V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Sự đời

- Minh Quang



NGÀY ĐÊM luôn mãi cận kề
Cũng như SƯỚNG KHỔ chẳng hề chia ly
Sự đời hai mặt rõ y
KHÓC CƯỜI, ĐƯỢC MẤT không chi tách rời
Chợt nhìn hoa cỏ vô ưu
Thuận tùy trời đất đâu lưu luyến gì
NHỌC NHẰN vốn bạn THẢNH THƠI
Ở nơi sóng gió dạo chơi an nhàn

Nhan sắc thù diệu

- Sưu tầm



Trong Tương Ưng Bộ Kinh chép:

Một buổi khuya, tại vườn Ông Cấp Cô Độc, khi đêm sắp tàn, với dung nhan thù thắng, một vị Thiên đến ra mắt Phật và thưa:

- Bạch Thế Tôn, các vị Tỳ Kheo ngày chỉ ăn một bữa, do vì đâu mà dung nhan các Ngài thù diệu như thế ?

Thế Tôn nói bài kệ đáp:

Không than việc đã qua
Không mong việc sắp đến
Sống ngay với hiện tại
Do vậy, sắc thù diệu

Do mong việc sắp đến
Do than việc đã qua
Kẻ ngu thân héo mòn
Như lau xanh rời cành

► Lời bình:

Thế gian sở dĩ mau già trước tuổi là có gì lạ đâu, bởi lo nghĩ quá nhiều phải không ? Những việc đã qua không chịu để cho qua đi, cứ ghi nhớ mãi rồi than thở nuối tiếc ... Những việc chưa đến lại cứ mong mỏi đợi chờ hồi hộp lo âu ... Người ta cứ sống mãi với những bóng dáng viển vông mà quên mất những gì hiện có.

Quả thật chúng ta lâu nay chỉ sống với cái đã chết, cái mộng mị, mà chưa từng biết sống thực, trách gì thân chưa bao nhiêu tuổi mà đầu đã bạc. Cho nên hình ảnh đáng thương nhất, Đức Phật đã diễn tả: “như lau xanh rời cành”, đáng lẽ lá vàng mới rụng khỏi cành, đó là đúng thời tiết. Còn đây tức là chín háp, già háp, như lá lau còn xanh tươi mà phải rụng đi, thật có đáng buồn chăng ?

Cho nên bậc Tỳ Kheo hiểu được đạo lý sống rất nhàn. Việc qua rồi không bận lòng nhớ đến, việc sắp tới cũng chẳng để tâm đợi chờ, hiện tại tùy duyên sống, thì tuy ở trong sóng gió cuộc đời mà vẫn thường an ổn, nhan sắc tươi trẻ, lâu già, tinh thần trong sáng. Chúng ta thấy, rất là Thiền khỏi phải tìm đâu xa:

“Ngày nay chỉ biết ngày nay
Còn xuân thu trước ai hay làm gì !”

Tóm lại, người hiểu đạo khác với người thế gian là ở chỗ, thế gian thì quên hiện tại mà sống với những chuyện đâu đâu, trái lại, người hiểu đạo sống ngay với cái hiện có, không nghĩ ngợi vu vơ. Hãy quán kỹ lại xem, thế gian này có gì đáng nhớ ? Có gì đáng mong ?

Trước khi bỏ cuộc

- Quà tặng cuộc sống



Anh Ba là nông dân chân chất. Anh Năm liền rủ bán nhà lên thành phố chơi cuộc đỏ đen để đổi vận. Trong giấc mơ, anh Ba thấy mọi người đến xứ sở của hạnh phúc, nhưng muốn đến đó mỗi người phải vác một cây gỗ rất to, Ba liền nghĩ ra cách đẽo khúc gỗ đi. Nhưng khi đi qua hẻm núi sâu, mọi người có thể bắc cây gỗ làm cầu, còn Ba thì không. Anh ngán ngẫm, một vị thần hiện lên và nói, xứ sở hạnh phúc không chờ đón kẻ lười biếng …

Huyễn duyên

- Hoa Hạ



Chìm trong một giấc chiêm bao
Bơi trong mộng mị chừng nào thoát ra
Huyễn duyên mới gọi Ta Bà
Trăm năm bào ảnh đâu là Chân Như

Ngồi trên một chiếc thuyền Từ
Bơi qua bể ái mệt nhừ thân tâm
Hoa sen vừa nở trong đầm
Mùi thơm còn thoảng hương trầm sáu phương

Danh ngôn (75)

- Đông Nhạc Thánh Đế



Người làm việc thiện giống như cỏ vườn mùa xuân, không thấy lớn lên nhưng ngày càng tăng nhiều. Kẻ làm điều ác như đá mài dao, không thấy hao mòn mà càng ngày càng khuyết hụt.

Biết chấp nhận thăng trầm của cuộc sống

- Nguồn: Thanh Niên tự do, Việt Anh



Một vị vua nọ cho gọi người thợ kim hoàn của hoàng cung đến và ra lệnh cho anh ta:

- Hãy làm cho ta một chiếc nhẫn và khắc lên đó một câu nói có thể khiến ta biết kiềm chế niềm vui khi hạnh phúc và phấn chấn khi buồn bã.

Người thợ kim hoàn chẳng gặp khó khăn gì trong việc tạo ra một chiếc nhẫn theo yêu cầu của nhà vua. Thế nhưng, việc tìm ra câu nói như gợi ý của nhà vua quả là nằm ngoài khả năng của anh. Cuối cùng, người thợ kim hoàn quyết định tìm đến một nhà thông thái và hỏi ý kiến của ông:

- Con nên khắc câu gì lên chiếc nhẫn này để có thể kìm hãm niềm vui của nhà vua khi Ngài phấn khích và vực dậy tinh thần khi Ngài rầu rĩ ?

Nhà thông thái lấy ra một mảnh giấy và viết lên đó: “VIỆC NÀY RỒI CŨNG SẼ QUA !”

Khi nhà vua nhìn thấy câu này, ông sẽ biết cách làm chủ cảm xúc của bản thân, cả khi chiến thắng lẫn khi thất bại.

Mọi việc rồi cũng qua … Hãy tìm sự bình yên cho tâm hồn của mỗi người. Hãy thử tung một đồng xu lên một trăm lần, bạn sẽ thấy rằng cơ hội đồng tiền sấp và ngửa là gần như bằng nhau. Cuộc sống của chúng ta cũng tương tự như vậy, thăng trầm là điều hiển nhiên và điều tốt nhất bạn có thể làm là hãy chấp nhận chúng.

Cô tôi

- Hoàng Anh Tuấn

Cô tin rằng có kiếp sau
Ở hiền sẽ gặp nhiệm mầu Phật, Tiên
Giàn bầu trĩu quả trước hiên
Mình cô gói nỗi niềm riêng muộn mằn

Buông bỏ chấp niệm

- Sưu tầm



Người nên đến thì sẽ đến, người nên đi bạn không có cách nào giữ được. Đừng ép người, đừng ép mình, đừng bận tâm đau lòng vì một chuyện, buông bỏ chấp niệm, vạn sự tùy duyên … Đây mới chính là cuộc sống.

Khổ hạnh lâm

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương XV, Thích Nhất Hạnh

Đạo sĩ tuổi đã bảy mươi lăm. Ông được mọi người tôn sùng như một vị thánh sống. Ông muốn mọi người phải tu học theo từng giai đoạn từ thấp lên cao, và vì vậy sa-môn Siddhatta phải làm lễ nhập môn và học lại từ những bài thực tập dễ dàng nhất.

Chỉ trong vòng vài tuần lễ, Siddhatta đã chứng minh được cho vị đạo sư mới của mình rằng định vô sở hữu xứ ông đã thành tựu được và ông mong rằng đạo sư sẽ dạy cho ông con đường có thể đi xa hơn nữa. Trông thấy diện mạo của Siddhatta, và nghe Siddhatta trình bày kiến giải của mình, đạo sĩ Uddaka rất đỗi vui mừng. Ông thấy nơi vị sa-môn trẻ này con người có thể kế sự nghiệp của ông một cách xuất sắc. Ông đổi cách tiếp đãi với Siddhatta và bắt đầu xem Siddhatta như một người tri kỷ. Ông ôn tồn chỉ dạy cho Siddhatta rất cặn kẽ:

- Này sa-môn Siddhatta Gotama, trong định vô sở hữu xứ, cái không không còn là không gian, cái không cũng không còn là tâm thức nói chung, mà chỉ còn là tri giác. Tri giác tức là tưởng, mà còn tưởng tức là còn đối tượng của tưởng, còn tri giác là còn đối tượng của tri giác. Vậy thì con đường thoát của chúng ta là vượt được tri giác.

Siddhatta cung kính hỏi lại:

- Thưa thầy, nếu loại bỏ tri giác thì cái gì còn lại ? Không có tri giác thì khác gì vật gỗ đá vô tri ?

- Gỗ đá vô tri cũng không phải là không tri giác. Gỗ đá vô tri vẫn là tri giác. Ta phải đạt tới một trạng thái tâm lý trong đó cả hai niệm về hữu tri và vô tri đều được loại trừ. Đó là trạng thái phi tưởng phi phi tưởng. Sa-môn Siddhatta Gotama, ông hãy về thực hiện cho được trạng thái đó của tâm.

Siddhatta lĩnh ý. Chỉ trong vòng mười lăm hôm, ông đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng. Định này, theo Siddhatta, cho ta có cảm tưởng là ta đạt tới một cảnh giới của nhận thức vượt ra ngoài mọi nhận thức thông thường, nhưng mỗi khi ra khỏi định, ông thấy cái nhận thức phi thường vẫn không thay đổi cái tình trạng của thực tại sinh tử. Định ấy chỉ là một nơi trú ẩn mà không phải là một chìa khóa mở cửa thực tại. Khi Siddhatta trở lại với đạo sư Uddaka Ramaputta thì được ông này hết sức khen ngợi. Sau khi biết Siddhatta đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng. Uddaka nắm tay Siddhatta:

- Sa-môn Gotama là người hành giả thông minh nhất mà tôi đã được gặp từ trước đến giờ. Ngài đã đi những bước thật lớn, và đi rất mau lẹ. Ngài đã đạt được cái quả vị cao nhất mà tôi đã đạt. Tôi đã già rồi, và đã gần đất xa trời. Nếu Ngài ở lại đây, chúng ta sẽ cùng nhau quản lý đại chúng này và mai kia khi tôi qua đời rồi Ngài sẽ thay tôi lãnh đạo đồ chúng.

Cũng như lần trước, Siddhatta ngỏ lời khéo léo để từ tạ. Ông biết định phi tưởng phi phi tưởng không phải là chìa khóa mở được cánh cửa giải thoát sanh tử. Ông phải từ giã, nhưng trước khi từ giã, ông hết lòng cảm tạ vị thầy mới và các vị bạn đạo mới. Ai cũng cỏ vẻ quyến luyến và tiếc rằng vị sa-môn đỉnh ngộ và tài năng này không ở lại với họ.

Trong thời gian tu học tại đạo tràng Uddaka Ramaputta, Siddhatta đã làm quen với một vị sa-môn trẻ tên Kondanna, Kondanna rất mến phục Siddhatta, không những xem Siddhatta là một người bạn mà còn xem Siddhatta là một bậc thầy. Trong đồ chúng, chưa ai đạt được tới định vô sở hữu xứ chứ đừng nói đạt tới phi tưởng phi phi tưởng xứ như Siddhatta. Vị sa-môn tân học Siddhatta đã được thầy của Kondanna đối xử như một người tri kỷ, Kondanna biết như thế. Mỗi lần nhìn Siddhatta, Kondanna lại thấy thêm vững niềm tin. Bởi vậy nên ông đã nhiều lần tìm cách thân cận Siddhatta để học hỏi. Do đó mối tình đồng đạo giữa hai người mỗi ngày mỗi trở nên khắng khít. Bây giờ Siddhatta ra đi, Kondanna không khỏi không buồn tiếc. Ngày Siddhatta lên đường, vị sa-môn này đã đưa ông xuống núi. Đợi cho Siddhatta đi khuất ông mới trở lên. Biết rằng có đi tham vấn bao nhiêu vị đạo sư đi nữa mình cũng không học hỏi thêm được điều gì đáng kể, sa-môn Siddhatta quyết định trở về tìm kiếm chìa khóa giác ngộ ngay trong tự tâm mình.

Hướng về phía Tây, Siddhatta vượt những cánh đồng lúa, những vũng bùn lầy lội, những đầm nước đọng và những dòng suối đục ngầu. Lội qua sông Neranjara, ông đi băng qua một cánh đồng nữa thì tới ngọn núi Dungsiri, thuộc địa phận tụ lạc Uruvela. Ở đây có nhiều hang động. Có những tảng đá cheo leo, có những rặng núi hình răng cưa, có những tảng đá thật lớn, lớn bằng những túp nhà của dân nghèo trong tụ lạc. Siddhatta quyết định lưu lại đây một thời gian để hạ thủ công phu, quyết tìm cho ra nẻo thoát. Ông tìm được một cái hang động khá tốt để ngồi tĩnh tọa. Ông nhớ rằng ông đã từng khuyên các nhà tu khổ hạnh đừng hành hạ xác thân họ, vì hành hạ xác thân như thế chỉ gây thêm khổ đau, trong khi cuộc đời đã có nhiều đau khổ rồi, nhưng hôm nay ông muốn xét lại điều ấy một cách kỹ lưỡng hơn. Ngồi trong hang đá, ông tự bảo:

- Với một miếng gỗ mềm và ướt thì ta không thể nào cọ xát làm cho lửa phát sinh được. Thân thể ta cũng vậy, nếu thân thể ta còn bị vật dục khống chế thì tâm ta khó có thể đạt tới giải thoát. Ta hãy tìm cách chế ngự thân thể ta xem sao.

Sa-môn Gotama bắt đầu thực hành những phương pháp chế ngự thân thể. Có những hôm, ông tìm tới những nơi thật thanh vắng trên rừng sâu, những nơi mà có người chỉ nghĩ đến thôi cũng để rợn óc trên người và tóc sau gáy dựng lên, để ngồi suốt đêm. Thỉnh thoảng cái sợ đến và xâm chiếm cả thân tâm ông, nhưng ông vẫn ngồi yên, không hề nhúc nhích. Có khi trong đêm tối đen, một con nai sột soạt tới gần. Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là một con quỷ dạ xoa hiện đến đoạt mạng, nhưng ông vẫn gan lì ngồi yên không nhúc nhích. Có khi trong đêm đen, một con chim phụng đạp gãy một cành cây khô. Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là một con trăn sắp trườn xuống và quấn chặt lấy ông, nhưng ông vẫn gan lì ngồi không nhúc nhích, mặc cho cái sợ chạy rần rần trên da đầu ông như một bầy kiến lửa.

Ông tập như vậy để có thể vượt thắng sự sợ hãi. Ông nghĩ rằng một khi xác thân vượt thoát được những cám dỗ rồi thì tâm ý cũng có thể vượt thoát được những ràng buộc của khổ đau. Có khi ông ngồi ngậm miệng cứng lại, để lưỡi sát vào họng trên, dùng tâm ông để điều phục niềm thao thức bồn chồn trong tâm ông, như hai người lực sĩ đè bẹp một người yếu đuối, và bắt người yếu đuối này phải thốt lời khuất phục.

Dùng tâm mà đàn áp tâm kiểu ấy trong một hồi thì mồ hôi chảy ra ướt hết cả mình mẩy ông. Tuy vậy, dù niệm lực có mạnh, dù ý chí đầy dẫy, dù những đau khổ gây ra trên thân xác có da diết tới cách nào đi nữa thì tâm ông vẫn không đạt tới sự an tịnh. Có khi ông vừa thực tập vừa nín thở, không thở ra cũng không thở vào. Khi thực tập như thế, ông nghe tiếng gió mạnh như vũ bão phát ra trong đầu ông, từ hai lỗ tai đi vào, âm thanh giống như âm thanh của một chiếc lò rèn đang được thụt lửa. Những luồng gió hung dữ xoáy mạnh trong đầu óc ông và đầu ông đau như có ai lấy lưỡi rìu bửa ra làm hai mảnh. Có khi đầu ông đau như bị ai lấy một cái niềng sắt niềng lại. Bụng ông đau như một con bò bị người đồ tể lách lưỡi dao nhọn quanh sườn. Thân thể ông đau như bị người ta túm lấy và đem nướng trên một lò than đang cháy rực.

Những lúc thực tập để chế ngự thân thể như thế, dù ý chí và năng lượng đầy dẫy, dù niệm lực hùng hậu, dù xác thân ông có đau đớn cực độ, tâm ông cũng không nhờ vậy mà được an ổn hơn lên. Sa-môn Gotama thực tập khổ hạnh như vậy trong gần sáu tháng. Trong ba tháng đầu chỉ có một mình ông thực tập khổ hạnh trên núi. Đến tháng thứ tư, có năm vị sa-môn đệ tử của đạo sư Kondanna là người lãnh đạo nhóm này. Gặp lại Kondanna, Siddhatta rất vui. Kondanna cho biết là một tháng sau khi Siddhatta từ giã, chính Kondanna cũng đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng xứ và nghĩ rằng mình sẽ không học được gì thêm từ đạo sĩ Uddaka. Nghĩ vậy, ông đã rủ bốn người bạn thân đi tìm Siddhatta. Sau hơn một tháng trời tìm kiếm họ đã may mắn tìm ra Siddhatta. Họ ngõ ý muốn ở lại tu học với ông dưới sự hướng dẫn của ông bởi vì họ tin tưởng nơi ông. Siddhatta đành phải chấp nhận. Ông giải thích cho họ biết tại sao ông đang thí nghiệm con đường điều phục thân xác. Nghe xong, cả năm người cũng quyết thực tập theo.

Bốn vị sa môn đi theo Kondanna cũng đều là những vị sa-môn còn trẻ. Họ tên là Vappa, Bhaddiya, Assaji và Mahanama. Mỗi người tìm một cái hang đá để ở, hang của họ không xa nhau mấy. Mỗi ngày chỉ một người đi khất thực thôi, và phần ăn của một người được chia ra làm sáu. Thức ăn hàng ngày của mỗi người rất ít, và có thể để gọn trong bàn tay trái khẳng khiu của một người.

Ngày tháng qua đi. Thân thể cả sáu người đều hao gầy đi rất nhiều. Có những lúc Siddhatta thực tập khống chế hình hài đến nước năm người bạn tu phải khiếp đảm. Họ thấy trong bất cứ pháp môn tu tập nào họ cũng không theo kịp Siddhatta. Những tháng gần đây, Siddhatta bỏ luôn cả việc đi tắm dưới sông Neranjara. Ông bỏ luôn một phần thực phẩm được chia cho ông. Có ngày, ông chỉ ăn một trái ổi thối mà ông lượm được dưới chân ông. Có khi ông chỉ ăn miếng phân bò khô trên bờ ruộng. Thân hình ông tiều tụy quá, chỉ còn da bọc lấy xương. Bao nhiêu xương sườn của ông đều lộ rõ ra. Ông không hề cạo, có khi ông đưa tay lên sờ đầu và thấy tóc ông rụng xuống từng mảng như là những sợi tóc ấy không còn chỗ để đứng trong da đầu ông. Cho đến một hôm đó ngồi thiền định trong bãi tha ma dưới chân núi, Siddhatta bừng tỉnh, thấy được rằng con đường khổ hạnh là con đường sai lầm.

Nắng đã tắt và gió chiều nhè nhẹ tới mơn trớn trên làn da ông. Đã ngồi trọn một ngày trong nắng, bây giờ Siddhatta thấy làn gió mát dịu lạ thường, và ông thấy tâm hồn ông sảng khoái hơn ban ngày nhiều lắm. Ông nhận ra rằng thân và tâm là một thực thể không thể tách rời ra được, và sự an lạc của thân có liên hệ tới sự an lạc của tâm, hành hạ xác thân cũng là hành hạ tâm trí. Ông nhớ đến thời niên thiếu, hồi ông mới lên chín tuổi, lần đầu tiên ông ngồi yên lặng dưới bóng mát cây hồng táo trong ngày lễ cày ruộng đầu năm. Cảm giác hồi ấy là một cảm giác an lạc, làm cho ông tỉnh táo và sáng suốt lạ thường. Ông cũng nhớ lại lúc ông ngồi tập thiền lần đầu tiên trong rừng ngay khi Channa người hầu cận ông vừa từ giã ông, và những ngày đầu khi tập thiền với đạo sư Alara Kalama, những buổi thiền tập ấy nuôi dưỡng thân tâm ông, tạo cho ông rạt rào nghị lực. Ông nhớ sau đó nghe lời đạo sĩ Alara Kalama ông phải bỏ pháp lạc trong thiền để đạt tới những trạng thái thiền định trong cõi vô sắc như: không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, và phi tưởng phi phi tưởng xứ, luôn luôn tìm cách tách rời khỏi thế giới của thọ và tưởng, nghĩa là của cảm giác và tri giác. Ông tự bảo:

- Tại sao ta phải mãi mãi nương theo truyền thống của kinh điển ? Tại sao ta lại sợ hãi những an lạc do thiền định đưa tới ? Những an lạc ấy không dính líu gì hết với năm loại dục lạc thường có tác dụng che lấp tâm trí. Trái lại, những an lạc ấy có thể nuôi dưỡng hình hài và tâm hồn ta để ta có thể có đủ sức mạnh mà đi xa trên đường giác ngộ.

Sa môn Gotama quyết định sẽ bồi dưỡng lại sức khỏe và sẽ sử dụng thiền duyệt làm thức ăn cho thân tâm. Ông định ngày mai sẽ đi khất thực trở lại, và ông sẽ tự mình làm thầy cho mình, không muốn nương tựa vào một ai khác. Nghĩ như thế, ông ngã lưng dựa trên một mô đất, an tâm tìm giấc ngủ. Lúc ấy trăng mười bốn vừa lên. Trời trong không một gợn mây,và dòng ngân hà hiện ra rất rõ.

Ông thức dậy sáng hôm sau, khi chim chóc đã bắt đầu ca hát. Sa môn Gotama đứng dậy, và nhớ lại những suy tưởng chiều qua. Ông nhìn lại thân ông. Thân thể dính dầy bụi đất, vì đã lâu ông không hề tắm gội. Chiếc áo cà sa của ông đã rách nát không đủ che thân. Ông chợt nhớ ngày hôm qua khi tới nghĩa địa để ngồi thiền, ông có thấy thi thể một người chết được quàn tại đó và trên thi thể ấy người ta đã phủ lên một tấm vải lớn màu gạch non. Ông đưa mắt nhìn. Cái xác vẫn còn đó và tấm vải màu gạch vẫn còn đó. Có thể là hôm nay hoặc ngày mai người ta sẽ đưa xác này ra bờ sông để làm lễ hỏa táng và tấm vải sẽ không cần thiết. Sa môn Gotama quyết định tới xin tấm vải kia để dùng làm chiếc cà sa mới. Ông bước tới. Ông đứng yên mật niệm, quán tưởng về sanh tử, rồi ông đưa tay nhẹ rút tấm vải lên. Thi hài của một cô gái chừng hai mươi tuổi lộ ra, tím bầm.

Cầm tấm vải, Siddhatta đi về hướng bờ sông. Ông có ý định xuống sông tắm gội cho sạch sẽ và đồng thời giặt sạch tấm vải để quàng lên người thay thế cho chiếc ca sa đã rách bươm. Nước sông rất mát và Siddhatta thấy rất dễ chịu. Ông chấp nhận cảm giác dễ chịu của ông, ông đón chào cảm giác này với một tâm trạng mới. Ông tắm khá lâu. Rồi ông đem tấm vải ra giặt và vắt cho thật khô. Khi ông lội vào bờ thì sức ông đã kiệt. Bờ sông hơi cao và ông không đủ sức tự mình leo lên. Ông phải đứng yên lặng hồi lâu để thở. Nhìn sang bên trái ông thấy có một cây sà xuống, có những đọt lá xòe ra gần đụng mặt nước. Ông lội từng bước về phía ấy, rồi níu lấy cành cây leo lên bờ.

Leo được lên bờ sông ông ngồi xuống nghỉ. Nắng đã lên. Ông trải tấm vải ra để phơi. Nắng bắt đầu gay gắt. Thấy tấm vải đã khô, sa-môn Siddhatta choàng nó vào người. Ông đã có cà-sa mới. Theo con đường đưa vào xóm Uruvela, ông đi tới. Nhưng đi chưa được nửa đường thì sa-môn Gotama kiệt sức. Ông thở hào hển, và cuối cùng ông ngã xuống, bất tỉnh. Ông nằm bất tỉnh như vậy một hồi lâu thì có một cô bé trong xóm đi tới. Cô bé chừng mười ba tuổi. Sujata được mẹ giao phó đem sữa bánh và đề hồ vào khu rừng bên sông để cúng cho thần linh, và Sujata thấy vị sa-môn nằm bất tỉnh trên con đường bờ sông, bụng còn thoi thóp thở. Nhìn Siddhatta, cô bé biết nhà tu khổ hạnh này đã kiệt sức. Cô quỳ xuống đổ sữa vào miệng ông. Khi những giọt sữa ngon ngọt thấm được vào lưỡi và cổ họng. Siddhatta đáp ứng ngay. Ông chấp nhận cảm giác dễ chịu do sữa tạo nên và chầm chậm uống hết bát sữa. Chỉ trong vòng mấy mươi hơi thở sau đó ông tỉnh táo hẳn và ngồi dậy được. Và ông ra hiệu cho Sujata rót thêm cho ông một bát sữa thứ hai. Những bát sữa phục hồi được sức lực của ông rất mau chóng, Siddhatta quyết định bỏ hang động nơi ông tu khổ hạnh và dời về khu rừng êm mát bên bờ sông để hành đạo. Ông ăn uống trở lại bình thường. Có khi Sujata đem thức ăn vào rừng để cúng dường. Có khi ông cầm bát đi vào làng để khất thực. Mỗi buổi chiều ông đều có xuống tắm ở sông Neranjara. Mỗi ngày ông đều có đi thiền hành bên bờ sông. Thì giờ còn lại ông dành cho việc thiền tọa.

Tự mình tìm kiếm con đường, buông bỏ mọi uy quyền của truyền thống và kinh điển. Siddhatta trở về sử dụng tất cả những kinh nghiệm thành bại của chính ông. Ông không e ngại gì nữa về sự sử dụng thiền duyệt để nuôi dưỡng thân tâm. Mức độ an lạc của ông tăng triển hàng ngày. Không tìm cách xa lìa và trốn tránh cảm giác và tri giác, và dùng định lực quán chiếu vào cảm giác cùng với những đối tượng của chúng. Một hơi thở, một tiếng chim kêu, một tờ lá, một tia nắng mặt trời ... tất cả đều có thể trở thành đối tượng của công trình quán chiếu. Rời bỏ ý định thoát ly thế giới hiện tượng, ông trở về để có mặt sâu sắc trong thế giới hiện tượng. Ông bắt đầu thấy rằng chìa khóa của sự giải thoát nằm ngay trong từng hơi thở, từng bước chân hoặc từng hạt sỏi bên đường. Ông thấy rằng thế giới hiện tượng và thế giới bản thể là một.

Sa-môn Gotama đi từ sự quán chiếu cơ thể qua sự quán chiếu cảm giác, rồi đi từ sự quán chiếu cảm giác sang sự quán chiếu tri giác cùng những hiện tượng sinh diệt khác của tâm ý. Cuối cùng ông tìm thấy tính cách bất nhị của thân tâm. Thân thể không còn là một thực tại riêng biệt nữa. Mỗi sợi tóc cũng là tâm, mỗi tế bào trong cơ thể đều chứa đựng đủ trí tuệ của vũ trụ và hành giả chỉ cần nhìn sâu vào một hạt bụi, chân tướng của vũ trụ cũng phải hiện nguyên hình trước ánh sáng quán chiếu của hành giả. Chân tướng của hạt bụi chính là vũ trụ và ngoài hạt bụi, vũ trụ không thể nào có mặt.

Sa-môn Gotama vượt thoát ý niệm về ngã, về atman, và ông giật mình thấy rằng đã từ bao nhiêu lâu nay ông đã từng bị ý niệm về atman của tư tưởng Vệ Đà khống chế. Thực tướng của vạn hữu là vô ngã, là anatman. Một từ ngữ không phải để chỉ định một vật thể, mà là một lưỡi búa tầm sét đập tan xích xiềng của sự cố chấp. Nắm lấy nguyên tắc vô ngã, Siddhatta như vị tướng lãnh có lưỡi gươm thần trong tay, đi vào trận địa của thiền quán như đi vào chỗ không người. Dưới gốc cây cổ thụ, ngày cũng như đêm, ông đạt tới những cái thấy lóe sáng như sấm sét trên hư không.

Trong khi ấy, năm người bạn đồng tu đã bỏ ông đi mất. Họ từng thấy ông thọ lãnh thức cúng dường bên bờ sông. Họ đã thấy ông cười nói với một cô bé, ăn cơm và mang bát vào làng khất thực. Kondanna đã nói với các bạn: “Siddhatta không còn là kẻ mà ta có thể trông cậy, Siddhatta đã nửa chừng bỏ dở công phu tu hành, Siddhatta bây giờ chỉ lo bồi dưỡng xác thân và sống những ngày nhàn hạ. Chúng ta hãy bỏ Siddhatta và tìm tới nơi khác tu hành. Ta cũng không cần tiếp tục tu theo phương pháp mà Siddhatta đã đề nghị mấy tháng về trước.”

Chỉ khi năm người bỏ đi rồi, sa-môn Gotama mới thấy sự vắng mặt của họ. Được khích lệ bởi cái nhìn mới, Siddhatta đã để hết thời gian vào việc hạ thủ công phu mà chưa có dịp nào đi giải thích với các bạn đồng tu. Ông tự nhủ: “các bạn hiểu lầm ta, nhưng ta không cần lo tới việc minh oan, ta hãy dốc lòng tìm cho ra đạo, rồi sau đó ta sẽ đi tìm họ và giúp họ.” - nghĩ như thế, ông trở về với công phu thiền quán hàng ngày của mình.

Chính trong những ngày mà ông đạt tới những tiến bộ lớn trên con đường tầm đạo thì chú bé chăn trâu Svatika tìm tới. Ông đã vui vẻ nhận những nắm cỏ tươi của chú bé mười một tuổi dâng cúng. Tuy Sujata, Svatika và bạn bè của các em là những đứa bé, Siddhatta đã cũng có thể chia sẻ được một phần nhỏ cái thấy của ông với chúng, và ông mừng rỡ thấy bọn trẻ thiếu học ở thôn quê có thể hiểu được và thấy được ánh sáng của những điều ông mới tìm ra. Ông linh cảm rằng chỉ trong một thời gian ngắn nữa là cánh cửa giác ngộ hoàn toàn sẽ mở rộng, bởi vì ông đã nắm trong tay chiếc chìa khóa mầu nhiệm của cánh cửa ấy: TỰ TÍNH DUYÊN SINH và VÔ NGÃ CỦA VẠN HỮU.

Trăng tròn Tháng Tư

- Chúc Linh



Từ vườn Lâm Tỳ Ni, Đấng Thế Tôn đản sanh
Hoa Vô Ưu tươi nở ngát hương thơm mười phương
Thành Ca Tỳ La Vệ, gió reo vui trời bừng sáng
Người người hân hoan loan tin vui
Tất Đạt Đa thái tử ra đời

Ánh sáng Như Lai
Diệt tham sân si
(Xóa tan mê lầm)
Sáng soi đạo vàng
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin lạy Người

Đạo vàng hương từ bi đem đến cho mọi người
Xóa tan đi ưu phiền sống vui trong Lục Hòa
Lòng con nguyện tinh tấn quyết đi theo đường chân lý
Dù gặp bao nguy nan oan khiên
Vững lòng tin dưới bóng cha lành

Tiếng chuông ngân vang
Thành tâm chúng con cúi xin lạy Ngài
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin quỳ kính

Tâm ca Phật Đản

- Tâm Chơn



Em ơi, ngày đại hỷ
Tưng bừng khắp quê ta
Vang vọng khúc tâm ca
Cung đón mùa Vesak

Triệu tấm lòng con Phật
Cùng bốn bể năm châu
Đồng quy hướng đạo mầu
Hân hoan mừng khánh Đản

Bóng trăng từ tỏa rạng
Ánh đuốc tuệ chiếu soi
Trần thế bỗng sáng ngời
Niềm tin yêu bất diệt

Trời Ca-tỳ xanh biếc
Nắng Tỳ-ni lung linh
Nơi tâm thức yên bình
Đóa Vô Ưu bừng nở

Xin con tim rộng mở
Tha thứ và yêu thương
Xin xóa bỏ biên cương
Hộ dân an quốc thái

Xin tình người thắm mãi
Để thấy Phật trong ta
Xin hãy sống chan hòa
Để tâm ta là Phật

Mấy ngàn năm son sắt
Trong dòng chảy Đạo-Đời
Việt Nam đất nước tôi
Đượm nhuần trang sử Phật

Vô thường

- Dzạ Lữ Kiều

Ta đi nhặt
nụ vô thường

Từ trong tâm thức
bên đường đánh rơi

Đời là cơn sóng
biển khơi

Lớn - Ròng
tan - hợp
theo hồi triều dâng

Nỗi niềm
lặng những bước chân

Ngày dài, tháng rộng
bao lần đục - trong

Cõi nhân gian
sóng trong lòng

Nhiều khi núi lở
đá mòn …
biết đâu !

Hãy tĩnh giác
trí tuệ sâu

Để đừng dính mắc
nếp đau … vô thường !



Không duyên không gặp, không nợ không đến

- Theo SKCĐ



Xét về nghiệp quả nhân duyên, bên nhà Phật cho rằng vợ chồng là duyên, không có duyên sẽ không gặp, không có nợ sẽ không đến.

Vì sao có một số phụ nữ thường phàn nàn về người chồng của mình ? - Người phụ nữ từ thời khắc được gả làm vợ của một người đàn ông thì sẽ đem toàn tâm thân giao phó cho người đàn ông này. Sau khi kết hôn, họ một mực yêu thương gia đình và chăm sóc chồng con. Nhưng có những người cả đời không nhận được một câu động viên khích lệ của người chồng. Thậm chí có người còn bị chồng không quan tâm, coi trọng. Thế là họ sinh ra bực bội, than vãn và phàn nàn về người chồng của mình. Nhưng xét về nhân quả thì đây là do kiếp trước người vợ đã thiếu nợ người chồng ở kiếp này của mình. Người vợ đã bao giờ từng nghĩ: “Tại sao mình không lấy người này, người kia mà lại lấy chồng mình bây giờ ?” - Đó là bởi vì người vợ thiếu nợ người chồng nên kiếp này được gả cho người chồng hiện tại để trả nợ. Nếu như không thiếu nợ thì sẽ không đến, không có duyên thì sẽ không tụ.

Có người phụ nữ lại nói: “Tôi không nợ chồng tôi thứ gì cả, bởi vì chồng tôi đối xử rất tốt với tôi !” - Nhưng điều này cũng là bởi vì người chồng ở kiếp trước đã nợ người vợ của mình. Không có nợ thì sẽ không tạo thành một gia đình. Có những người đàn ông chỉ mong muốn lấy được người vợ đó mà chấp nhận làm hết công việc từ chăm sóc gia đình đến nuôi dưỡng con cái … Đây chẳng phải là vì thiếu nợ sao ? Chỉ là trong xã hội đa phần chúng ta chứng kiến thì đều phụ nữ thiếu nợ đàn ông mà thôi.

Có người phụ nữ lại than rằng: “Tại sao tôi lại lấy được một người chồng vô dụng như vậy ? Làm gì cũng không thành ?” - Người phụ nữ kiểu này đi đâu cũng chỉ trích người chồng của mình là vô dụng, không làm được việc gì thành cả, việc kiếm sống toàn là do bản thân mình đảm nhiệm. Nhưng kỳ thực, đó là bởi vì ở kiếp trước, người đàn ông này đã vì người vợ mà dốc hết sức mình. Cho nên, ở kiếp này người vợ phải đền bù tổn thất đó cho người chồng. Đây không phải là người vợ gặp xui xẻo mà là bởi vì kiếp trước mình đã gieo nhân này thì kiếp này sẽ nhận được quả đó.

Cũng có cặp vợ chồng rất hòa thuận, vợ chồng đối xử với nhau rất tốt, sẵn lòng vì nhau, nhưng mà người vợ lại không hòa hợp với mẹ chồng. Kỳ thực đây là vì người vợ đã thiếu nợ mẹ chồng của mình ở kiếp trước. Nếu như giữa mẹ chồng và con dâu bất hòa cũng đều là do oan thân, chủ nợ ở kiếp trước gặp lại trong kiếp này.

Bên nhà Phật giảng rằng, chấp nhận là có thể chấm dứt được nghiệp này. Cho nên, người vợ và người chồng đều nên về nhà giữ tâm bình tĩnh, chấp nhận người bạn đời của mình. Người phụ nữ được gả cho người đàn ông nào thì đều là mệnh của mình. Người mà hôm nay mình gặp đều là đã có trong mệnh rồi, đều là nhân gieo trồng từ kiếp trước nên ngày hôm nay mới nhận được quả như vậy. Đàn ông cũng vậy, không nợ sẽ không đến. Cho nên, trong gia đình, vợ chồng đừng nên trách mắng nhau bởi vì như vậy, nợ kiếp trước chưa giải quyết xong lại tăng thêm nợ ở kiếp này, tức là “nghiệp cũ chưa hết lại thêm nghiệp mới”. Hãy đối xử tử tế với nhau để hóa giải nợ kiếp trước. Nhà Phật có câu: “chúng sinh là bình đẳng”, người chồng hay người vợ không phải là tài sản riêng của mình, chỉ là có một đoạn nhân duyên với mình ở kiếp trước, kiếp này đến để kết thúc đoạn nhân duyên đó mà thôi.

Duyên tận duyên tán, tất cả sẽ phân ly. Đừng oán trách người chồng hay người vợ của mình mà hãy trả giá, bỏ công sức ra nhiều hơn, lặng lẽ giúp đỡ người kia nhiều hơn ngay bây giờ, bạn chắc chắn sẽ nhận được quả ngọt. Phàn nàn người khác cũng chỉ là tự làm hại mình mà thôi.

Không có ai vô dụng

- Quà tặng cuộc sống



Thành công của người đàn ông luôn có hình bóng của người phụ nữ đứng phía sau, họ luôn quan tâm và cổ vũ người bạn đời của mình dù thành công hay thất bại.

Ta

- Chánh Bảo Trung



Ta chỉ là ta bóng hình K H Ô N G - S Ắ C
Duyên tướng pháp trần đối đãi diệt sanh
Ta mới là ta đang là … muôn pháp
Ẩn hiện không cùng Pháp giới hư không

Sống hạnh phúc hay không là do tâm của mình quyết định

- Theo Secretchina
- Mai Trà biên dịch



Ngoại cảnh không có khả năng cho bạn sự sung sướng, hạnh phúc. Bí quyết hạnh phúc là khả năng thích ứng được với điều mình không yêu thích.

Người có trí tuệ xưa nay thường không sống “trong miệng” của người khác, cũng không sống “trong mắt” của người khác. Gặp nhau là duyên mà không gặp cũng là duyên, gặp lại là duyên mà biệt ly cũng là duyên. Trần thế mênh mông giữa đến và đi, cho nên gặp hay không gặp cần gì phải đau khổ luyến lưu ? Vậy bí quyết sống hạnh phúc vui vẻ là gì ?

Bất luận bạn làm tổn thương ai thì xét về lâu về dài, đó đều là sẽ tự làm tổn thương đến mình. Có thể hiện giờ bạn sẽ không cảm nhận thấy được nhưng nó nhất định sẽ chuyển động ngược trở lại và quẩn quanh bên bạn. Phàm là bạn làm việc gì đối với người khác thì cũng là đối với mình, bạn khiến người khác trải qua điều gì thì sau này bạn nhất định sẽ trải qua điều đó. Phật giáo truyền giảng về nhân quả không phải để hù dọa con người mà chính là có ý muốn nhắc nhở, bảo ban con người. Đây là chân lý, cho dù bạn có tin hay không thì nó vẫn cứ tồn tại không cách nào bị mất đi.

Một ông lão nói với cháu trai của ông rằng: “Trong thân thể mỗi người đều có hai con sói, chúng luôn tàn sát lẫn nhau. Một con sói đại biểu cho sự căm phẫn, ghen ghét, kiêu căng, sợ hãi và sự sỉ nhục. Con sói còn lại đại biểu cho sự ôn hòa, lương thiện, lòng biết ơn, niềm hy vọng, nụ cười và tình yêu.”

Cậu bé sốt ruột hỏi ông: “Ông nội ! Con sói nào mạnh hơn ạ ?”

Ông lão trả lời: “Con mà cháu nuôi nấng ! Tâm của cháu hướng về phương nào thì chính là con đường tương lai của cháu !”

Đến với giáo lý nhà Phật không phải là để ký thác khi mất đi mà là để đối đãi đúng đắn với cuộc đời. Nhìn thấu sự “vô thường” của nhà Phật chúng ta sẽ nhận thấy rất nhiều điều mặc dù là tốt đẹp nhưng sẽ không bền vững lâu dài. Hay rất nhiều khi chúng ta rơi vào thống khổ tưởng như không thể chịu đựng được nữa nhưng rồi chúng lại qua đi nhanh chóng. Cho nên, “vô thường” là gợi ý tốt nhất cho cuộc đời. Nó khiến cho chúng ta ở trong hoàn cảnh biến đổi thất thường của cuộc đời mà có thể thăng hoa trí tuệ.

Học giáo lý nhà Phật để làm gì ? Chính là để điều phục tự tâm (tạm hiểu: điều hòa, thu phục tâm). Rất nhiều người chỉ vì một lòng muốn cầu sống lâu, cầu không bệnh tật, cầu tiền tài, cầu sinh con trai mà đến tu trì. Kỳ thật, đây đều là đã đi ngược lại với Phật pháp.

- Bái lạy không phải chỉ là khom lưng cúi người xuống mà là buông bỏ ngạo mạn.

- Niệm Phật không phải là thể hiện ở số lượng thanh âm mà là thể hiện ở sự thanh tịnh của tâm địa.

- Chắp tay không phải chỉ là khép hai tay lại mà còn thể hiện sự cung kính.

- Thiền định không phải là ngồi lâu đến mức không dậy nổi mà là trong tâm không bị dao động bởi bên ngoài.

- Vui mừng không phải là ở khuôn mặt rạng rỡ mà là ở sự khoan khoái, dễ chịu trong lòng.

- Thanh tịnh không phải là ở sự vứt bỏ dục vọng mà là thể hiện ở tâm địa không mưu cầu cái lợi.

- Bố thí quyên tặng không phải chỉ là cho đi hết vật chất mà là chia sẻ tấm lòng yêu thương.

- Tín Phật không phải là học tập tri thức mà là thực hiện vô ngã.

Có những người khi ăn chỉ chuyên chọn những thứ mình yêu thích, ở cũng chọn chỗ mình yêu thích, kết giao bạn bè cũng chỉ chấp nhận người mình ưa thích … Vậy một khi gặp được điều mình không ưa thích sẽ không có cách nào tiếp nhận. Kỳ thực, ngoại cảnh không thể vĩnh viễn cho bạn sự sung sướng, hạnh phúc, chỉ có học được cách thích ứng được với cả điều mình không yêu thích thì mới vĩnh viễn có được niềm hạnh phúc.

Sống trên đời, không tranh giành chính là từ bi, không tranh cãi chính là trí tuệ, không nghe thấy chính là thanh tịnh, không nhìn chính là tự tại, không tham lam chính là bố thí, đoạn tuyệt ác chính là làm việc thiện, sửa đổi chính là sám hối, khiêm tốn chính là lễ Phật, tha thứ chính là giải thoát, thấy đủ chính là buông bỏ, lợi người chính là lợi mình.

Rất nhiều khi chúng ta nhìn thấy sự hào nhoáng, phù hoa mà lại không nhìn thấy một “mạch nước ngầm” đang khởi động. Có một ít người biểu hiện bề ngoài hạnh phúc là bởi vì họ đang che giấu nỗi khổ khó tả. Có một ít người bên ngoài nở nụ cười nhưng trong lòng lại đang có âm thanh của nước mắt. Có một ít người thường hay khoa trương nhưng kỳ thực trong tâm linh lại có nhiều hư không … Bình luận của người khác thực sự không quá trọng yếu như vậy, hạnh phúc và vui vẻ của bản thân là không phải ở trong con mắt của người khác mà là ở chính trong tâm mình.

Danh ngôn (74)

- Khổng Tử



Quân tử:
- làm ơn mà không phí phạm
- khó nhọc mà không than oán
- muốn mà không tham
- thư thái mà không kiêu
- oai mà không dữ

Nhành dương cứu khổ

- Trường Khánh



Nơi cạnh núi đồi thiêng liêng
mắt Mẹ đang nhìn uy nghiêm
thương đàn con chịu đau thương
sống trong bể khổ trầm luân

Con quỳ trước Mẹ niêm hương
mắt buồn rướm lệ vương vương
nhắc thầm tên Mẹ yêu thương
xin Mẹ chứng chi lòng con

Quan Âm Mẹ hiền
xin Mẹ thương chúng con
giọt nước cành dương
xóa sạch bao ưu phiền

Nam Mô Mẫu Từ
tay Mẹ thường đón đưa
vạn kiếp trần lao
Mẹ đã dấn thân vào

Con đã quay về nơi đây
hương từ chiếu tỏa mây bay
muôn lòng ấm lại hôm nay
nhành dương cứu khổ từ đây

Tin sâu nhân quả

- H.T Tịnh Không



Chúng ta phải tin sâu nhân quả: “một miếng ăn, miếng uống đều đã định sẵn”, có thể tin sâu chẳng nghi thì tự nhiên có thể buông xuống, sẽ dám buông xuống. Nhiều người chẳng dám buông xuống vì sợ nếu buông xuống hết tất cả thì ngày mai phải làm sao đây. Cứ luôn nghĩ trước, nghĩ sau, chẳng chịu buông xuống triệt để. Đây là vì chẳng hiểu rõ Sự-Lý, chẳng sanh khởi lòng tin. Nhưng sự thật là buông xuống càng nhiều thì thâu hoạch càng nhiều.

Giàu sang từ đâu đến ? Từ bố thí tài vật mà đến, đây là quả báo. Quả báo của Bố Thí pháp là thông minh trí tuệ, quả báo của Bố Thí Vô Úy là khỏe mạnh sống lâu. Tóm lại, càng bố thí thì được càng nhiều.

Đời vẫn cứ nhọc nhằn

- Thơ ARCK



Tôi đã thấy dáng người đi mệt mỏi
Đôi tay gầy nhặt nhạnh mảnh ve chai
Vết chân chim in hằn nơi đáy mắt
Biết bao ngày đói lã có ai hay

Tôi đã thấy trong cuồng quay hối hả
Bé đầu trần tờ vé số trên tay
Tà áo trắng chỉ là điều mơ ước
Mới tuổi hồng sớm nếm vị chua cay

Tôi đã thấy những con người bất hạnh
Chẳng vẹn toàn, phải vất vả mưu sinh
Họ gắng gượng dù mùa đông giá lạnh
Hay nắng hè vẫn rực cháy niềm tin

Tôi đã thấy cuộc đời còn nhiều lắm
Những con người vật lộn với khó khăn
Họ cần có một nơi là mái ấm
Nhưng quá xa, đời vẫn cứ nhọc nhằn

Tôi muốn thấy người người đều hạnh phúc
Áo tinh khôi em cắp sách đến trường
Gánh mưu sinh không nặng đè vai nhỏ
Nụ cười tươi chào đón nắng mai hồng

Phủi bụi cho tâm hồn

- Sưu tầm

Giận dữ, ghen tuông, tức tối … đều là những loại “bụi bẩn” làm hỏng căn phòng tâm hồn của bạn. Khư khư giữ rịt lấy chúng chỉ càng làm cho cuộc sống của bạn âm u hơn mà thôi. Vì sao không đứng dậy, kéo rèm, “quét” rắc rối để tâm hồn bạn rạng rỡ.

PHỦI BỤI CHO TÂM HỒN, CÓ KHÓ KHÔNG ?

Câu trả lời là không khó lắm đâu. Mọi người thường có xu hướng ghi nhớ những điều xấu xí nhiều hơn là những chuyện tốt đẹp. Mười kỷ niệm vui không bằng một vết xước nhỏ trong tâm hồn. Nhưng như thế không có nghĩa là nỗi buồn có quyền được ngự trị mãi mãi trong tâm hồn bạn, tất nhiên là trừ khi bạn thật sự muốn thế. Còn nếu bạn muốn giải phóng trái tim khỏi những cái gai nhức nhối, hãy bắt đầu thu vén lại tâm hồn của mình ngay từ bây giờ.

Cũng theo tiến sĩ Luskin thì tha thứ không có nghĩa rằng bạn buộc phải quên tất cả. “Tha thứ là cảm giác yên lành trong tâm hồn” – ông nói. Nếu bạn cứ nghĩ mình là nạn nhân, phải chịu đựng những bất công xấu xí, bạn có thể để tuột mất những cơ hội khác tươi đẹp hơn. Đó là chưa kể những phút bực dọc sẽ khiến bạn có những hành động chẳng mấy hay ho.

THA THỨ - VÌ CHÍNH BẢN THÂN BẠN

Nếu bạn thật sự yêu thương bản thân, hãy để cho những hờn giận, ghen ghét, đố kị … trôi khỏi bộ nhớ của mình. Não rất nhỏ. Tâm hồn cũng rất mỏng. Đừng bắt chúng phải chịu đựng nỗi đau lặp đi lặp lại. Khi bạn kể lể chuyện không vui cho một người nào đó, bạn buộc phải lặp lại tất cả từ đầu. Và vì mọi người đều có xu hướng lôi kéo sự ủng hộ về phía mình nên bạn sẽ phải kể thật chi tiết và chỉ cho ra điểm xấu xí của đối phương. Bạn sẽ thấy cáu giận hết lần này đến lần khác. Khi bạn cáu, não sẽ tự động sản xuất ra hooc-môn tạo stress.

BẠN ĐANG TỰ CHÀO ĐÓN CĂNG THẲNG ĐẾN VỚI MÌNH

Cảm giác tha thứ cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của mỗi người. Cụ thể là những vấn đề về tim mạch, tiêu hóa và suy nhược cơ thể. Một cuộc nghiên cứu được tiến hành thế này:

Các nhà khoa học chia đối tượng tham gia làm hai nhóm. Nhóm đầu tiên là những người lạc quan. Họ cho rằng cuộc sống rất đáng quý nên dẹp bỏ những cơn giận sang một bên để tận hưởng từng giây phút hạnh phúc. Nhóm thứ hai thì ngược lại. Trong mắt họ, những kinh nghiệm đau thương như một bức tường vô hình khiến họ lúc nào cũng thận trọng. Kết quả cho thấy nhóm thứ nhất có sức khỏe tốt hơn và cũng yêu đời hơn. Nhóm thứ hai có chiều hướng dễ stress, hay căng thẳng và thường xuyên xuất hiện những dấu hiệu xấu của sức khỏe.

ĐỂ MỖI NGÀY LÀ MỘT NGÀY VUI

Sẽ không có bất cứ một chuẩn mực nào của sự tha thứ. Cũng chẳng ai có thể bắt bạn phải quên đi chuyện a, phải làm chuyện b … dù điều đó rõ ràng là rất tốt cho bạn. Nhưng nếu bạn thật sự quan tâm đến chính mình, hãy tự tha thứ cho bản thân trước rồi bỏ qua những rắc rối (dù có thể chúng to đùng như một con ma mút vậy). Quá khứ đã qua. Hiện tại và tương lai mới là quan trọng. Và vì tha thứ là cảm giác yên bình, tìm được sự bình yên trong tâm hồn, cuộc sống sẽ dịu dàng hơn rất nhiều …

Phước lành trổ quả

- Namo Buddhgaya

Với việc thiện, làm rồi không tiếc
Dẫu cho người không biết đền ơn
Hân hoan, đừng tính thiệt hơn
Phước lành trổ quả còn hơn thế nhiều



Lòng Mẹ

- Ngày của Mẹ

Con dù lớn vẫn là con của Mẹ
Đi hết cuộc đời lòng Mẹ vẫn theo con ...



Tư duy

- Buddha



- What we are today comes from our thoughts of yesterday, and our present thoughts build our life of tomorrow: “our life is the creation of our mind”.

Chúng ta là hôm nay đến từ những tư duy của chúng ta ở ngày hôm qua, và những tư duy trong hiện tại tạo nên cuộc sống ngày mai: “đời sống của chúng ta là sự sáng tạo từ tâm trí của chúng ta”.

Tĩnh tâm

- Tuệ ngữ



● NIỆM PHẬT không phải là thể hiện ở số lượng thanh âm, mà là thể hiện ở sự THANH TỊNH của tâm tánh.

● CHẮP TAY không phải chỉ là khép hai tay lại, mà còn thể hiện sự CUNG KÍNH, đảnh lễ.

● VÁI LẠY không phải chỉ là khom lưng cúi người xuống, mà là buông BỎ NGÃ MẠN.

● BỐ THÍ, quyên tặng không phải chỉ là cho đi hết vật chất dư thừa mà là chia sẻ TẤM LÒNG yêu thương.

● VUI MỪNG không phải là ở khuôn mặt rạng rỡ, mà là ở sự khoan khoái, DỄ CHỊU trong lòng.

● THIỀN ĐỊNH không phải là ngồi lâu đến mức không dậy nổi, mà là trong tâm KHÔNG DAO ĐỘNG bởi bên ngoài.

● THANH TỊNH không phải là ở sự cố ý diệt dục, mà là giữ tâm KHÔNG MƯU CẦU danh lợi.

● SÂU SẮC không phải là người nói ra những lời uyên bác, mà là người có thể LẮNG NGHE cả những điều vụn vặt.

● TU TẬP không phải là học tập tri thức ở cao xa, mà là thực hiện VÔ NGÃ ngay trong đời sống của mình.

- Tuệ ngữ

Giác ngộ

- Sưu tầm



Trần gian một cõi đi về
Trải qua bến đỗ sông mê cuộc đời
Xác thân trả kiếp luân hồi
Giữ lòng thanh thản … nảy chồi Phật tâm
Vi vu réo rắc rừng thông
Bồ Đề giác ngộ rũ xong nợ trần

Sân chùa quét lá vàng rơi
Tâm không tạp niệm nhẹ khơi cõi lòng
Mai này sóng gió bão giông
Trong tâm có Phật vẫn không sợ gì
Chỉ là một thuở hàn vi
Về sau chánh quả niệm A-di-đà

Danh ngôn (73)

- Proverb China



Vinh quang vĩ đại nhất của chúng ta không phải là chẳng bao giờ thất bại, mà ở chỗ chúng ta có dám đứng dậy sau mỗi lần thất bại.

Đứng trước cái chết

- Thích Nhật Từ

Trước cái chết bao nhiêu người đau khổ
Lệ tuôn rơi, tâm sầu não, ưu bi
Cuộc sanh tử ôi chặng đường tơi tả
Cuốn trôi đi bao ân ái cuộc đời

Trước cái chết cũng có người thức tỉnh
Nhận chân ra cảnh thế vô thường
Biến đau thương thành sự sống mênh mông
Vào bất tử, hòa mình cùng vũ trụ



Đi tìm nụ cười sau những tổn thương

- Hương Nguyên
- Theo Tiny Buddha



“Pain is inevitable. Suffering is optional” (Tạm dịch: Họa thì không thể tránh. Nhưng đau khổ thì có thể lựa chọn) - Haruki Murakami, tác giả cuốn “Cánh rừng Na Uy” từng nói. Hóa ra ta cũng có thể chọn, chọn một nỗi đau cũng là chọn. Chọn làm sao để chịu đựng nỗi đau đó cũng là chọn. Bạn chọn cách đau khổ hay cách khó ?

Có thể bạn vừa bị ai đó làm tổn thương. Có thể bạn vừa phải trải qua nỗi đau thể xác từ một vụ tai nạn, một trận thiên tai, một vụ cướp, một thảm họa … Cũng có thể bạn bước ra khỏi nhà với tâm trạng đầy miễn cưỡng, dù biết rằng chuyện chẳng đáng nhưng nỗi đau vẫn cứ âm ỉ. Những khoảnh khắc đó sẽ tạo thành vết sẹo theo suốt cả cuộc đời. Cái đau về vật chất có thể “cân đo đong đếm”, song hoàn toàn không thể định lượng hay có thể đem so sánh với nỗi đau tinh thần. Có nhiều người không thể vượt qua nỗi đau đó, và họ lựa chọn phương thức tiêu cực nhất để “chữa trị”. Theo Livestrong, cứ 100 phút, trên thế giới lại có một thanh thiếu niên tự tử, và tỷ lệ là như nhau trong nhóm thu nhập cao cũng như thấp.

Nỗi đau, dù “nhẹ tựa lông hồng” hay ngộp thở bức bí đều có một đặc điểm chung là sinh ra từ những nghịch cảnh. Khi bạn bị tổn thương, sẽ có ai đó nói rằng, đó chỉ là thứ trong đầu bạn mà thôi, hãy vứt nó đi, sẽ không còn đau đớn nữa. Nhưng rốt cuộc họ cũng chỉ có thể đưa ra lời khuyên, còn chính bản thân mỗi người mới có thể là những “bác sĩ” tốt nhất để hàn gắn nỗi đau của chính mình.

Khi bị tổn thương, bạn có thể thử xử lý nỗi đau bằng những cách dưới đây:

● “GIẢI MÔ NỖI ĐAU

Không hề dễ dàng để xác định nguồn cơn của nỗi đau. Một số lựa chọn cách trốn tránh. Một số cố tìm lỗi của một ai đó “đáng ghét” để ngụy biện. Một số cam chịu sống trong đau đớn, trong sự lăng mạ của người khác vì cho rằng điều này sẽ an toàn hơn so với thừa nhận đau đớn, thiếu tự trọng khiến họ cam chịu sự sỉ nhục của người khác, sự xấu hổ phải thừa nhận một điều gì đó không hay trong cuộc sống của mình hay cảm giác tuyệt vọng khi không tìm thấy lối thoát. Vì vậy, bước đầu tiên trên con đường tìm kiếm hạnh phúc sau khi bị tổn thương là truy nguyên lý do bị tổn thương, đến được gốc rễ của vấn đề sẽ giúp mọi thứ dễ giải quyết.

● KHÔNG KÌM NÉN

Nhiều người lựa chọn che đậy nỗi đau bởi họ sợ phản ứng của những người xung quanh. Họ cảm thấy xấu hổ về nỗi đau của mình. Thế nhưng, chẳng ai có thể chắc chắn về thái độ của những người khác. Có người sẽ ghen tị khi bạn hạnh phúc. Có người châm chọc sau mỗi nụ cười của bạn. Có người nhìn bạn với vẻ mặt “tôi biết cả rồi”.

Tuy nhiên, “giải phóng” tất cả nỗi đau lại là điều kiện tiên quyết để có được hạnh phúc, nhưng bạn có thể lựa chọn con đường “giải phóng”, bạn có thể lựa chọn nhiều cách khác ngoài việc trò chuyện với một ai đó, nói thật to lên giữa đồng không mông quạnh (các nhân vật trong phim tình cảm cũng hay lựa chọn cách này), tâm sự với quyển nhật ký, viết một lá thư rồi đốt đi … Điều này sẽ giúp bạn hiểu lý do tại sao bạn đang làm tổn thương và những gì bạn cần làm để tránh nỗi đau tương tự. Các nhà nghiên cứu tâm lý học cho rằng những ai cố gắng học từ nỗi đau sẽ dễ dàng vượt qua những nỗi đau khác trong tương lai, còn những người chỉ biết chịu đựng sẽ chỉ càng chìm vào trong bế tắc.

● SỐNG TRONG THỰC TẠI

Hồi tưởng lại quá khứ có thể gây nghiện. Nó có thể khiến bạn ở lỳ trong “căn phòng ký ức” thay vì đi ra khỏi căn phòng đó. Nó có thể khiến bạn tưởng rằng mình có thể làm lại. Nó cũng có thể cho phép bạn hiểu rõ hơn chuyện gì đã xảy ra, nỗi đau bắt đầu từ đâu, và bạn nên làm gì ?

Nhưng cũng như con dao hai lưỡi, bởi nó cho phép bạn tra tấn chính mình. Khi dành thời gian để hối tiếc, bạn sẽ chẳng còn thời gian làm gì nữa. Thậm chí, nó đẩy bạn lạc vào trạng thái stress mãnh liệt đến mức cần phải có sự trợ giúp tâm lý chuyên nghiệp. Quá khứ không bao giờ là nơi mà bạn có thể tìm thấy hạnh phúc. Chỉ có hiện tại và tương lai.

● DỪNG CÂU CHUYỆN LẠI

Khi đau đớn, bạn luôn khát khao có một ai đó nói rằng bạn không làm gì sai cả, cũng không xứng đáng bị tổn thương như vậy. Nhưng đây chỉ là một cách trốn chạy một cách tuyệt vọng. Nó khiến bạn mắc kẹt trong ảo tưởng vô hình. Không ai có thể biết trước những gì sẽ xảy ra trong tương lai, song con người khó có thể tìm hạnh phúc khi cứ chìm đắm vào những câu chuyện đau đớn, miên man trong tâm trạng bị dằn vặt. Hạnh phúc sẽ khó có thể đến khi những nỗi đau không được thay thế bằng một điều gì đó tốt đẹp hơn. Bạn chẳng cần đến sự cho phép của ai để tiễn bước nỗi đau cả.

● HÃY THA THỨ CHO CHÍNH MÌNH

Nếu như nhiều người cố tìm lỗi ở người khác thì lại có những người cứ “vơ” cái sai về mình. Bạn không làm gì sai nhưng lại cho rằng tội lỗi đều từ mình mà ra. Bất kể có chuyện gì xảy ra, cũng nên dừng “trò chơi” đổ lỗi hay tìm kiếm nạn nhân. Bạn cũng chỉ là con người. Ngay cả khi đó thực sự là lỗi của bạn, thì chỉ oán trách bản thân cũng chẳng khiến mọi việc tốt đẹp hơn. Nếu ngay đến bản thân bạn còn dằn vặt chính mình thì liệu có thể mong chờ sự bao dung từ ai được nữa ?

● ĐI TÌM THÚ VUI

Không quá khó khăn để vượt qua những cảm giác đau đớn, chỉ cần nhường chỗ cho niềm vui, thật đơn giản phải không ? Hãy làm những gì mà bản thân mình yêu thích bất kể đang phải trải qua nỗi đau lớn nhường nào. Ngồi dưới ánh mặt trời, gọi điện trò chuyện với người có thể mang lại tiếng cười, hay chỉ đơn giản là nghe ca khúc của những chú Chipmunks hay đọc một quyển truyện cười.

● CHIA SẺ VỚI NGƯỜI KHÁC

Con người thường cô lập khi bị tổn thương và cảm thấy an toàn hơn mà không hề nhận ra rằng khi cô đơn mới là lúc khiến nỗi đau thêm nặng nề. Những lúc như vậy rất cần có người ở bên cạnh để san sẻ mọi chuyện, ngay cả khi họ không giúp gì được nhưng sự lặng yên để lắng nghe mọi chuyện cũng là cách tốt nhất để cảm thấy nhẹ lòng, bởi:

“Cuộc đời ngắn tựa gang tay
Ngọt ngào không hết, đắng cay làm gì”