lại hỏi: “Hái cho người nào ăn ?” Người chủ vườn muốn gì ? Ông trả treo khó dễ. Muốn người xác định cái kẻ “biết ăn”, kẻ ấy là ai ? Tại sao đương sự sờ sờ ra đấy mà hỏi quái như vậy ? Tuy vậy không thể trả lời rằng: “Hái cho tôi ăn.” Nói như vậy có được không ?

Người xin xác nhận như vậy là đã lầm, mắc bẫy kẻ trồng dưa rồi ! Đại Dương không thế, Ngài là người “lái buôn” sành sỏi, chỉ có lừa người, nào ai lừa được. Đâu dễ nửa câu lại bị mắc hợm ! Đã là kẻ “lái” chuyên nghiệp nên trả giá đúng mức để thủ lợi, phải nắm chắc việc ấy trong tay. Ngài quật ngược lại người, đoạt cơ chủ rẫy: “Hái cho người không vào vườn ăn.” Một câu trả lời ma quái, hư ảo ! Người vào vườn xin dưa cho kẻ “không vào” ăn. Một chuyện lật lọng ngược lại chủ vườn trả treo. Đã vào, mở miệng xin, sao lại để cho kẻ khác ? Ngài mắc cỡ chăng ? Không dám nhận kẻ ấy là mình ? Không tự cho mình là kẻ ăn, lại đổ thừa kẻ khác !

“Kẻ không vào vườn” ấy là ai ? Là kẻ nào ? Có ai thấy hắn đâu ! Có chăng cũng chỉ là bóng ma. Nhưng đã là một bậc đại nhân, Ngài Đại Dương đâu thể chối quanh, nói vô nghĩa như thế. Ngài nói một cách xác thật đó. Đã giới thiệu một khách quí với chủ vườn. Người đó là kẻ sành sỏi biết thưởng thức hương vị dưa ngon. Kẻ đó đáng được cho ăn. Người đó là “người không vào vườn”.

Nếu là kẻ khác, không phải Thanh Phẩu, người chủ vườn này, thì sẽ nhìn quanh quất kiếm người không vào vườn ấy là ai ? Nhưng kẻ chủ vườn này không làm cái việc phí công vô ích ấy. Không bị lời lẽ ma mị của “ông già” lừa. Mà trái lại, còn làm khó dễ hỏi đon ren, không muốn hái dưa cho nữa là khác: “Chưa biết người không vào vườn có ăn không ?”

Một lối hỏi để giữ dưa, không muốn mất một quả. Người chủ vườn thật lợi hại, dù là tay đại bịp cũng khó mà qua. Lời nói ấy chứng tỏ người chủ dưa đã biết rõ con người “không vào vườn” kia. Lời nói ấy đã chặn trái dưa trước mắt Đại Dương. Người chủ vườn quả thật là kẻ đáo để. Kẻ “bỏn xẻn”. Nhưng Đại Dương là một ông lái tài giỏi, đâu để mất món hàng xét ra lợi nhuận rất cao. Ngài lật ngang lời người, hất chân kẻ chặn: “Ông có biết y chưa ?”

Đây là lời quyết liệt, lời đoạt dưa. Lời này thật lợi hại, nếu không phải là Đại Dương, kẻ lái buôn chuyên nghiệp thì khó lòng, chỉ ngó dưa mà trừ, hối tiếc. Đại Dương, một lời đã buộc người dâng hoa quả. Một xảo thuật “kiếm ăn” thật tài tình. Lời ấy đã đưa chủ vườn vào thế phải chấp nhận. Và chủ dưa đã hoan hỷ không còn trả treo nữa, mà nhất tâm tùy hỷ cúng dường lên con người “không vào vườn” ấy. Chủ dưa đã kính cẩn: “Tuy nhiên không biết mà đâu được chẳng cho.”

Người chủ vườn thật là hiếu khách, một kẻ thạo việc trồng trọt, lại thạo của thạo người. Một chủ vườn giữ dưa trọn vẹn, dâng dưa mà không mất một trái.


“Người không vào vườn” ấy là ai ?