V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Tín ngưỡng

- Trích: “Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất” - Bạch Lạc Mai
- Chương I - Chỉ vừa gặp gỡ đã quen nhau



Phải chăng có một nơi bạn chưa từng đến, mà lần đầu gặp gỡ lại có cảm giác cách biệt nhiều năm ? Từng gốc cây ngọn cỏ, từng hạt cát hạt bụi ở đó, đều hiển hiện trong mơ, đượm vẻ lạ lẫm lẫn quen thuộc tựa như xa cách một đời. Có lẽ đây chính là duyên phận mà nhà Phật thường nói, bởi vì có duyên nên mới vừa gặp đã xiêu lòng, mới khó lòng rời bỏ. Tôi là cô gái tin ở duyên phận, dù cứng cỏi, lại luôn rũ mày cúi đầu vì một cảm động tế nhị nào đó.

Đặt chân tới Tây Tạng cũng như sa vào một trận luân hồi thần bí khôn lường, bạn sẽ bị những phong thổ nhân tình không rõ nguyên cớ kia nhấn chìm. Nhất là Phật giáo Tạng truyền đông đảo, từ trong lịch sử xa xưa tiếp diễn đến ngày nay, nhiệt tình và si mê của người Tạng đối với tôn giáo chẳng có mảy may nguội lạnh. Tín ngưỡng không thể khinh nhờn đó truyền từ đời này sang đời khác, trước mặt Thần Phật muôn đời bất diệt, họ thậm chí có thể hi sinh không hối hận. Đó chính là số mệnh, chẳng một ai có thể chọn lựa xuất thân, có lẽ bạn thích cầu đá dương liễu, trăng lạnh hoa mai, vậy mà quanh quẩn trước mắt lại là khói vắng đại mạc, đất tuyết hoang nguyên. Nhưng chúng ta không thể quay lưng với thề ước kiếp trước, vứt bỏ trách nhiệm, bèn ngàn núi muôn sông cất bước độc hành.

Một người không tùy tiện hứa hẹn, lại bằng lòng thề thốt thành khẩn vì một đóa hoa sen thánh khiết, bằng lòng quỳ mãi không dậy vì một ngọn đèn bơ. Trong thế giới luân hồi tràn đầy ảo tưởng, vạn vật đều là bụi nhỏ, bụi nhỏ cũng có thể thành Phật. Con người vì có tín ngưỡng mà ấp ủ hi vọng đối với cuộc sống. Những người Tạng cư trú chốn cao nguyên, tin vào sự tồn tại của Thần Phật, đời đời phủ phục dưới chân núi xanh, vừa nói chuyện với thần linh, vừa chăn ngựa thả cừu, sống giản đơn yên ổn, tiêu dao tự tại. Trong mắt họ, tất cả cỏ cây đều có linh tính, tất cả non nước đều có lời hứa, tất cả bò cừu đều có luân hồi. Mọi người đều là tín đồ của Phật, mọi người đều có tấm lòng thuần túy, trong lòng đều trồng một cây bồ đề.

Lúc đó, Phật giáo Tạng truyền có rất nhiều giáo phái, chia làm Gelug (Hoàng Giáo), Nyingma (Hồng Giáo), Kadam (Hắc Giáo), Kagyu (Bạch Giáo), Sakya (Hoa Giáo), giữa họ cũng không thiếu những vụ tranh đấu, loại trừ lẫn nhau. Mãi đến đầu thế kỷ XVII, ở vùng Thanh Hải và Mông Cổ, địa vị chủ đạo của Gelug đã xác lập, nhưng đấu tranh với các giáo phái khác vẫn ngấm ngầm sóng gió. Chúng ta luôn mong thế giời này sóng yên gió lặng, mong tất cả buồn thương đau đớn đều được nụ cười và khoan dung xóa nhòa, mong giữa người và người không cần phân tranh, không phải tổn thương. Nhưng thực tế vẫn trái với nguyện vọng, dù thanh tịnh như Đức Phật, quảng đại như Đức Phật, cũng có lúc bất lực.

Ngày 15 tháng 12 năm 1616, Đạt Lai Lạt Ma thứ tư - Yonten Gyatso - đột nhiên qua đời ở tu viện Drepung, hưởng dương 28 tuổi. Về cái chết của Yonten Gyatso, có người nói là Tsangpa Khan Phuntsok Namgyal phái người ám sát. Lúc đó Tsangpa Khan bị bệnh, nghe nói là do Đạt Lai thứ tư Yonten Gyatso nguyền rủa ông, nhưng bị Tsangpa Khan phát hiện, bèn phái người giết chết Yonten Gyatso. Đương nhiên, đây chỉ là truyền thuyết, bầu trời mây khói mịt mù, lịch sử cũng trở nên mơ hồ không rõ, đời người phù du như giấc chiêm bao, không ai có thể xác định năm đó đã xảy ra chuyện gì. (“Lúc đó Tsangpa Khan nghi Đạt Lai nguyền rủa, dẫn đến mắc nhiều bệnh, liền công khai mệnh lệnh không cho Đạt Lai chuyển thế, nhờ Ban Thiền Lodsang Chokyi Gyaltsen nhiều lần yêu cầu, mới chuẩn y tìm kiếm linh đồng Đạt Lai thứ năm.”)

Đúng vậy, sau khi Yonten Gyatso qua đời, theo quy củ của phái Gelug, phải tìm kiếm linh đồng chuyển thế. Người sinh trưởng ở miền đất này, đều là tín đồ của Phật Đà, tín đồ của vận mệnh, họ tin tưởng con người có ba kiếp, chết rồi sẽ chuyển thế luân hồi, tái tục duyên chưa hết của kiếp trước. Một người bắt đầu từ khi sinh ra, lúc ngây ngô chưa biết sự đời, đã phải gánh vác trách nhiệm và nợ nần, vinh nhục và giàu nghèo của kiếp trước. Chúng ta cho rằng có thể sửa đổi số mệnh, hóa ra là không thể từ bỏ, do đó luôn cảm thấy bản thân phải sống thân bất do kỷ. Có lẽ bạn chỉ muốn làm một người dân bình thường, lại cứ sinh vào nhà vua chúa. Có lẽ bạn muốn thống trị thiên hạ, trở thành bá chủ hô mưa gọi gió, nhưng lại lưu lạc thành tên giặc cỏ lỗ mãng.

Cuộc đời đã được định sẵn, bạn và tôi đều không thể chọn lựa, chẳng muốn nước chảy bèo trôi, rốt cuộc vẫn phải mặc cho vận mệnh sắp đặt. Ngawang Lobsang Gyatso là Đạt Lai Lạt Ma thứ năm. Năm 1617, Ngawang Lobsang Gyatso sinh ra ở huyện Qonggyai, Lhoka, Thiền Tạng, thuộc gia tộc Qonggyaipa. Gia đình Ngài là địa chủ phong kiến ở Lhoka, cũng là quý tộc dưới trướng chính quyền Phagmodrupa. Một con em quý tộc vừa sinh ra đã được đội lên vầng hào quang hoa lệ, vốn cho rằng đời này sẽ giữ nghiệp nhà giàu có, cưới vợ sinh con, sống cuộc sống sung túc mà tầm thường. Nhưng Đức Phật đã trao cho Ngài sứ mệnh lớn hơn, khi Ban Thiền thứ tư Lodsang Chokyi Gyaltsen nhận định Ngài là Đạt Lai thứ năm, cuộc đời của Lobsang Gyatso liền có biến đổi trơi long đất lở.

Ngài rốt cuộc không phải là người phàm, thiên tư thông minh dĩnh ngộ, tài năng kiến thức xuất chúng, sáu tuổi được đón vào tu viện Drepung phụng dưỡng, tiếp nhận nền giáo dục đặc biệt. Trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền, Đạt Lai thứ năm Lobsang Gyatso là một nhân vật vô cùng quan trọng, Ngài bình định chiến loạn, xây lại cung Potala, xác lập địa vị thống trị của phái Gelug ở Tây Tạng. Một nhân vật mưu lược kiệt xuất, một vị anh hùng kiến công lập nghiệp, được muôn người thành kính quỳ bái, đồng thời cũng trải qua thử thách của khói lửa chiến trường. Chúng ta dường như nhìn thấy một người cầm lái, không sợ mưa gió, cầm vững tay lái vượt bao sóng cả, cuối cùng đến được bờ bên kia đầy hoa sen.

Lúc đó Tây Tạng là thời đại thống trị của chính quyền địa phương Karma, do Đệ Ba quản lý chính sự, phái Karma Kagyu và Tsangpa Khan áp dụng chính sách áp bức tàn phá đối với Hoàng Giáo. Khoảng năm 1630, chính quyền Tsangpa Khan lợi dụng cơ hội các thế lực địa phương tranh chấp nội bộ, thừa cơ phát động cuộc đấu tranh chống Hoàng Giáo, khiến Đạt Lai thứ năm tránh về Lhoka. Lúc đó Hoàng Giáo ở Tây Tạng và vùng Kham Thanh Hải, thậm chí ở nhiều nơi thuộc Mông Cổ đều rất được đông đảo nhân dân ủng hộ. Sau một thời gian trù hoạch, Đạt Lai thứ năm và Ban Thiền thứ tư thương nghị, cử người đến Thanh Hải bí mật triệu Gushi Khan dẫn binh tiến vào Tây Tạng. Do đó mới lật đổ nền thống trị của chính quyền địa phương Karma, ủng hộ Đạt Lai Lạt Ma thứ năm kiến lập chính quyền Ganden Phodrang.

Không phải thành lập chính quyền Ganden Phodrang thì có nghĩa Lodsang Gyatso là vua của Tây Tạng. Trên thực tế, địa phương Tây Tạng hoàn toàn chịu sự khống chế của Gushi Khan. Lobsang Gyatso kiêu ngạo, với hoài bão lớn lao của Ngài, làm sao cam tâm thần phục thế lực Mông Cổ ? Ngài phải mưu cầu địa vị chính trị độc lập, không phụ thân phận Đạt Lai thứ năm của Ngài. Khi chính quyền Ganden Phodrang thành lập, đúng vào lúc vương triều nhà Minh sắp sụp đổ tan tành. Nội địa chiến tranh loạn lạc, thế lực Mãn Thanh ở quan ngoại nhanh chóng lớn mạnh, đối với họ, giang sơn Đại Minh dễ lấy như trở bàn tay. Hoàng Giáo đứng đầu bởi Đạt Lai thứ năm và Ban Thiền thứ tư, để củng cố địa vị thống trị đã có, quyết định tìm kiếm sự ủng hộ từ chính quyền Mãn Thanh ngày càng hùng mạnh. Năm 1642, Đạt Lai thứ năm Lobsang Gyatso phái Khutuktu ila Kuksasn làm đại biểu, lên đường đến Thẩm Dương.

Lúc đó Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực dẫn các thân vương bối lặc, đại thần ra ngoài thành nhiệt tình nghênh đón, theo quan điểm của Hoàng Thái Cực, chuyến đến thăm của người Tạng là do ý trời sắp đặt, là tượng trưng cao xanh bảo hộ triều Thanh. Do đó, Hoàng Thái Cực còn hướng lên trời làm lễ ba quỳ chín lạy, sau khi vào thành, lại đích thân đến nơi ở của sứ Tạng thăm hỏi. Sứ Tạng lưu lại tám tháng ở Thẩm Dương, được Mãn Thanh niềm nở khoan đãi. Đến khi quay về Lhasa, Hoàng Thái Cực còn viết thư trả lời cho cả Đạt Lai, Ban Thiền và Gushi Khan, đồng thời khen ngợi Đạt Lai Lạt Ma “cứu vớt chúng sinh”, “trợ hưng Phật pháp”. Còn ban tặng lễ vật hậu hĩ, bày tỏ sự xem trọng của Mãn Thanh đối với Phật giáo Tạng truyền.

Tất cả phảng phất bụi trần lắng đọng, Đạt Lai 25 tuổi - Lobsang Gyatso - trải qua phân tranh biến ảo, cuối cùng trở thành lãnh tụ hô mây gọi gió của chính trị tôn giáo toàn Tây Tạng. Mãn Thanh như một ngọn núi sừng sững cao chót vót, đà lớn manh của nó vượt xa Mông Cổ, Lobsang Gyatso với ánh mắt và tầm nhìn thâm thúy của Ngài, đã tranh thủ được sự ủng hộ và chấp nhận hết sức đắc lực của chính quyền Mãn Thanh. Điều này cũng có nghĩa địa vị của phái Gelug ở Tây Tạng được củng cố triệt để, còn Lobsang Gyatso cũng thành vị anh hùng được người Tạng sùng bái.

Bản thân sinh mệnh kỳ thực là thuần túy mà sạch sẽ, nhưng trong quá trình trưởng thành, dần dần chúng ta đã nhuộm quá nhiều bụi hồng. Trong hành trình cuộc đời, mỗi người đều có nhiều tao ngộ không thể tránh khỏi, hoặc dũng cảm đối diện, hoặc hoảng hốt chạy trốn, hoàn toàn ở chọn lựa của bản thân. Lobsang Gyatso từ khi sinh ra đã bị vận mệnh chi phối, do đó khi Ngài tư tưởng dồi dào, cũng muốn chi phối vận mệnh. Dù chúng ta là người mạnh hay kẻ yếu, chỉ cần sống trong năm tháng yên tĩnh mà huyên náo này, tươi tỉnh đó, âu sầu đó, vui vẻ đó, cũng đau đớn đó.

Bận lòng chi nữa

- Thích Tánh Tuệ

Dù đã gặp qua lắm cụ già
Ai hay mai đó cụ là ta
Vẫn lo xuôi ngược đời cơm áo
Linh hồn hoang phế cõi tha ma

Dù đã thấy nhiều những nạn tai
“Chuyện ấy ... đời ta sẽ đứng ngoài !”
Say sưa tạo ác, quên hành thiện
Bất chợt tai ương đến thở dài

Dù biết chung quanh lắm khổ buồn
Ái tình, danh, lợi mãi tơ vương
Bôn ba, tất bật quên nhìn lại
Khối kẻ về không ở cuối đường

Dù thấy bao nhiêu kẻ chết rồi
“Mình không như thế, chuyện ... xa xôi !”
Chẳng một ai tin mình sẽ chết
Bất chợt, vô thường sóng cuốn trôi

Ai đã THẤY, NGHE, BIẾT cả rồi
Thì về, kẻo muộn bóng chiều rơi
Mồ hoang lắm kẻ còn xanh tóc
Bận lòng chi nữa ... Dã tràng ơi !



Danh ngôn (51)

- Cảnh Hành Lục



Thành thực thì không ai khinh.
Dung thứ thì không ai thù.
Khoan hòa thì không ai oán.
Nhẫn nhịn thì không bị nhục.

“Chỉ có thành thật mới mang lại hạnh phúc !”

- San San

Đôi khi, một câu nói có thể làm thay đổi cuộc đời của một con người. Đôi khi, chỉ có lòng tốt và sự hiền lành thôi thì chưa đủ. Đôi khi, cuộc sống sẽ cho mỗi người một cơ hội nữa …

Một ngày, sau khi hết tiết giảng và trở về văn phòng, bảo vệ đưa đến cho tôi một số tiền cùng hóa đơn thanh toán. Cả chục triệu đồng tiền nợ … Tôi thấy rất kỳ lạ, không nhớ nổi là đã cho ai mượn số tiền này. Nhìn vào cột người gửi, tôi thấy viết: “Cậu bé ăn xin của 20 năm trước” … mọi kỷ niệm chợt ùa về. Tôi tự hỏi, chẳng lẽ là cậu bé đó sao ?

20 năm trước, hồi đó mẹ tôi còn làm nghề bán hàng cơm cho học sinh ở cổng trường học. Bà thấy nhiều đứa trẻ rất khổ và đáng thương nên luôn làm những hộp cơm ngon hơn mà chỉ bán với giá rẻ. Vì thế học sinh đến mua cơm rất đông. Tôi vừa tốt nghiệp đại học, đang chờ được phân công tác, nên đã ra phụ mẹ bán cơm. Trong một lần bận rộn phục vụ những em học sinh vừa tan học, tôi bỗng nhiên cảm thấy ai đó đi qua quệt phải lưng mình. Đó là một cậu bé chừng 10 tuổi, mặc một bộ quần áo mỏng, rách tả tơi, trong khi trời đã bắt đầu vào đông.

Khi đó, như đã rất quen thuộc, mẹ tôi liền mỉm cười rồi đưa cho cậu bé một hộp cơm. Không đợi tôi cầm hộ, cậu bé vội giật lấy cơm, ném tiền vào hộp rồi chạy mất. Một học sinh bên cạnh tức giận nói: “Thằng ăn mày này toàn lừa tiền cơm, rất nhiều lần đều như vậy, nếu lần sau còn thế thì phải dạy cho nó một trận !”, tôi ngạc nhiên kiểm tra lại hộp tiền, thì thấy quả thực là cậu bé chỉ đưa có một tờ 200 đồng. Khi tôi trách mẹ quá sơ ý, bà nói:

- Mẹ biết mỗi lần thằng bé chỉ bỏ vào đó một tờ 200 đồng. Chỉ có điều ta cũng nên giữ đạo nghĩa. Đứa trẻ này đã mất cả cha lẫn mẹ, rất đáng thương, mẹ cũng chỉ có thể giúp nó đến như vậy.

Tôi không đồng ý nói: “Mẹ thật quá hồ đồ, đây mà là giúp cậu ta sao ?”, nhưng tôi chưa kịp nói xong thì đã bị mẹ la mắng. Tôi biết rõ là dù có nói gì cũng vô dụng, mẹ suốt ngày niệm Phật, chỉ một lòng muốn giúp người khác, nhưng lại không nghĩ sâu hơn. Thế là tôi đột nhiên muốn xử lý thật tốt chuyện này.

Ngày hôm sau, cậu bé ăn xin lại tới. Cậu ta vẫn giành lấy cơm như những lần trước, ra vẻ rất vội vàng và chuẩn bị ném tiền vào hộp. Lúc đó tôi thình lình nắm lấy tay cậu … tờ tiền ít ỏi rơi ra ngoài. Mọi người đều quay lại nhìn, làm cậu bé rất bối rối, xấu hổ, và chực khóc. Lúc đó tôi cười nói:

- Mua như vậy thì không đủ ăn đâu ! Em cứ lấy cơm đi, phần còn thiếu sau này hãy trả.

Nói xong tôi thả tay cậu ra. Cậu bé sợ hãi cầm hộp cơm, ánh mắt tràn đầy nghi hoặc. Tôi lại bảo:

- Đi đi, anh biết rõ em nhất định sẽ trả. Nhớ nhé ! Sau này phải trả cả vốn lẫn lãi !”

Cậu bé suy nghĩ mất một lúc, rồi sau đó im lặng quay người, đi thẳng từng bước một, chứ không còn chạy như trước kia nữa. Kể từ đó, cậu vẫn thường đến ăn, và trả 200 đồng …

Đang suy nghĩ miên man thì anh Trương lại vội vã quay lại nói với tôi: “Tôi quên ! Còn một phong thư nữa !”. Nhận lấy phong thư, tôi vội vàng mở ra đọc. Trong thư viết:

“Tôi cuối cùng đã tìm được địa chỉ của anh. Suốt bao năm tìm kiếm, tôi mới có thể đem tiền trả lại, mới có thể hoàn lại ân tình 20 năm về trước. Lúc đó tôi đã lang thang khắp nơi, thường xuyên chịu đói rét. Một lần tôi tới cổng trường học giả vờ mua một hộp cơm. Tôi ném thử tờ 200 đồng vào hộp rồi nói xin mua cơm. Lúc đó tôi nghĩ, dù có bị phát hiện đi nữa thì dì bán cơm cũng rất hiền lành, sẽ không trừng phạt tôi. Nhưng dì cũng không phát hiện ra, tủm tỉm cười rồi đưa tôi một hộp. Sau đó tôi bắt đầu dựa vào thủ đoạn và mánh khóe để có được bữa ăn. Tôi cảm thấy người tốt trong xã hội rất dễ bị lừa. Tôi thường xuyên nói dối, và trộm đồ trong hành lang, còn định trộm cả trong cửa hàng nữa. Lần đó khi bị anh tóm lấy, tôi đã nghĩ mình vậy là xong rồi, bị đánh rồi. Nhưng tôi đã không phải chịu trận đòn nào, mà lại còn được anh thả đi. Những lời nói của anh đã bảo vệ danh dự cho tôi, khơi dậy trong tôi mong muốn làm người tốt thực sự. Trong những năm sau này, mỗi khi nhớ đến ánh mắt của anh, tôi lại có thể tránh xa những điều xấu. Và dù phải tìm kiếm khắp nơi, dù phải đi bao xa, mất bao nhiêu thời gian, tôi vẫn muốn hoàn thành lời hẹn ước cũ.”

Và sự thành thật của cậu bé ăn xin cuối cùng đã được đền đáp …

“Một ngày nọ, khi nhìn thấy tôi ngồi co ro vì giá rét, một phụ nữ đã trở về nhà mang cho tôi mấy chiếc áo. Sau đó tôi phát hiện trong túi áo có rất nhiều tiền. Lúc đó tôi rất đói, rất muốn giữ lại số tiền này, nhưng ánh mắt của anh lại hiện lên làm tôi thay đổi ý nghĩ. Tôi phải mất cả ngày mới tìm được nhà người phụ nữ nọ. Hai vợ chồng họ đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi tới trả lại tiền. Họ khóc nức nở ôm tôi vào lòng, rồi liên tục nói tôi là đứa trẻ tốt. Khi đó con gái hai vợ chồng vừa bị bệnh mà qua đời, tôi may mắn trở thành con nuôi của họ. Cuộc sống từ đó trở nên tốt hơn, tôi được cha mẹ nuôi thương yêu hết mực, được đi học. Giờ tôi đã trở thành giáo viên …”

Đúng là cậu ta ! Quả là một niềm vui ấm áp. Tôi thầm cảm thấy may mắn vì đã không vô tình hủy hoại một con người. Cậu bé ăn xin học được đức tính thành thật ngay thẳng, vì vậy mà đã gặp một gia đình tốt. Giờ đây đứng trên bục giảng, chắc chắn cậu bé ăn xin năm xưa sẽ nói với học sinh của mình rằng:

“Chỉ có thành thật mới mang lại hạnh phúc !”

Diệu pháp Liên Hoa

- Hàn Châu




Lạy đấng Tam Giới Tôn quy mạng cùng mười phương Phật
Nay con phát nguyện rộng, thọ trì kinh Pháp Hoa
Lời kinh bay cao lời kinh lan tỏa nhiệm mầu
Lời kinh đưa ta về cõi phúc, xa lánh cõi địa ngục
Cho con thấy Ánh Đạo Vàng ...

Diệu Pháp Liên Hoa vô biên nghĩa nhiệm mầu
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Phật Như Lai, của Phật Như Lai
Diệu Pháp Liên Hoa cho ta nước Cam Lồ
Ôi để hồn dịu mát, sen hồng thơm ngát trần gian
Sen hồng tỏa ánh hào quang ...

Lạy Đấng Tam Giới Tôn quy mạng cùng mười phương Phật
Nay con phát nguyện rộng, thọ trì kinh Pháp Hoa
Đời con như mây nhẹ bay trên cõi hồng trần
Ngày đêm luôn kinh cầu diệu pháp
Cho dẫu nhiều lỗi lầm câu kinh xóa hết tội tình

Của cho không bằng cách cho

- Thích Đạt Ma Phổ Giác

Nếu chúng ta cứ nghĩ rằng: “Khi nào mình có tiền thật nhiều rồi mới giúp đỡ người khác, đó là quan niệm sai lầm của rất nhiều người.”

Bên ngoài trời vẫn mưa khiến cho mọi thứ trở nên buồn bã và ảm đạm hơn. Một bà lão đầu tóc đã bạc phơ với bộ bồ rách nát, vội vàng bước chân vào một quán vắng, chỉ có hai người thanh niên đang ngồi bàn bạc một điều gì đó. Trước mặt họ là hai tô mì bốc khói và nóng hổi. Bà đến bên bàn với lời lẽ như van nài:

- Xin hai cậu làm ơn làm phước, giúp cho già này chút đỉnh để sống đỡ qua ngày !

Một cậu có vẻ mặt hơi sáng sủa mới thò tay vào túi lấy ra tờ năm ngàn định tặng cho bà lão, nhưng khi ấy cậu lại cất tiền vào túi, và lễ phép hỏi bà rằng:

- Trời đã tối và mưa từ chiều đến giờ chắc bà đói bụng lắm rồi, con xin mời bà tô mì nóng để lót dạ nhé !

Bà lão rất là vui vẻ và cám ơn chàng niên hết lời, vì có một buổi tối no đủ. Chàng thanh niên liền gọi chủ quán cho một tô mì đặc biệt giá gấp đôi tô mì bình thường.


Tô mì nóng hổi vừa được đem đến bà lão ngồi ăn rất ngon lành làm cho hai thanh niên nhìn thấy cũng cảm thấy vui lây. Khi dùng xong tô mì bà liền cảm ơn chàng thanh niên rối rít, và chào ra đi khi bên ngoài trời vẫn còn đổ cơn mưa.

Người bạn ngồi kế bên khi ấy mới thắc mắc hỏi, sao bạn định cho tiền bà già rồi đột nhiên mời bà ăn mì ? Chàng trai ấy mới trả lời:

- Lúc nãy tớ định cho tiền bà, nhưng nghĩ lại cuộc đời của bà chưa chắc đã được thưởng thức một tô mì nóng hổi và ngon như thế này, vì bà chưa chắc dám bỏ tiền ra để ăn.

Nghe lời giải thích của bạn, người thanh niên mới gật đầu liên hồi và tâm đắc với lời nói ấy mà thán phục rằng:

- Đúng là ông bà tổ tiên mình ngày xưa thường hay nhắc nhở mọi người, của cho không bằng cách cho …

Câu chuyện trên là một triết lý sâu sắc nói lên tình người trong cuộc sống với tinh thần một miếng khi đói bằng một gói khi no. Sự quan tâm giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tính đạo đức nhân văn cao cả mà chúng ta ai cũng có thể làm được. Nếu chúng ta cứ nghĩ rằng: “Khi nào mình có tiền thật nhiều rồi mới giúp đỡ người khác, đó là quan niệm sai lầm của rất nhiều người.”

Cũng như có rất nhiều người nói rằng: “Con cầu mong Trời Phật cho con trúng tờ vé số độc đắc để con đi làm từ thiện giúp những người bất hạnh và cúng dường chùa.” - Ngày đó chắc khó xảy ra, nhưng nếu có chưa chắc chúng ta biết mở rộng tấm lòng, khi chưa có chúng ta hay mơ ước, hứa hẹn đủ thứ … Thôi thì bây giờ thực tế trong ngày hôm nay, ta nhịn bớt đi một ly cà phê sáng, hay bớt đi một chút ít nhu cầu của cá nhân để bố thí, cúng dường hoặc giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh.

Chúng ta hãy nên nhớ rằng người có nhiều tiền bạc, họ sẽ bố thí tiền bạc của cải vật chất, còn ta sẽ làm việc gì phù hợp với hoàn cảnh của mình trong hiện tại, chứ đừng chờ đợi đến ngài mai, ngài mai tức ngày ấy còn xa lắm, như câu chuyện: “ngày mai ăn bánh khỏi trả tiền” chắc ai cũng đã từng đọc qua.

Chúng ta không nên hứa hẹn hay chờ đợi ngày mai mà ngày hôm nay mình làm được việc gì thì cứ làm, giúp một người già qua đường, lượm một cây đinh sét để người khỏi bị đạp phải, và rất còn vô số việc mà ta phải làm trong ngày hôm nay, chứ đừng nên hứa hẹn ngày mai. Vì ngày mai rất còn quá xa xôi với chúng ta … khi cơn vô thường chợt đến.

Trả về

( Sưu tầm )

Trả về đêm tối không trăng
Trả về ngày sáng, mặt trời rạng soi
Trả về tường vách ngăn đôi
Trả về trống rỗng, hư không nhiệm màu

Trả về con sóng bạc màu
Rì rào gió biển hát lời thiền ca
À ơi, biển mẹ bao la
Giang tay vẫy gọi sóng về nhà mau

Trả về phiền não, âu sầu
Vui, buồn, thương, ghét … đượm màu vô minh
Trập trùng sóng nghiệp dấy sinh
Luân hồi muôn nẻo, tử sinh đoạn trường

Trả về cát bụi bên đường
Tấm thân tứ đại, vô thường kết duyên
Chấp vào vọng tưởng đảo điên
Trường giang sóng cuộn khuất che nẻo về

Trả về cái chẳng trả về
Chân tâm hiển lộ, hiện tiền sát na



Không phán xét

( Sưu tầm )



Đó là câu chuyện về một người đàn ông thông thái trúng số một chiếc xe, gia đình và bạn bè đến chúc mừng: “Ồ, ông quả là người may mắn !”, ông mỉm cười trả lời: “Có lẽ thế !”

Trong mấy tuần đó ông rất vui vẻ với chiếc xe mới của mình. Một ngày kia, có tay say rượu đụng vào xe của ông ta trên xa lộ, và ông phải vào bệnh viện vì bị thương ở nhiều chỗ. Gia đình và bạn bè chạy đến bảo: “Ông quả là không may !”, ông lại mỉm cười nói: “Có lẽ thế !”

Khi ông đang nằm ở bệnh viện, có cơn mưa lớn đổ xuống, đất lở vào ban đêm cuốn theo nhà cửa của ông xuống biển. Bạn bè và gia đình lại tới: “Ông thật may mắn khi ở bệnh viện !”, ông lại đáp: “Có lẽ thế !”

Câu nói: “CÓ LẼ THẾ !” của người đàn ông thông thái này nói lên thái độ từ chối bình phẩm phán xét những điều đang xảy ra. Thay vì phán xét hoàn cảnh, ông chấp nhận hiện tại đúng như chính nó.

Người Ấn Độ có một quy tắc tâm linh: “bất cứ điều gì xảy ra thì đó chính là điều nên xảy ra”, không có điều gì tuyệt đối, không có điều gì chúng ta trải nghiệm lại nên khác đi cả. Thậm chí cả với những điều nhỏ nhặt ít quan trọng nhất. Những gì đã xảy ra chính là những gì nên xảy ra và phải xảy ra, giúp chúng ta học ra bài học để tiến về phía trước. Bất kỳ tình huống nào trong cuộc đời mà chúng ta đối mặt đều tuyệt đối hoàn hảo, thậm chí cả khi nó thách thức sự hiểu biết và bản ngã của chúng ta.

Tương tự vậy, đừng vội vàng phán xét một việc gì là tốt hay xấu. Thái độ phán xét cuộc sống chỉ khiến bạn thêm gay gắt và khốn khổ hơn mà thôi. Bình tâm đón nhận mọi điều đang xảy ra mới chính là nghệ thuật để có cuộc sống an vui, khoáng đạt. Nhớ điều này bạn nhé !

Xin trao tặng em

- Thích Nhật Từ



Xin trao tặng em nụ cười hoan hỷ
Để xóa đi những đố kỵ hơn thua
Xin trao tặng em tấm lòng tri kỷ
Sống là cho chứ đâu phải gom về

Đời ảo hóa mong em nhìn cho kỹ
Biến hận thù thành tình bạn nơi nơi
Đời an lạc khi tâm mình tùy hỷ
Với thành công và hạnh phúc của người

Cái T Ô I, luôn thay mặt đổi tên

- Thông Hội



Những ngày nóng bức cuối cùng cũng đi qua. Những ngọn gió đầu thu dễ chịu vô cùng. Ngoại cảnh đang từng bước chuyển mình để thích ứng với mùa thu tới. Con người cũng phải từng bước chuyển mình để thích ứng cuộc sống mới. Sự phát triển và hoại diệt của muôn loài, sự đổi thay của ngoại cảnh. Ngay cả dòng tâm thức của con người cũng từng sát na sinh diệt. Đó không phải cuộc sống luôn đổi mới, dòng đời luôn luân lưu, trôi chảy để lúc nào cũng mới mẻ, tươi mát sao ?

Nhận rõ và thấu suốt sự vận hành này, dòng chảy này để biết mình là ai và cuối cùng mình đi về đâu, không phải là Thiền sao ? Đây cũng chính là tinh thần giác ngộ mà Đức Thế Tôn dạy. Nếu bên trong không thấu sự vận hành của nội tâm, ngoài không rõ được tiến trình sinh diệt của ngoại cảnh, đây là con mắt tâm chưa mở. Ta vẫn còn nhắm mắt mà đi, nhắm mắt mà sống.Trong đời thường, ta chỉ biết vay mượn mọi thứ, càng nhiều càng tốt, để tô bồi cái ta khôn ngoan, cái ta thông thái, cái ta giỏi giang của mình. Có câu chuyện Thiền rất thú vị:

Sau giờ tọa thiền, trời tối, một anh thiền sinh mù, mượn cây đèn lồng của vị thầy để đi đường. Đang đi, chợt anh đụng vào một người đi ngược chiều với anh. Giận quá, anh quát:

- Bộ không thấy cây đèn người ta đang cầm sao ?

Người kia đáp:

- Đèn của anh tắt từ lúc nào rồi anh ơi !

Từ lúc nào, tuệ giác ta đã vắng mặt, sự nội quán không có nên thường không biết rõ về mình, về sự vận hành của tâm thức, về con người mình. Ta chỉ vay mượn những kiến thức, những kinh nghiệm bên ngoài để trang bị, khoe khoang và bảo vệ mình. Bình thường, ta thao thao không ngừng về cái thấy xa, hiểu rộng, cái vốn hiểu biết và kinh nghiệm cạn cợt của mình, nhưng khi va chạm sự thật, ta ú ớ, ta … “mất thần thông” chỉ còn biết để phiền khổ khống chế và trách móc người, nếu khá hơn, ta chỉ chịu đựng hay tìm cách xoa dịu, khuất lấp cho yên.

Con mắt tâm không mở, tuệ giác không có, hay dùng ngôn ngữ phổ thông hơn là không tỉnh thức nên không có khả năng biết được cơn giận hay buồn phiền từ đâu có. Anh chàng thiền sinh mù trong chuyện này, anh quá tin vào cây đèn anh đang cầm mà quên rằng có lúc nó cũng tắt, anh quên một sự thật là anh mù và đang đi ngoài trời tối, còn một sự thật rõ ràng nữa là, mình mù nên mình đụng người mà tưởng là người đụng mình …

Đức Phật dạy, mỗi người hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Ngọn đuốc này không có ai thắp sáng thay ta được, Phật - Bồ Tát - Chư Tổ hay các bậc Thầy chỉ cho ta biết, ta có nhiên liệu và có khả năng thắp lên ngọn đuốc tâm ấy, đuốc do ta thắp nên nếu lỡ tắt, ta biết thắp lại, dần dần ngọn đuốc cháy lâu hơn đến lúc sáng mãi. Thắp lên được ngọn đuốc tuệ giác, nhờ đó những máy động của thân, những vận hành của tâm thức lộ rõ. Tuệ giác càng sáng, ta thấy càng rõ và sâu sắc hơn, đằng sau những vận hành ấy là ai và cuối cùng thấu suốt nguồn gốc và thực chất khổ đau.

Ngày xưa, buổi sơ khai, Thế Tôn chỉ dạy Kinh Tứ Diệu Đế và Thiền Tứ Niệm Xứ, đây là thiền kinh căn bản, là đầu mối khám phá nội tâm giúp người tu từng bước trên con đường nội quán để thành tựu sự giải thoát. Từ căn bản, nếu ta không hay biết hơi thở vào ra thế nào trong thân, cảm giác đau nhức, ngứa ngấy nơi thân, thì làm sao ta để ý và rõ được những tâm hành sâu sắc khác như buồn, phiền, giận, hờn … vận hành ra sao, cũng như nguyên nhân và thực chất của những tâm hành và đối tượng của những tâm hành này, để cuối cùng dứt khổ, giải thoát.

Các vị Thiền sư đã từng nói, chỉ cần dứt tình phàm, đâu cần cầu thánh giải. Phàm tình này, đâu không phải là những tình chấp, những ma tánh xuất hiện hàng ngày trong ta hay sao ? Trong kinh, Phật vẫn gọi là ma phiền não, những ma tánh này thường có mặt những khi đối duyên xúc cảnh, trong cuộc sống đời thường. Nếu ma tánh vẫn còn sâu dày và khống chế ta, làm sao Phật tánh hiển lộ ? Có phải, hàng ngày ta sống bằng ma tánh của ta hay không ? Từ sáng đến chiều, cái gì thường vận hành trong ta ? Ai suy nghĩ ? Ai nói năng ? Ai cho mình giỏi, mình đúng ? Ai cho mình là thế này, thế kia ? Ai vui buồn khi cảnh thuận hay nghịch với những gì ta đặt để, cho là ... ?

Có vị Tăng hỏi Thiền sư Duy Khoan:

- Đạo ở đâu ?

Sư đáp:

- Ở trước mắt.

Ông Tăng hỏi thêm:

- Sao con không thấy ?

Sư bảo:

- Vì ông còn có ngã (cái tôi).

Ông Tăng hỏi tiếp:

- Con còn có cái tôi nên không thấy, vậy Hòa Thượng thấy không ?

Sư đáp:

- Có ông, có ta rồi cũng không thấy.

Ông Tăng lại hỏi thêm câu nữa:

- Không con, không Hòa Thượng lại thấy chăng ?

Sư đáp:

- Không ông, không ta, còn ai cầu thấy ?

Những đám mây đen còn che kín, tuy mặt trời có đó nhưng làm sao hiển lộ ? Những ngày mây đen che kín, mưa gió và sấm chớp ầm ì, nếu có dịp đi phi cơ, ta thử để ý, khi phi cơ lên cao, vượt khỏi những lớp mây, bên trên là mặt trời sáng chói? Nhưng, mặt trời không thể chiếu xuyên qua những lớp mây dày để mặt đất sáng sủa được. Nếu mây tan, dưới đất sẽ không còn mưa bão sấm chớp. Chỉ cần những đám mây thành kiến, định kiến, những khái niệm hay giỏi, đúng, sai .v.v.v. mà ta vay mượn để hình thành cái tôi của mình, những thứ này phải được tuệ giác thường xuyên soi chiếu, thì mới có ngày mây tan trăng hiện. Đây không phải “tình phàm hết, thể hiện bày” sao ?

Xin tiếp một ví dụ này để vấn đề sáng tỏ hơn. Có một người nghèo khổ, chỗ ở của anh là căn lều mục nát, anh sống lây lất qua ngày bằng cách xin ăn. Một hôm, có người tốt bụng nói với anh rằng:

- Ngay trong căn lều anh ở, dưới chỗ anh thường nằm ngủ có mỏ vàng. Ban đầu, anh không tin, nhưng đến mùa mưa dầm, anh không thể nào sống trong mái lều ấy, cũng như không đi xin ăn được. Một hôm, nhớ lời người tốt bụng, anh tìm mượn được cây cuốc, âm thầm đào đất dưới chỗ anh nằm, quả nhiên có vàng, nhưng không thể sử dụng được vì còn lẫn lộn với quặng. Anh lại kiên trì học cách lọc quặng, đãi vàng. Quặng lọc tới đâu, vàng nguyên chất hiển lộ tới đó. Dần dần, anh bán vàng, xây dựng nhà cửa, cơ sở, giúp đỡ những người nghèo khó trong làng có công ăn chuyện làm, đồng thời, anh tiếp tục lọc quặng. Cuối cùng, anh trở thành người giàu có nhất làng vì anh có những khối vàng, thuần vàng.

Trong thiền Đông Độ, có giải ngộ và chân ngộ. Khi giải ngộ, hành giả chỉ hiểu và nhận ra mình có cái chân thật (Phật tánh) nhờ nghe giảng hay nghiên cứu kinh, luận và thiền sử, trường hợp này, hoàn toàn là kiến giải, tức khái niệm về Phật tánh. Còn chân ngộ, hành giả cũng nghiên cứu kinh, luận và thiền sử, nhưng nhờ sự trăn trở, thao thức dứt khổ là động cơ đẩy mạnh công phu nội quán, bền bỉ và sâu sắc, đến lúc chín muồi, nhờ duyên ngoài tác động, như cơn gió thổi qua làm rụng trái chín. Trong giây phút chớp lòe ấy, Phật tánh hiển lộ, hành giả hỷ lạc vô cùng, những chấp thô rơi rụng nhưng những chấp trước vi tế (nhỏ nhiệm, sâu, khó thấy) vẫn còn, ngay lúc này, cái chấp ngã ôm lại trạng thái ngộ và ý thức liền hình thành khái niệm kiến tánh, ngộ đạo. Từ đó cái tôi kiến tánh, cái tôi ngộ đạo có mặt.

Ta khó nhận ra chỗ này, vì ta đang là một với cái thấy biết mới, cao hơn, nếu duyên may gặp người chỉ điểm, giúp ta vượt qua. Bằng không, ta dễ ỷ lại chỗ ngộ và nghĩ mình đã xong việc. Nếu lòng tha thiết muốn thoát ly sinh tử, đạt đến giải thoát hoàn toàn, hành giả sẽ dễ nhận ra chỗ này và tiếp tục rõ mình, rõ người trong những lúc đối duyên xúc cảnh, để thấu suốt những bóng mây còn ẩn kín, nhờ vậy cái tôi và những thay mặt đổi tên của cái tôi (phóng hiện của bản ngã) không còn lừa dối được ta. Đây là đoạn 153-154 trong kinh Pháp Cú:

- Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi. Hỡi kẻ làm nhà ! Nay ta gặp được ngươi rồi. Ngươi không thể làm nhà nữa. Cột và đòn tay của ngươi đều gãy cả, nóc và xà nhà của ngươi đã tan vụn rồi. Ta đã chứng đắc Niết bàn, bao nhiêu dục ái đều dứt sạch.

Gom những cột, kèo và đòn tay, người thợ đã xây dựng thành nóc nhà, xà nhà rồi thành căn nhà. Cũng như suốt đời ta vay mượn nhiều thứ bên ngoài để hình thành ngôi nhà ngã chấp. Người làm nhà đâu không phải chính cái tôi của mình hay sao ? Đức Thế Tôn đã từng căn dặn: “Vô ngã thị Niết Bàn”, khi nào rõ ràng, thấu suốt được cái tôi, khi ấy mới thực chứng Niết Bàn. Chính ngài, ngài đã phát hiện, đã chạm mặt người thợ làm nhà nên cái tôi tạo tác căn nhà sinh tử không còn tiếp tục nữa, và ngôi nhà ấy cũng sụp đổ hoàn toàn. Ngài dứt khổ, giải thoát và thực chứng cái vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.

Ngay những câu đầu của đoạn kinh: “Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi !” - Lời than thật thiết tha, thật đau xót cho chính ta. Ta lang thang, trôi nổi, lặn ngụp trong khổ đau biết bao nhiêu đời kiếp rồi, nếu ta chưa gặp và chạm mặt người thợ làm nhà, thử hỏi ta còn quanh quẩn, đắm chìm trong khổ đau luân hồi bao nhiêu đời kiếp nữa ?

Ta đã từng đóng biết bao vai, tùy theo trình độ thăng tiến của ta, ta vẽ và xây biết bao nhiêu căn nhà, để rồi ta khư khư bảo vệ nó, tô bồi nó, và khổ đau vì nó. Ta không biết, ngày nào chưa tìm ra người thợ làm nhà là ngày đó ta còn xây nhà, còn ôm chặt những gì ta sở hữu, khi ai đụng đến những chấp cứng này, ta phiền não và sẵn sàng nhào ra chống trái, bảo vệ, gây tạo vô số tội, để cả cuộc đời không sao có ngày vui. Nếu cứ tiếp tục như vậy, cuối cùng ta được gì và đi về đâu ?

Nhận rõ sự vận hành của nội tâm để bắt gặp người thợ làm nhà, là ta đặt chân đến đầu nguồn của dòng sinh tử, làm chủ và đổi mới tâm thức mình để luôn hòa nhịp cùng sự mới lạ, tươi mát, trôi chảy của dòng đời và cảnh vật.

Hai ngọn sóng

- Thích Tánh Tuệ



Con sóng nhỏ nghìn năm ôm buồn tủi
Sao đời mình bé bỏng chẳng bằng ai
Trong thầm lặng sóng đi về thui thủi
“Kiếp đời ta ... có lẽ ... đã an bài !”

Một sớm nao sóng mơn man tìm đến
Miền khơi xa trò chuyện với trùng dương
Sao lạ thế, thân anh không bờ bến
Phận tôi hoài trong nhỏ nhắn, thê lương

Con sóng lớn xoa đầu cười sóng nhỏ
Này, phải chăng vì nghĩ thế em buồn ?
Em nhìn lại thân chúng mình sẽ rõ
Ta và em, hai giọt nước chung nguồn

Trong bản thể mình nào đâu to-nhỏ
Không thấp-cao, không giàu-khó, chia phân
Em thấy khác vì nhìn trên “cái vỏ”
Rồi vui-buồn, rồi biên giới, cách ngăn

Em nhìn kỹ, trong em là ta đó
Và trong ta, có cả cuộc đời em
Mình vốn dĩ trong nhau từ muôn thuở
Cách xa vì xây đố kỵ hờn ghen

Con sóng nhỏ cúi đầu cười bẽn lẽn
Bao nỗi niềm sương khói tận trùng khơi
Rồi bất chợt vỡ tan hòa trong biển
Hai sóng từ hôm đó một tên thôi

Danh ngôn (50)

- Khổng Tử



Lập thân phải có đạo nghĩa, mà hiếu thảo là gốc.
Việc tang phải có lễ nghi, mà thương tiếc là gốc.
Chiến trận phải có hàng ngũ, mà dũng cảm là gốc.
Tiền tài sinh sôi phải có thời cơ, mà sức của mình là gốc.

Ông Phật bùn

- Sưu tầm

Thuở xưa có một tên trộm. Một hôm sau một mẻ trộm, chưa được gì hết đã bị phát giác. Anh ta chạy thục mạng loanh quanh tìm chỗ trốn, bước đường cùng đến một đập nước đành nhảy vội xuống bờ đập. Nhìn quanh quất không thấy có một lùm bụi nào để chui vào ẩn trốn, anh đành ngồi đại xuống đám cỏ đầy bùn. Xa xa đám người rượt theo tìm anh đang chạy tới. Bí quá, anh nhắm mắt lại không dám nhìn họ, cũng không dám nhúc nhích. Đám đông chạy tới nơi, ngạc nhiên thấy một người ngồi an nhiên giữa đám bùn. Họ bảo nhau: “Ông này là ai ?”

Một người thấy tư thế của ông giống như một thầy tu, nên nói với mấy người kia: “Có thể ông ta đang ở trong thiền định !”, thế là mọi người đồng chắp tay kính cẩn chào và hỏi: “Thưa thầy, chúng con xin phép làm rộn thầy. Từ nãy giờ thầy có thấy một người nào chạy ngang qua đây không ? Chúng con đang truy tìm một tên trộm.”

Anh trả lời: “Ờ … tôi không để ý, không nghe thấy gì hết.”

Thế là đám đông kéo nhau đi. Chừng một đoạn đường họ quay trở lại chỗ anh ngồi. Anh vẫn còn ở đó vì chưa biết đi đâu. Thấy anh im lặng, không nhúc nhích, họ rất kính nể, sụp xuống xá lạy và mời anh về trụ ngôi chùa làng đến bây giờ chưa có vị Tăng nào về. Trong lúc ngặt nghèo như thế, anh chỉ biết nhận lời để chờ thời.
Tuy ở trong chùa, nhưng máu ăn trộm nơi anh vẫn mạnh. Anh định bụng chờ cơ hội thuận tiện, trộm một mẻ kha khá rồi trốn biệt qua tỉnh khác thật xa.

Sáng sớm hôm đó, anh vào chánh điện, tóm gọn cho vào tay nải nào lư hương, đèn đuốc … những món đồ thờ phụng cổ kính đắt giá, sửa soạn ra đi. Thình lình một Phật tử đến than khóc vì một người thân mới qua đời đêm qua. Ông ta đến chùa nhờ anh cầu siêu. Anh để vội tay nải xuống, lấy khăn lông lau lau chùi chùi mấy món đồ, làm như đang lau dọn bàn thờ. Anh an ủi ông Phật tử vài câu, ghi tên kẻ quá vãng vào tờ giấy và hứa sẽ đến nhà tụng kinh. Thế là mưu toan ăn trộm một lần nữa lại bất thành. Anh thở dài, ngao ngán. Xếp vội các món đồ thờ trở lại lên bàn, anh lót lòng đỡ mấy miếng bánh còn lại từ chiều hôm qua, xong chuẩn bị đến nhà Phật tử. Cũng may anh tìm được nghi thức tụng kinh cầu siêu trong tủ kinh sách, nên yên lòng khoác áo ra đi.

Và như thế ngày này qua ngày nọ, anh ẩn nhẫn trong chùa đợi thời cơ. Nhưng chẳng gặp được cơ hội thuận tiện. Rồi người thì hỏi đạo, kẻ thì thỉnh đi tụng đám, anh không có thì giờ tính kế mưu nữa, chỉ biết tìm tòi trong tủ kinh những sách Phật pháp đọc và học để trả lời câu hỏi của Phật tử. Rồi anh tập ngồi thiền, niệm Phật cho khỏi suy nghĩ lo lắng đến tương lai. Lâu ngày cuộc sống của anh “đạo tặc” bất đắc dĩ phải nương náu cửa chùa này cũng êm xuôi, dần dần anh cảm thấy an ổn hơn. Và thấm thoát đã hơn năm.

Thói quen mới của anh bây giờ là theo thời khóa của nếp sống nhà chùa, từ miếng ăn miếng ngủ đến lao động và công phu sáng chiều. Anh vui với công việc hàng ngày, quét dọn vệ sinh nhà cửa, trồng trọt chút rau chút bắp. Anh vui với những người nông dân chất phác chân lấm tay bùn, chia sẻ với họ từng niềm vui nỗi buồn, thúng nếp họ gặt, đám khoai anh trồng. Nghĩ lại thời gian qua anh đã sống quá tệ hại, không biết đến công lao cần cù khó nhọc của họ, mà nỡ trộm cướp thành quả dành dụm chắt chiu của họ. Thật tội lỗi biết bao. Anh cảm thấy hối hận vô vàn. Và từ đó anh dành nhiều thì giờ bái sám.

Kể từ đây dấu vết thói quen của cuộc đời một tên trộm thực sự tan biến. Anh bây giờ là một con người mới, con người hiền thiện và là chỗ nương tựa tâm linh cho dân làng.

Vài lời mạn bàn:

“Đồ tể buông dao cũng thành Phật đạo” … huống gì một tên trộm vì hoàn cảnh đưa đẩy, bất đắc dĩ bỗng trở thành một vị sư và lâu ngày lộng giả thành chân, chuyển hóa thành một con người mới hoàn toàn. Nếu không có cơ duyên này, tên trộm có thể suốt đời là một tên trộm. Nhưng cơ duyên đến không phải do ngẫu nhiên, mà vì những sắp xếp nào đó trong nghiệp quả mà tên trộm mang theo trong đời, và nếu không có những chủng tử có sẵn, chắc chắn tên trộm đã trốn chùa ra đi từ lâu, không cần quan tâm gì đến những lời yêu cầu hay hoàn cảnh tội nghiệp của đám dân làng chất phác, thế nhưng anh ta đã nấn ná ở lại để dần dà trở thành một vị sư thực sự.

Cuộc đời con người có những diễn biến thật bất ngờ, họa và phúc đan nhau nối tiếp như một tấm thảm muôn màu thật thú vị. Tâm con người cũng thế, như một hang động bí ẩn đầy những ngõ ngách kỳ lạ với những cảnh trí muôn vẻ. Người theo cảnh hay cảnh theo người ? Đi sâu tìm hiểu tâm con người, có lẽ chúng ta sẽ hiểu được phần nào những cơ duyên đến trong cuộc đời chúng ta.


Áo hoa hãy rũ bụi vàng

- Thích nữ Huệ Trân

Đi thôi em
Giọt sương mai
Ánh dương ló rạng, hình hài sương tan
Đi thôi
Gió núi mây ngàn
Tụ duyên, mây sẽ ngập tràn mưa sa

Đi thôi
Vạt nắng hiên nhà
Hong chưa khô áo lụa đà, đêm sang
Ngỡ ngàng chi
Nụ Hoàng Lan
Nhụy chưa tỏa ngát, cánh toan rụng rời
Nụ cười thiếu nữ trên môi
Nét son nhạt với xuân đời qua nhanh

Ngắn ngủi lắm
Kiếp chúng sanh
Thả trôi ngày tháng loanh quanh muộn màng
Áo hoa, hãy rũ bụi vàng
Bè lau đã kết, non ngàn dặm trông

Đi thôi
Đạo lộ xuôi dòng
Ba La Bát Nhã
Chẳng trong, chẳng ngoài
Đi lên chót đỉnh tâm khai
Gặp trong hương gió một đài Liên hoa

Trên triền ngũ uẩn đâu xa
Là vô lượng kiếp, ngôi nhà Phật xưa



Nhu cầu cuộc sống

- Sưu tầm

Bạn có biết mình thực sự cần điều gì không ? Tôi không nói về vật chất. Ý tôi là bạn cần những gì để biến cuộc sống của mình theo đúng ý bạn muốn ?

Tác giả Stephen Covey nói rằng, con người chúng ta ai cũng có chung bốn nhu cầu cơ bản: sống, yêu thương, học hỏi và để lại di sản cho đời. Chúng ta cần sống, không chỉ hít thở mà là sống một cuộc đời trọn vẹn.

Tiến sĩ Philip Humbert đã đưa ra cho chúng ta một câu hỏi thật tuyệt vời: “Kỳ tích nào, điều phi thường nào và công trạng nào mà bạn muốn làm với báu vật tuyệt vời của tạo hoá này: Cuộc đời duy nhất của bạn ?”

- Chúng ta cần yêu thương.

- Chúng ta ai cũng cần được thương yêu.

Theo lời của nhà nhân chủng học Margaret Mead: “Một trong những nhu cầu cổ xưa nhất của loài người là khi không thấy bạn về nhà vào buổi tối sẽ có người lo lắng không biết lúc này bạn đang ở đâu ?”

Chúng ta cần học hỏi. Và không chỉ trong một vài năm trong thời gian còn trẻ. Cả cuộc đời chúng ta luôn cần phải học hỏi, khao khát sự hiểu biết,
không ngừng trưởng thành và không ngừng mở rộng chân trời kiến thức. Bởi lẽ khi không trưởng thành nữa, chúng ta sẽ chựng lại. Và như vậy, chúng ta sẽ chết.

Cuối cùng, chúng ta cần để lại cho đời di sản của mình. Đó là điều mong muốn cuộc sống của mình làm nên một điều có giá trị. Ralph Waldo Emerson đã khuyên rằng: “Hãy cười nhiều và thường xuyên, giành được sự kính trọng của người thông minh và lòng quý mến của trẻ em, được khen ngợi từ những nhà phê bình chân thật và chịu đựng được sự phản bội của những người bạn giả tạo. Biết trân trọng vẻ đẹp, tìm thấy ưu điểm trong mỗi con người, để lại cho thế giới chút gì đó tốt đẹp, dù đó là một đứa con khoẻ mạnh, một khoảnh vườn xanh ngát hay một điều kiện xã hội được cải thiện, sự tri ân thậm chí dù của chỉ một người vì bạn đã có mặt trên đời này. Như vậy cuộc đời của bạn có thể được xem là thành công rồi !”

Đó là bốn nhu cầu cơ bản mà bạn không bao giờ được thờ ơ. Hãy sống trọn vẹn, yêu thương hết lòng, học hỏi không ngừng và để lại cho đời một điều gì đó đáng giá. Đó là con đường dẫn tới thành công – và tất nhiên là cả một niềm vui trong cuộc đời.

Mượn và Sống

- Thích Nhật Từ

Mượn cỏ rác để làm tòa thất bảo
Mượn não phiền ấp ủ an vui
Mượn tình thương xóa tan thù hận
Mượn cõi đời để sáng đạo nơi nơi

Khi phải sống trong cảnh chợ đời biến động
Hãy giữ tâm an bình trước được mất hơn thua
Nếu phải sống trong bùn nhơ nước đọng
Hãy như hoa sen tỏa hương ngát mọi miền



Mớ cỏ Kusa

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương III, Thích Nhất Hạnh

Tối hôm đó trước khi đi ngủ, Svastika ngồi trước gốc tre ôn lại những gì đã xảy ra trong thời gian mấy tháng được gặp Bụt trong rừng để chiều mai kể lại cho thầy Ananda và chú Rahula nghe. Chú có cảm tưởng chú không có chuyện gì nhiều để kể. Hồi đó chú mười một tuổi.
Mẹ chú vừa mất, chú phải chăm sóc ba đứa em. Em gái út của chú là bé Bhima chỉ đựơc có mấy tháng, Bhima không có sữa uống. Hồi đó Svastika đã được ông Rambhul trong xóm giao cho công việc chăn trâu.

Hồi đó đàn trâu chỉ có bốn con và một con trâu nghé. Mỗi ngày Svastika đã lén vắt sữa trâu cho em uống. Nó chăm sóc bầy trâu rất cẩn thận vì biết rằng nếu nó không được giữ trâu cho ông Rambhul thì các em nó sẽ đói. Từ ngày ba nó mất, căn nhà chưa lợp lại lần nào. Mái tranh đã nát, hễ trời mưa lớn là nhà dột, và thằng Rupka phải đi lấy mấy cái chậu sành đã mẻ ngoài hiên vào để hứng nước dột. Bé Bala mới có sáu tuổi mà đã phải học nấu cơm, ẵm em và đi nhặt củi ngoài rừng. Có khi nó phải ẵm em ra rừng, để vừa giữ em vừa nhặt củi. Còn nhỏ tuổi nhưng bé Bala đã biết nhồi bột làm bánh Chappati cho cả nhà. Mấy anh em ít khi có đủ tiền để mua bột cà ri. Có khi lùa trâu về chuồng, đi ngang qua nhà bếp ông Rambhul nghe mùi cà ri bốc lên thơm lừng, Svastika chảy cả nước miếng. Từ ngày ba chúng nó mất, ít có khi nào chúng nó được ăn bánh chappati cuốn hoặc chấm trong nước cà ri nấu thịt đâu.

Áo quần của đứa nào cũng tơi tả. Svastika chỉ vận có một cái xà rông khi đi chăn trâu. Hôm nào trời lạnh lắm, nó mới quấn thêm tấm vải màu nâu lên người. Tấm vải đã bạc màu và mốc thếch nhưng nó quý lắm, Svastika phải tìm những nơi có đủ cỏ cho trâu ăn. Nó biết hễ trâu tới nhà mà bụng còn lép là nó sẽ bị ông Ramhul đánh mắng. Một buổi chiều lùa trâu về, Svastika phải gánh theo một gánh cỏ tươi để cho trâu ăn. Đàn trâu ăn cỏ suốt đêm. Vào những hôm có nhiều muỗi, Svastika còn phải đốt lửa un khói để đuổi muỗi cho trâu trước khi ra về. Ông Rambhul trả lương cho nó bằng gạo, bột mì và muối, cứ ba hôm một lần. Có hôm đi chăn trâu về, Svastika đem được về cho Bala vài ba con cá mà nó câu được ở bờ rông Neranjara.

Một buổi chều sau khi đã tắm xong cho trâu và đã cắt cỏ được đầy gánh, Svastika định vào rừng ngồi chơi một lát trước khi lùa trâu về chuồng. Để bầy trâu ăn ở cửa rừng. Svastika đi tìm một gốc cây để ngồi tựa lưng. Bỗng dưng nó thấy một người đang ngồi yên lặng dưới gốc một cây pippala thật lớn về phía trước, cách nó chừng hai chục sải tay. Svastika ngạc nhiên đứng lại nhìn. Nó chưa bao giờ thấy có ai ngồi đẹp như vậy. Người ấy ngồi lưng rất thẳng, chân xếp tréo vào nhau, dáng vững chãi và hùng mạnh. Mắt người ấy như là đang nhắm lại, và hai tay người ấy đan vào nhau đặt thoải mái phía giữa. Người ấy ăn mặc rất giản dị: một tấm vải màu vàng nhạt, một đầu quấn phía dưới và một đầu phủ lên vai. Toàn thân người ấy tỏa chiếu một cái gì vừa thanh thoát, vừa trầm hùng và vừa an bình. Chỉ cần nhìn người ấy, người ta cũng đã cảm thấy khỏe khoắn trong mình. Tự nhiên Svastika cảm thấy một thứ tình cảm nảy sinh trong nó và làm rung động trái tim nó. Nó không hiểu tại sao nó có cảm tình ngay với một người khi mà nó cũng chưa biết người đó là ai. Nó đứng trân trân nhìn ngắm người ấy một hồi lâu, không dám cử động.

Một lát sau người ấy mở mắt. Nhưng người ấy vẫn không trông thấy Svastika. Người ấy dao động thân thể, rồi tháo chân ra để xoa bóp. Rồi người ấy từ từ đứng dậy và bắt đầu đi từng bước chầm chầm. Vì đi về phía bên kia cho nên người ấy vẫn chưa thấy được em bé chăn trâu. Svastika vẫn đứng lặng yên nhìn người ấy đi những bước chân vững chãi, trầm lặng và nhẹ nhàng trên lối mòn của khu rừng. Đi được bảy tám bước người ấy quay trở lại, và người ấy nhận ra sự có mặt của Svastika. Thấy em bé, người ấy mỉm cười. Nụ cười thật hiền hậu và bao dung. Chưa bao giờ Svastika thấy ai cười với mình như thế. Như bị một sức hút lôi kéo, Svastika chạy về phía người ấy. Nhưng khi còn cách người ấy chừng bốn bước, Svastika ngừng lại. Nó nhớ là nó không được quyền đụng chạm vào những người thuộc giai cấp trên.

Svastika thuộc về giới ngoại cấp, nghĩa là không thuộc giai cấp nào trong bốn giai cấp của xã hội cả. Nó đã từng nghe ba nó nói rằng giai cấp Bà La Môn (brahmana) là giai cấp cao quý nhất trong xã hội. Những người trong giai cấp này phần lớn là những giáo sĩ thông hiểu kinh Vệ Đà, biết đọc kinh, biết cúng tế, có thể tiếp xúc với thần linh.

Khi Phạm Thiên tạo ra loài người thì Bà La Môn được sinh ra từ miệng Ngài. Những người thuộc giai cấp Sát Đế Lợi (Ksatriya) là những người có quyền bính chính trị và quân sự, họ đã được sinh ra từ hai tay của Phạm Thiên. Những người thuộc giai cấp Phệ Xà (Vaisya) là những người trong giới buôn bán, trồng tỉa, chăn nuôi và tiểu công nghệ, họ đã được sinh ra từ bắp đùi của Phạm Thiên. Còn những người thuộc giai cấp Thủ Đà (sudra) là những người đã sinh ra từ hai bàn chân của Phạm Thiên. Họ thuộc về giai cấp nghèo nhất, phải làm những nghề cực nhọc mà người trong ba giai cấp trên không làm. Giai cấp ấy là giai cấp thấp nhất rồi mà gia đình Svastika lại thuộc vào một tình trạng thấp kém hơn nữa. Gia đình Svastika ở vào hạng ngoại cấp, nghĩa là không thuộc vào giai cấp nào cả. Nhưng người như Svastika phải làm nhà ở một khu riêng biệt bên ngoài làng. Nghề nghiệp của họ chỉ là những nghề nghiệp thấp kém như đổ phân, đắp đường, nuôi heo, giữ trâu, cày ruộng. Ai sinh ra ở giai cấp nào thì phải chấp nhận hoàn cảnh của mình. Thần linh đã dạy như vậy và kinh điển cũng dạy như vậy.

Những người thuộc giới ngoại cấp như Svastika mà nếu lỡ lầm đụng phải một người thuộc giai cấp cao thì có thể bị trừng phạt nặng. Trong làng Uruvela đã có người bị đánh bầm tím thân thể vì đã lỡ tay đụng nhầm một người Bà La Môn. Lỡ tay đụng phải một người Bà La Môn hay một người Sát Đế Lợi, tức là làm ô nhiễm người ấy, và người ấy phải về ăn chay, nằm đất và sám hối nhiều tuần lễ mới được trong sạch trở lại.

Mỗi khi lùa trâu về chuồng, Svastika phải cẩn thận lắm. Nó không bao giờ dám tới gần một người nào trong cái xã hội cao quý, dù trên đường đi hay là trong sân nhà ông Rambhul. Nhiều lúc Svastika thấy con trâu còn có may mắn hơn mình. Một người Bà La Môn có thể đụng tới con trâu mà không bị ô uế, nhưng nếu người ấy đụng nhầm Svastika là ông ta phải về sám hối cả hai ba tuần lễ. Dù mình không đụng người ta mà người ta đụng nhầm mình thì mình cũng có thể bị đánh đập tàn nhẫn. Hiện đứng trước Svastika là một người thật dễ thương nhưng theo kiểu cách của người đó thì chắc chắn ông ta không phải là người cùng đẳng cấp với Svastika rồi. Nụ cười ông ấy hiền hậu như thế và cái nhìn của người ấy bao dung như thế thì chắc hẳn người ấy sẽ chẳng nỡ đánh đập Svastika đâu, dù Svastika có lỡ đụng nhầm. Nhưng Svastika nghĩ rằng nếu lỡ đụng nhầm người ấy thì sẽ làm người ấy ô nhiễm, tội nghiệp. Cho nên nó vội ngừng lại khi khoảng cách giữa hai người chỉ còn ba bước. Thấy Svastika không bước tới, người ấy lại bước gần Svastika. Svastika tự khắc lui một bước, để tránh sự đụng chạm. Nhưng người ấy nhanh nhẹn lắm. Chỉ trong một chớp mắt ông ta đã tóm được Svastika. Tay trái người ấy ôm ngang vai Svastika còn tay phải người ấy xoa lên đầu nó. Svastika đứng yên, ngoài má nó, chưa có ai xoa đầu nó một cách âu yếm như thế bao giờ. Tuy nhiên nó vẫn còn sợ.

- Em đừng sợ. Người ấy nói, giọng nhỏ nhẹ và thân mật.

Svastika rất yên tâm khi nghe người ấy nói. Nó ngửng đầu lên thì lại gặp cái nhìn bao dung và nụ cười hiền hậu của người ấy. Ngập ngừng một lát nó nói:

- Chú dễ thương lắm.

Người ấy lấy tay nâng cằm nó lên và nhìn vào mắt nó:

- Em cũng dễ thương lắm. Nhà em ở gần đây phải không ?

Svastika không trả lời. Nó nắm lấy bàn tay trái của người đó trong hai bàn tay của nó. Nó hỏi cái câu hỏi đang nằm trong đầu nó:

- Con nắm tay chú như thế này thì chú bị ô nhiễm rồi phải không ?

Người ấy cười và lắc đầu:

- Không đâu em. Em là con người, tôi cũng là con người. Em không làm ô nhiễm tôi đâu. Đừng có nghe lời người ta nói.

Người ấy cầm tay Svastika đi ra phía cửa rừng. Đàn trâu của Svastika còn đó. Gánh cỏ tươi của Svastika cũng còn đó. Người ấy nhìn Svastika hỏi:

- Em chăn những con trâu này phải không ? Và đây là gánh cỏ mà em đã cắt cho trâu ăn, phải không ? Em tên là gì ? Nhà ở gần đây không ?

Svastika lễ phép thưa:

- Dạ đây là trâu của con chăn. Bốn con này và con nghé này nữa. Đây là cỏ của con mới cắt. Con tên là Svastika. Nhà con bên kia sông, ở cuối làng Uruvela. Thưa chú, còn chú tên gì, và nhà chú ở đâu, chú nói cho con nghe được không ?

Người ấy ôn tồn đáp:

- Được chứ. Chú tên là Siddhatta. Nhà chú ở xa lắm. Hiện giờ chú ở tạm trong rừng này.

- Chú là sa-môn, phải không ?

Người ấy gật đầu. Svastika biết rằng sa-môn là những người tu, thường hay cư trú trong núi. Hai người mới quen nhau, mới trao đổi với nhau có vài câu chuyện mà Svastika đã có cảm tưởng là mình đã rất thân với người bạn mới này. Trong làng Uruvela, nó chưa thấy có ai đối xử với nó một cách thân ái như thế hay nói chuyện với nó một cách ôn tồn như thế. Nó cảm thấy một niềm hạnh phúc dâng lên trong lòng. Nó muốn bày tỏ nỗi hân hoan của nó. Nó nghĩ giá nó có một cái gì để làm quà tặng cho người này thì hay biết bao. Trong túi nó không có một đồng tiền, cũng không có một cục đường phèn, biết lấy gì làm quà tặng. Nhưng Svastika có can đảm nói ra những gì mình đang nghĩ.

- Thưa chú, con muốn tặng chú một món quà, nhưng con không có gì trong người con hết.

Siddhatta nhìn Svastika rồi mỉm cười nói:

- Có chứ, em có một thứ mà nếu em làm quà cho tôi thì tôi thích lắm.

Svastika ngơ ngác:

- Con có gì đâu ?

Siddhatta chỉ gánh cỏ:

- Cỏ của em cắt cho trâu ăn mềm và thơm lắm. Nếu em cho tôi vài nắm để tôi trải dưới gốc cây làm nệm ngồi thì tôi sẽ sung sướng biết bao.

Mắt Svastika sáng lên. Nó chạy tới gánh cỏ, cúi xuống ôm lấy một ôm đầy trong hai vòng tay nhỏ. Rồi nó trở về dâng ôm cỏ cho Siddhatta:

- Cỏ Kusa này con mới cắt bên bờ sông. Con xin biếu chú. Lát nữa con sẽ ra bờ sông cắt thêm cho đầy gánh.

Siddhatta chắp tay cung kính nhận bó cỏ từ tay em bé. Ông nói:

- Em rất dễ thương, tôi cảm ơn em. Thôi bây giờ em ra bờ sông cắt cỏ thêm cho đầy gánh đi, rồi về kẻo muộn. Chiều mai nếu có dịp em ghé vào rừng thăm tôi nhé.

Bé Svastika cúi đầu chào. Nó đứng đợi cho Siddhatta ôm bó cỏ đi khuất vào rừng rồi mới tới gỡ lưỡi liềm gài trên chiếc đòn xóc đặt nghiêng trên gánh cỏ và bước ra phía bờ sông. Nó thấy ấm áp trong lòng. Trời đầu mùa Hạ, cỏ Kusa còn non và lưỡi liềm của Svastika còn sắc nên cắt rất ngọt. Chẳng mấy chốc mà Svastika đã cắt được đầy một ôm lớn.

Svastika lùa trâu về. Sông Neranjara có một khúc rất cạn gần đó, Svastika cho trâu lội qua khúc ấy. Con nghé con còn lưu luyến đám cỏ non bên bờ sông, Svastika phải tới lùa nó chạy theo đàn trâu. Gánh cỏ trên vai không có gì là nặng, Svastika lội qua sông cùng một lượt với bầy trâu.

Đoản khúc -79-

- Trích “Cát bụi đường bay”, Hàn Long Ẩn

Lời Kinh hiện bóng trăng ngàn
Vườn tâm hé nụ đá vàng trổ bông
Người đi trong cõi Sắc - Không
Hành trang chỉ chút nắng hồng trên vai



Danh ngôn (49)

- Man Water



Ở đời, không có tiền của không dễ gì sống, không dễ gì thành công, nhưng ta nhất định đừng để tâm hồn quá bận rộn vì tiền của, đừng vì nó mà tự hạ để làm những việc đê hèn.

Như thế là tôi

- Thích Tánh Tuệ



Tôi xin sống đời của nắng
Nắng hong khô mọi não phiền
Để nghe tâm hồn phẳng lặng
Giữa đời giông bão triền miên

Tôi xin sống đời của mưa
Mưa qua bao vùng đất rộng
Một giọt cuối còn đong đưa
Cũng tan ... cho mềm cõi sống

Tôi xin làm cơn gió lộng
Xua tan nóng bức trưa hè
Hương cau thoảng kề giấc mộng
Tóc vờn bay mát chiều quê

Tôi mơ thành dòng sông nhỏ
Thả những nỗi niềm trôi đi
Vẳng nghe đôi bờ lá cỏ
Vui, buồn ... giữ lại làm chi

Và tôi nguyện làm mặt đất
Chấp nhận này rác, này hoa
Hận thù hay lời ngọt mật
Cũng thấy đâu gì khác xa

Tôi chỉ là áng mây qua
Giữa trần gian nằm mộng mị
Mây chẳng có nơi làm nhà
Để vấn vương hồn vạn kỷ

Phiêu du ... tôi vào cõi Ý
Rồi trở về trong phút giây
Cái BIẾT sáng ngời muôn thuở
Dù đời lúc tỉnh, khi say …

Một số hiểu lầm về nghiệp chướng

- Thích Nhật Từ



Không ít người hiểu chưa đúng về nghiệp chướng, nghĩ rằng nghiệp là một món nợ tiền kiếp mà mình phải trả, nghiệp là cái tội mà mình phải đền, xem nghiệp như định mệnh. Do đó nhiều người sống không hạnh phúc vẫn cam chịu những nỗi bất hạnh, chấp nhận những khó khăn (vì cho đó là do nghiệp quá khứ) mà không có ý muốn khắc phục, vượt lên.

Trong khi đó có những nỗi khổ niềm đau là nghiệp quả do con người tạo ra trong hiện tại hoặc quá khứ đời này, và con người có thể chuyển nghiệp để làm thay đổi bản thân và hoàn cảnh sống của mình. Ngay cả những nghiệp nhân đã tạo trong đời trước, khi chưa trổ quả, con người vẫn có thể tác động làm thay đổi được.

Nghiệp quả là những gì con người phải nhận lấy từ những nghiệp nhân mà mình đã tạo trong quá khứ gần và xa của đời trước hoặc đời này. Tuy nhiên có một điều quan trọng là khi nghiệp quả chưa hình thành, con người vẫn có thể chuyển nghiệp, tức làm cho nghiệp quả thay đổi (đến chậm hoặc giảm hiệu năng, mức độ tác động, ảnh hưởng) bằng cách tạo ra các nghiệp mới (nhân, duyên mới) có tính chất trái ngược.

Nghiệp nhân là tạo tác của những suy nghĩ, lời nói, hành vi của con người. Con người là chủ nhân của nghiệp, tạo ra nghiệp, cho nên nghiệp như thế nào là do con người quyết định, tự mình tạo cho mình mầm phước hay họa, hạnh phúc hay khổ đau.

Hoạt động của thân - khẩu - ý là tạo tác thường xuyên của con người. Chúng ta thường xuyên tạo nghiệp tốt hoặc xấu, lành hoặc dữ, thiện hoặc ác. Tạo nghiệp như thế nào sẽ đưa đến kết quả tương ứng mà mình phải nhận lãnh. Vì thế nghiệp không phải là tất cả những gì đã tạo trong quá khứ đời trước (nghiệp nhân đời trước), mà còn là những gì đã tạo trong quá khứ đời này và những gì đang tạo trong hiện tại (nghiệp nhân đời này). Có nhiều điều con người đang nhận lãnh trong hiện tại (vui, buồn, hạnh phúc, khổ đau) là kết quả của những nghiệp nhân vừa mới tạo.

Sự báo ứng trong luật nhân quả có hai hình thức:

- NHÂN QUẢ ĐỒNG THỜI - Nhân sinh ra Quả liền ngay hoặc chỉ sau một thời gian ngắn. Ví dụ đưa tay vào lửa liền bị nóng, ăn liền no, …

- NHÂN QUẢ KHÁC THỜI - Từ Nhân đi đến Quả mất một khoảng thời gian.

Có ba loại: hiện báo, sinh báo, hậu báo.

- Hiện báo: tạo nghiệp nhân trong đời này phải nhận lãnh nghiệp quả ngay trong đời này. Ví dụ cờ bạc, rượu chè (nghiệp nhân) dẫn đến gia cảnh nghèo khó, nợ nần, bị người khác khinh khi.

- Sinh báo: tạo nghiệp nhân trong đời này nhưng đến đời kế sau mới nhận lãnh nghiệp quả. Ví dụ đời này tu nhân tích đức nhưng đến đời sau tái sinh làm người có phước báo giàu sang.

- Hậu báo: tạo nghiệp nhân trong đời này, đến nhiều đời sau mới nhận lãnh nghiệp quả. Vì có sinh báo, hậu báo mà có hiện tượng dường như nghịch lý, có người đời này tu nhân tích đức, hành thiện mà lại chịu nhiều nghèo túng, bất hạnh và khổ đau, có người đời này lười biếng thậm chí ác gian mà vẫn bình an, giàu có và hạnh phúc.

Hiểu rõ về nghiệp hay nguồn gốc, nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau và an vui hạnh phúc của con người, hiểu rõ con người chính là chủ nhân của nghiệp chứ không ai khác, con người có quyền tự do tạo nghiệp và có khả năng chuyển nghiệp (thay đổi nghiệp), chúng ta sẽ thấy rằng chuyển nghiệp là điều kiện bắt buộc khi muốn cải thiện đời sống, muốn làm thay đổi cuộc đời mình để có hạnh phúc trong hiện tại, đồng thời xây đắp nền móng tốt cho tương lai.

Chuyển nghiệp là làm thay đổi nghiệp nhân và nghiệp quả bằng cách thay đổi tâm ý. Nghiệp là hoạt động của tâm ý thông qua ba nghiệp thân - khẩu - ý. Tâm ý trong sạch, chơn chánh, thiện lành thì suy nghĩ, lời nói, hành động đều tốt đẹp, lợi mình và lợi người. Tâm ý xấu, tiêu cực, bất thiện thì suy nghĩ, lời nói, hành động đều xấu ác, gây hại cho mình và người.

Khi tâm ý có sự thay đổi tích cực sẽ dẫn đến sự chuyển hóa ba nghiệp theo hướng tích cực. Đó chính là tạo các nghiệp nhân tốt trong hiện tại, những nghiệp nhân này có khả năng tác động, làm thay đổi, giảm thiểu năng lực hình thành nghiệp quả xấu của những nghiệp nhân bất thiện đã tạo trong quá khứ, và chúng cũng đưa đến những nghiệp quả tốt, tích cực trong tương lai.

Tương duyên uyển chuyển

- Thích Nhật Từ



Không bùn nhơ, hoa sen không hương sắc
Không não phiền, ai biết được tâm an
Không khổ đau, ai say niềm hạnh phúc
Không nghịch duyên, ai nổi bật hiên ngang

Trong trần thế, lý tương duyên uyển chuyển
Họa - Phúc khôn phân, Được - Mất nối nhau
Sống là sống để cho chân tâm hiển hiện
Để trăm hoa đua sắc, đẹp muôn màu

Duyên hợp

- Trích: “Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất” - Bạch Lạc Mai
- Chương I - Chỉ vừa gặp gỡ đã quen nhau



Có người nói, phong cảnh trên thế gian này phải đích thân trải nghiệm mới tìm được cảm xúc sâu sắc nhất. Còn tôi lại cho rằng, nơi đến trong mơ, cũng vẫn có thể chân thực tới khắc cốt ghi tâm.

Đời người như nước trôi, chớp mắt đã qua đi, mỗi ngày chúng ta đều bận rộn như con sâu cái kiến, dưới áp lực cuộc sống, đã chẳng có bao nhiêu thời gian hỏi han triết lý nhân sinh. Đợi đến khi bụi trần lắng đọng, lại phát giác tuổi xuân đã lặng lẽ rời xa chúng ta, cảm giác gặp nhau xiêu lòng trước kia đã không còn nữa. Chẳng ai sinh ra đã bằng lòng làm một kẻ cướp đoạt, lẽ nào không biết những nhân vật hô mưa gọi gió, thường vào lúc hoàng hôn trăng treo ngọn liễu, tự mình chặm máu trị thương ?

Tôi vốn là một người không có chí lớn, chỉ muốn sống cuộc đời thanh nhàn, vui chút thú nhàn tản, viết vài quyển sách phiếm. Cho dù như thế, trong lòng vẫn sẽ hoang vu, khi không có gì cả, đành nhờ vào phong cảnh bốn mùa, ngày hè hái sen hóng mát, cuối đông hong sách sưởi ấm. Vốn cho rằng đời này gần gũi một rẻo non nước Giang Nam, xây gian nhà nhỏ có hàng rào, trồng ít hoa cỏ, khung cửa sổ đơn sơ, phơi mấy chiếc áo hoa, thì sẽ cảm kích rơi lệ vì cuộc sống yên ổn êm đềm này. Nhưng lại không biết rằng, trong lòng mình cũng có khát vọng khó kìm chế. Lúc nhàn tịnh, sẽ bị một khúc nhạc cổ khuấy động tâm tình, sẽ vì một tấm ảnh cũ hồn bay phách lạc, sẽ bị một bài thơ tình sâu sắc dẫn dắt đến chân trời.

Biết bao duyên trước đã thành quá khứ, thật ra thứ không nắm bắt được là thời gian róc rách chảy xuôi. Trăm ngàn năm nay, đời người lần lữa, thời gian lưu chuyển, điều khiến ta ghi nhớ thật sự không nhiều. Bất kể lòng dạ con người rộng rãi đến đâu, có thể thu giữ bao nhiêu câu chuyện, đến cuối cùng đều phải trả lại cho năm tháng. Có người nói, phong cảnh trên thế gian này phải đích thân trải nghiệm mới tìm được cảm xúc sâu sắc nhất. Còn tôi lại cho rằng, nơi đến trong mơ, cũng vẫn có thể chân thực tới khắc cốt ghi tâm.

Đối với Tây Tạng, tôi cũng đầy hiếu kỳ và khát vọng. Chỉ biết rằng, tất cả phong cảnh của mảnh đất này như một cuốn Kinh, khó mà lĩnh ngộ. Kinh văn, thánh Kinh lại có ý vị sâu xa, nội dung tinh thâm, chứa đựng ý thiền không nói bằng lời. Tôi thường đi lễ chùa, cầm về mấy quyển sách Kinh, không đọc, chỉ đặt yên ở một góc, cùng chia sẻ một quãng thời gian cõi Phật với tôi. Tôi biết, sách Kinh là cảm ngộ nơi sâu linh hồn của nhiều bậc cao tăng đắc đạo, là hồn của vạn vật tự nhiên, là tâm của biển biếc nương dâu. Mỗi người trong lòng đều có một quyển sách Kinh, chỉ là trải nghiệm đời người khác nhau, sẽ có sự đọc hiểu khác nhau.

Nhớ đến bài văn: “Ngồi tàu lửa đi Lhasa”, một cô gái không ngăn được Kinh phướn phấp phới vẫy gọi, đặt chân lên con đường hướng về Tây Tạng. Lhasa là một thành phố đầy thần kỳ và biến số, chẳng bao lâu, thành phố lạnh lẽo hoang vắng ấy đã trở thành nơi người đời hồn mơ lòng nhớ. Thành phố này mang vẻ linh hoạt huyền ảo và tưởng tượng vô tận, những dòng thơ sao mà nhiều cám dỗ, khiến chúng ta chìm đắm.

Có thangka(1), có màn thêu
Có sư tri sự đang khêu bấc đèn
Lạt Ma lật giở sách Kinh
Tín đồ trước Phật rạp mình thành tâm

Còn tôi, cũng bị bức bách làm tín đồ của nó, phủ phục trên con đường thiên lộ thần kỳ, viết nên bài thơ khiến người sóng lòng dâng trào. Đó chính là “Sắc lam Thanh Tạng”, một màu xanh lam thuần khiết, xanh lam cao quý, xanh lam ưu sầu, xanh lam xa xưa. Tôi sợ mình vô ý xông vào, sẽ quấy nhiễu giấc mộng sau rèm vắng nơi đất thánh, lại không biết rằng, trên mảnh đất thần thánh này, bảng lảng khói lửa chất phác nhất của nhân gian. Người Tạng ở đây, sinh ra vì số mệnh, họ tin tưởng nhân quả luân hồi. Do đó trong mắt họ, mỗi một ngọn cỏ gốc cây, một hòn đá, thậm chí một hạt bụi hồng, đều có gửi gắm sâu sắc. Vì thế, bạn có thể tìm kiếm được những truyền thuyết cảm động ở mọi nơi trên chốn này.

Miền đất nơi bò cừu sinh trưởng, nơi tuyết đọng ngàn năm, nơi Kinh phướn cắm đầy này cũng là nơi vun trồng tình cảm. Khi lần đầu tiên đọc được câu thơ: “Thế gian nào có đôi đường vẹn - Chẳng phụ Như Lai, chẳng phụ nàng”, tôi liền quyết định viết một bài cảm tưởng về vị tình tăng tên là Tsangyang Gyatso ấy. Nào ngờ người chung tình với câu thơ đó quá nhiều, tôi chỉ là một hạt bụi cát dưới sóng cả, lời chúc phúc dâng lên Ngài thật sự quá nhỏ nhoi không đáng kể. Nếu sau khi con người chết đi đúng là có linh hồn, nhiều năm đã trôi qua, phải chăng Tsangyang Gyatso vẫn còn đang phiêu diêu trên mảnh đất này ?

Tsangyang Gyatso, tên của Ngài ở Tây Tạng nhiều đứa trẻ lên ba đều biết, Ngài từng là Phật sống, được muôn người triều bái dưới trời xanh. Nhưng người ta lại mong đợi Ngài hơn với tư cách là vị tình tăng, ở nơi giáp ranh của Phật và tình, viết những câu thơ cảm động trời đất. Thơ tình của Ngài lưu lại trên thế gian, tựa như ma thuật, đã mê hoặc muôn ngàn người đời. Chỉ cần nhắm mắt, liền có thể nhìn thấy một thiếu niên tuấn tú, khoác áo sư màu đỏ, nhìn chúng sinh với ánh mắt buồn rầu thương xót. Ngài là linh đồng chuyển thế, đến thế gian là để giúp người, tình yêu cá nhân định sẵn chỉ là khói mây, dù Ngài nặng tình đến đâu, đời người cũng chỉ có thể là một giấc mộng.

Mọi việc trên đời đều có nhân trước quả sau, hoa hồng đến nhân gian vì lá xanh, mùa xuân lộng lẫy vì tuyết trắng, biển biếc dời đổi vì nương dâu. Còn cung Potala sừng sững trên Hồng Sơn(2) ở Tây Bắc Lhasa, được khánh thành để nghênh đón công chúa Đại Đường. Tương truyền 1300 năm trước, vào đầu thế kỷ VII sau Công Nguyên, sau khi vua Tây Tạng Songtsan Gampo(3) dời đô đến Lhasa, vì cưới công chúa Văn Thành của nhà Đường, đặc biệt xây dựng trên Hồng Sơn ba ngôi nhà lầu chín tầng có tổng cộng một ngàn gian phòng, đặt tên là cung Potala. Một tòa cung điện to lớn đẹp đẽ, hùng vĩ mà hoa lệ, tinh xảo mà trang nhã. Để an ủi lòng nhớ quê của công chúa Văn Thành, Songtsan Gampo cho xây ao hồ, đình đài trong cung điện, trồng nhiều cây hoa tươi đẹp, mô phỏng kết cấu của hoàng cung ngự uyển Đại Đường, gieo hạt giống văn minh cho tòa thành cổ hoang vắng này.

Lịch sử sẽ không lưu lại tên nàng, mà trên mảnh đất ấy của cao nguyên Thanh Tạng cũng chẳng có miếu của công chúa Văn Thành.

Cung Potala, sau khi được xây dựng lại vào thế kỷ XVII đã trở thành nơi ở mùa đông của Đạt Lai Lạt Ma các đời, cũng là trung tâm thống trị của chính trị tôn giáo hợp nhất ở Tây Tạng. Cả tòa cung điện hội tụ phong cách Tạng, xây tựa vào núi, khí thế hùng vĩ chấn động tâm linh. Cung Potala dưới trời chiều mang vẻ lãnh đạm và nghiêm nghị không tranh với đời, có lẽ rời xa nhiễu loạn quá lâu, nó giờ đây rất mực yên tịnh, rất mực ung dung, lại rất mực vô tội. Đây là một tòa cung điện được trao cho truyền kỳ và linh tính, trong đó giữ kín quá nhiều vong linh tịch mịch. Nơi này có tẩm cung của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 - Điện Đức Đan Cát, nếu linh hồn Ngài không chết, phải chăng có thể lưu lại vết tích mờ nhạt cho những người vì tìm kiếm Ngài mà đến đây ?

Đằng kia những trác mã(4) già nua, tay cầm Chuyển Kinh luân(5), tụng niệm những câu Kinh mà chúng ta nghe không hiểu, nhưng chúng ta biết rõ, họ thành kính như vậy là để cầu phúc, tích công đức, thoát ly nỗi khổ luân hồi. Gió cát trên mảnh đất này đã điêu khắc nét tang thương của riêng người Tạng trên khuôn mặt họ, là sự ban ơn của năm tháng, cũng là dấu ấn của tuổi tác. Tôi biết, Giang Nam cầu nhỏ nước chảy thật sự đã đi xa, còn tôi và sa mạc hoang nguyên này, đã gần đến nỗi đụng chạm da thịt, gần đến nỗi có thể nghe được hơi thở của nhau.

---

(1) Thangka (còn được viết là Tangka hay Thanka): là loại tranh vẽ hoặc thêu, treo ở các tự viện và nơi thờ Phật tại gia đình, có thể cuộn lại được, hầu hết có dạng hình chữ nhật. Tranh thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt Ma danh tiếng, chư Bồ Tát, thánh thần, Pháp Luân, Mạn Đà La …

(2) Hồng Sơn (Marpori): được xem là núi thiêng của Bồ Tát Quán Thế m.

(3) Songtsan Gampo (Tùng Tán Cán Bố, ?-649), vị tán phổ (vua) thứ 33 của Thổ Phồn, người sáng lập đế quốc Tây Tạng, cũng là người chấn hưng Phật giáo Mật Tông tại Tây Tạng.

(4) Trác mã: xưng hô của người Tạng đối với nữ giới.

(5) Chuyển Kinh luân (Mani luân): một loại pháp khí của Phật giáo Tây Tạng, hình ống, có thể xoay được. Trên mặt khắc sáu chữ châm ngôn: “Om Mani Padme Hum”, bên trong đặt Kinh Phật. Xoay Kinh luân một vòng (thông thường phải xoay theo chiều kim đồng hồ) tương đương niệm Kinh văn chứa bên trong một lần.

Đạo và Đời

- Mai Văn Hoan



Tôi ngụp trong cõi thế
Sư ở chốn Huyền Không
Ta chỉ là hạt bụi
Giữa đất trời mênh mông

Sư ăn chay niệm Phật
Gạn đục và khơi trong
Tôi áo cơm tất bật
Suốt một đời long đong

Sư ngắm hoa, thưởng nguyệt
Chốn núi rừng thâm u
Tôi phố phường chật hẹp
Gió tung cát bụi mù

Thơ thiền sư thoát tục
Thơ tình tôi đa mang
Thỉnh thoảng trên sách báo
Sư cùng tôi chung trang

Bây giờ mới gặp mặt
Danh đã biết lâu rồi
Không không và sắc sắc
Bên nhau đạo với đời

Sư thì còn bận đạo
Tôi thì còn vướng đời
Hẹn một ngày thư thả
Ta phiêu bồng rong chơi

Danh ngôn (48)

- Người hiền xưa



Lửa từng ngọn không dập, cháy bùng lên làm sao ? Nước từng giọt không ngăn sẽ gom thành sông lớn.

Sự tích con muỗi

- Truyện cổ Việt Nam


Ngày xưa, có một người nông dân hiền lành tên là Ngọc Tâm, có một người vợ xinh đẹp tên là Nhan Diệp. Khác hẳn với tính tình đơn giản của chồng, quanh năm chăm chú làm ăn, người vợ lười biếng xa hoa, chỉ lo thỏa thê sung sướng.

Trong lúc hai vợ chồng tưởng chung sống với nhau đến răng long đầu bạc, thì Nhan Diệp bỗng lăn ra chết. Người chồng đau đớn quá, không muốn rời xa xác vợ, bèn bán hết tài sản, mua một chiếc thuyền chở quan tài vợ thả bồng bềnh trên mặt nước.

Một buổi sớm mai thuyền đi đến dưới chân một ngọn núi cỏ cây ngào ngạt, Ngọc Tâm lên bờ thấy đủ các kỳ hoa dị thảo, cây cối nặng trĩu trái thì lấy làm lạ bèn phăng lần lên cao. Lưng chừng núi, Ngọc Tâm gặp một ông lão tướng mạo phương phi, râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc đang lần bước tới. Thấy người có vẻ tiên phong đạo cốt, đoán chừng là thần tiên ở núi Thiên Thai xuất hiện, Ngọc Tâm bèn sụp lạy, rồi thiết tha xin cứu tử hoàn sinh cho người vợ thương yêu.

Vị thần thương hại nhìn Ngọc Tâm hồi lâu rồi nói:

- Ngươi còn nặng lòng vương vấn trần gian, chưa thoát được vòng tục lụy ... Ta có thể giúp cho ngươi đạt được ước vọng, song về sau ngươi đừng có lấy làm ân hận.

Ngọc Tâm theo lời vị thần, mở nắp quan tài vợ ra, chích đầu ngón tay mình, nhỏ ba giọt máu vào thi thể Nhan Diệp, thì người đàn bà từ từ mở mắt ra, rồi ngồi lên như sau một giấc ngủ dài. Trước khi từ giã, vị thần bảo người đàn bà vừa sống lại:

- Đừng quên bổn phận của người vợ ... Hãy luôn luôn nghĩ đến lòng thương yêu chung thủy của chồng ... Chúc cho hai vợ chồng được sung sướng.

Trên đường về quê, người chồng hối hả giục thuyền đi mau. Một tối thuyền ghé bến, Ngọc Tâm lên bờ mua sắm thức ăn. Trong lúc đó, có một chiếc thuyền buôn lớn đậu sát bên cạnh, chủ nhân là tay lái buôn giàu có, đã chú ý đến nhan sắc lộng lẫy của Nhan Diệp. Hắn gợi chuyện, mời Nhan Diệp qua thuyền mình dùng trà rồi ra lệnh cho bạn thuyền dong hết buồm chạy.

Ngọc Tâm quay về thấy mất vợ, bỏ cả ăn ngủ, ngày đêm đi tìm kiếm, một tháng sau mới gặp. Nhưng người đàn bà đã quen với lối sống xa hoa bên cạnh tay lái buôn giàu có, quên cả tình cũ nghĩa xưa. Thấy rõ bộ mặt thật của vợ, Ngọc Tâm như tỉnh cơn mê, bảo Nhan Diệp:

- Mình được tự do bỏ tôi, song tôi không muốn mình còn lưu giữ kỷ niệm gì của tôi nữa, vậy hãy trả lại ba giọt máu của tôi đã nhỏ ra để cứu mình sống lại.

Nhan Diệp thấy được ra đi dứt khoát dễ dàng như thế, vội vàng lấy dao chích đầu ngón tay, nhưng máu vừa bắt đầu nhỏ giọt thì nàng ngã lăn ra chết.

Người đàn bà nông nổi, phụ bạc, chết vẫn còn luyến tiếc cõi đời nên hóa kiếp thành một vật nhỏ, ngày đêm đuổi theo Ngọc Tâm, tìm cách ăn cắp ba giọt máu để trở lại làm người. Con vật này luôn luôn kêu than với chồng cũ, như van lơn, như oán hận, như tiếc thương, ngày đêm o o không ngừng. Về sau giống này sinh sôi nẩy nở rất nhiều, người ta đặt tên nó là con muỗi. Vì ghét kẻ phụ bạc, nên mỗi lần muỗi lại gần, người ta không tiếc tay đập cho nó chết.

Hạnh phúc là khi ...

- Thích Tánh Tuệ

Hạnh phúc là khi biết trở về
Từ hun hút mộng nẻo sơn khê
Từ trong tăm tối bao mờ mịt
Chợt ánh dương bừng soi bến mê

Hạnh phúc là khi biết được Người
Đôi bàn tay đã biết buông lơi
Những ngọn gió trần ... thôi vướng bận
Mặc nắng, mưa qua ... giữa cuộc đời

Xưa là hạnh phúc bên kia núi
Là … “cỏ bên đồi ngan ngát xanh”
Ngày nay chưa sống, mơ ngày tới
Thực tại vùi quên rất đoạn đành

Hạnh phúc giờ đây buổi sớm mai
Mỉm cười nhận diện lá hoa phai
Mùa thu đã đến trong thầm lặng
Bên những dòng xe nối miệt mài

Thanh thản là khi tóc đổi màu
Hiểu ngày sắp tới sẽ về đâu
Biết trăm năm hẹn cùng sương khói
Vạn sự trôi về nơi bể dâu

Hạnh phúc là khi giữa đổi thay
Ngồi yên - trọn vẹn phút giây này
Ngắm bình minh đến, hoàng hôn lại
Thả hết ưu phiền ... theo gió bay



Sức mạnh của một câu nói lớn đến mức độ nào ?

- Biên dịch: Mai Trà
- Theo NTD-TV



Nhà văn Đài Loan – Lâm Thanh Huyền hồi còn là học sinh cấp hai, học lực và hạnh kiểm của ông đều là xếp loại kém, còn nhớ ông có hai lần mắc lỗi nghiêm trọng và hai lần lỗi nhẹ, cho nên đã bị lưu ban, thậm chí còn bị đuổi ra khỏi ký túc xá của trường.

Rất nhiều thầy cô đã không còn hi vọng gì vào ông, nhưng thầy giáo dạy văn Vương Vũ Thương lại không hề ghét bỏ ông, thường hay đưa ông về nhà ăn cơm, khi thầy bận việc phải nghỉ, còn bảo Lâm Thanh Huyền mang bài lên lớp cho các bạn. Thầy giáo Vương nói với Lâm Thanh Huyền rằng: “Thầy đã dạy học 50 năm, liếc mắt đã nhận thấy con là một học sinh có tài năng.”

Những lời nói này đã khiến cho Lâm Thanh Huyền vô cùng cảm động và bị chấn động sâu sắc trong lòng. Để không phụ lòng nỗi khổ tâm của thầy giáo, ông từ đó về sau nỗ lực cố gắng, quyết tâm làm một người có ích cho xã hội. Quả nhiên, mấy năm sau, Lâm Thanh Huyền đã trở thành một phóng viên, trong một bài báo viết về tên tội phạm trộm cắp, ông cảm thấy tên trộm này có một tư duy rất tinh tế, thủ pháp gây án rất tinh vi tỉ mỉ, sau cùng không kìm được lòng mình ông đã viết ra rằng: “Một tên trộm với tư duy tinh tường, thủ pháp khéo léo và một tác phong đặc biệt như vậy, nếu hắn làm bất luận việc gì cũng sẽ đều có thành tựu.”

Ông không từng nghĩ, một câu nói vô tình chỉ thuận tiện mà nói ra như vậy, lại ảnh hưởng đến cuộc đời của một thanh niên. Hai mươi năm sau, tên trộm năm đó đã lột xác, hắn đã làm lại từ đầu, trở thành một vị chủ doanh nghiệp có chút tiếng tăm.

Trong một lần bất ngờ gặp Lâm Thanh Huyền, ông chủ doanh nghiệp này đã chân thành nói: “Bài viết đặc biệt của Lâm tiên sinh ngày đó đã thắp sáng lên điểm mù trong cuộc đời tôi, nó khiến tôi nghĩ rằng, ngoài việc làm tên trộm ra, tôi còn có thể làm được việc đúng đắn.”

○●○

Khi đối mặt với một người đang lầm lỗi, đang bị những lời nói cay độc vây quanh, một câu nói chứa đựng sự quan tâm, yêu thương, che chở và khích lệ sẽ tựa như một ngọn lửa bùng cháy, nó đem lại cho người ta sự ấm áp, và nhen nhóm lên trong sâu thẳm nội tâm người ta một ngọn lửa của sự tự tin và tự tôn. Nó khiến người ta được tái sinh mà cố gắng hăm hở, tích cực hướng lên.

Khi một người bị rơi vào cảnh tuyệt vọng, xung quanh mờ mịt không rõ phương hướng, một câu nói chỉ bảo, thăm hỏi an ủi và tán thưởng, giống như một ngọn đèn soi đường, giúp cho họ từ trong bóng tối mà nhìn được ánh sáng của con đường phía trước, vì thế mà phá tan được màn đêm sương mù dày đặc mà bước ra, thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn.

Sức mạnh của một câu nói lớn ngần nào ? Đối mặt với một người đang lầm lỗi, chỉ một câu nói yêu thương, quan tâm và khích lệ, có thể cải biến cuộc đời của một con người. Một câu nói có thể trở thành ánh mặt trời sưởi ấm cuộc đời người khác, có thể đem lại cho họ một cuộc đời ấm áp và rực sáng.

“THIỆN Ý MỘT CÂU ẤM BA ĐÔNG
LỜI ÁC LẠNH NGƯỜI SÁU THÁNG RÒNG”