V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Thoáng duyên

- Diệu Linh



Nhẹ như sương khói bên trời
Nặng như thương nhớ dù lời chưa trao
Hồ như đã gặp kiếp nào
Thoáng ban đầu ấy ghi sâu trong hồn

Chiều xa, tiễn ánh mắt buồn
Người xa, người có cạn nguồn yêu thương ?
Tình tơ, trót đã vấn vương
Chờ nhau, dẫu biết vô thường nợ duyên
Tìm trong cõi nhớ vô biên
Thấy mơ màng lắm trinh nguyên nét cười
Thoáng duyên còn thắm, tình ơi !
Tạ ơn tình đã vào đời ru ta
Ru bằng ánh mắt ngọc ngà
Cho hồn ta vỗ âm ba bồi hồi
Ru bằng thinh lặng bờ môi
Cho tim ta gióng lên hồi chuông yêu

Ta về xõa tóc trong chiều
Gửi vào hương gió chút tiều tụy mong
Mai này tìm được Diêu Bông
Thoáng duyên xin ủ cho nồng trăm năm

Còn và Mất

- Tịnh Đức


Thời gian thắm thoát trôi qua, mới đó mà thầy Huệ Văn đã trải qua hai năm học. Chỉ còn một năm nữa là thầy sẽ tốt nghiệp mãn khóa cấp Cao Trung Phật Học. Khóa học này nhà trường quy định thời gian là ba năm. Sau đó, nếu tăng sinh nào muốn học tiếp thì phải thi vào lớp Cao Đẳng Phật Học. Chương trình của lớp Cao Đẳng Phật Học cộng chung là tám năm, học xong bốn năm đầu tăng sinh sẽ được cấp phát văn bằng cử nhân Phật Học. Và sau đó là hai năm cao học, còn lại hai năm cuối cùng, tăng sinh sẽ hoàn tất luận án tiến sĩ. Với chương trình học như thế, nên nhà sư trụ trì luôn khuyến khích thầy Huệ Văn bằng mọi giá phải cố gắng học cho xong chương trình ở cấp bậc cao đẳng, tức phải hoàn tất luận án tiến sĩ Phật Học. Nhờ có sư phụ hỗ trợ khuyến khích, nên thầy Huệ Văn cương quyết phải đeo đuổi học cho xong chương trình Cao Đẳng Phật Học.

Tết năm nào nhà trường cũng cho các tăng sinh về quê nghỉ hè ăn Tết một tháng. Nghĩa là qua rằm Tháng Giêng tăng sinh mới trở lại trường nhập học. Vì đó là dịp để cho các tăng sinh về chùa nghỉ ngơi tịnh dưỡng cho khỏe, đồng thời cũng phụ giúp công việc chùa với thầy tổ. Mặt khác là để cho tăng sinh có thời gian ôn lại những bài vở đã học, hoặc đi du ngoạn lãm cảnh ở một vài nơi thắng cảnh cho thư thả tâm hồn. Bởi những ngày miệt mài học hỏi ở nhà trường, tất nhiên đầu óc của họ rất căng thẳng và mệt mỏi.

Vị trí của ngôi chùa vì nằm trên đồi cao có nhiều cây cao tán lá xum xuê xanh mát, không gian rộng lớn, nên sáng nào mọi người cũng đều ra ngoài trời hít thở không khí tươi mát trong lành. Có những buổi chiều đẹp trời, sau giờ thọ thực, ba huynh đệ thường hay rủ nhau lên đồi để ngắm cảnh mặt trời lặn. Đó là những buổi chiều tàn êm ả, hoàng hôn lặng lẽ buông xuống bao phủ khắp cả ngọn đồi. Cảnh vật như chìm sâu lần vào trong bóng tối. Mỗi lần ngắm cảnh hoàng hôn, chiều buồn, thầy Huệ Văn không sao quên được ngày mẹ của thầy mất. Mẹ của thầy từ biệt cõi đời vĩnh viễn ra đi cũng trong một buổi chiều tàn. Khi đó, mọi cảnh vật đều lặng chìm trong màn đêm, để lại một khoảng không gian thật lạnh lùng buồn tẻ. Có một buổi chiều thầy ngồi một mình trên ngọn đồi đưa mắt nhìn về phía chân trời xa xăm, mây mờ ảm đạm, bất giác hình ảnh của mẹ thầy lại hiện về rõ nét trong tâm khảm của thầy. Một hình ảnh trước khi nhắm mắt lìa trần, mẹ thầy vẫn cố gượng gạo mở to đôi mắt trong cơn hấp hối để nhìn thầy lần cuối. Thầy đã cảm nhận được những gì mẹ thầy muốn nói qua ánh mắt trìu mến yêu thương của người mẹ hiền. Vì vậy, trong lúc ngồi buồn nhớ mẹ, thầy có cảm tác một bài thơ nói về cảnh hoàng hôn khi mặt trời đã tắt. Như bài thơ mà thầy đã đưa cho chú Huệ Minh trong những ngày đầu khi chú Huệ Minh đến chùa tu học. Vì cùng cảnh ngộ nên hai người dễ thông cảm và chia sẻ nhau hơn.

Hôm nay, tuy thời gian cách xa, nhưng để tưởng nhớ lại một buổi hoàng hôn nào đó mà chính thầy Huệ Văn đã viết lên những vần thơ bằng những giọt lệ thương tâm khóc thầm trong tủi hận. Bài thơ này, chú Huệ Minh đã đọc nhiều lần nên thuộc lòng như cháo.

Hoàng hôn buông xuống đất trời
Phủ che vạn vật khắp nơi một màu
Vầng hồng le lói đồi cao
Nắng vàng yếu ớt một màu thê lương
Ngàn cây thảm cỏ bên đường
Đứng buồn ủ rũ hứng sương bạc đầu
Chiều buồn ảm đạm cỏ sầu
Mây hồng ráng đỏ vồng cầu tóc tang
Giật mình trong cảnh bàng hoàng
Đất trời đã vẽ ngàn trang lụy buồn
Nặng lòng nước mắt trào tuôn
Mẹ đi biền biệt in tuồng mây bay
Ngẩn người chết lặng chiều nay
Lòng buồn nhớ mẹ ai hay hôn hoàng

Chú Huệ Minh đọc bài thơ mà lòng của chú chứa chan đầy nỗi đau thương buồn tủi trong lòng. Bởi chú cũng mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Chú đã mất đi tình yêu thương nồng ấm của cha mẹ. Trong khi đó, chú Huệ Tân cũng tủi lòng rơi lệ. Vì chú cũng đã mất mẹ. Bầu trời hôm nay tuy còn đó nhưng nắng vàng đã tắt hẳn rồi. Vầng thái dương không còn soi sáng nữa. Cả ba người như cùng một tâm trạng đau thương, cứ lặng lẽ lủi thủi đi từng bước nặng trĩu lên dốc, xuống dốc, đến bờ suối đá quen thuộc khi nào không hay. Đây là một cái suối nước trong, ngày đêm nước chảy róc rách quanh năm.

Nhớ lại, có hôm ba huynh đệ đi dọc theo con suối nằm uốn khúc quanh co sâu vào trong rừng rậm thật là thú vị. Nhất là những buổi trưa hè nóng bức mà ở ngoài rừng cây, nghe tiếng gió thổi vi vu rì rào thật mát mẻ và thích thú. Bởi vừa ngắm cảnh thiên nhiên lại vừa hóng mát nghe nhạc thiên nhiên thì còn gì thơ mộng bằng. Có lần, ba huynh đệ trong lúc đi dạo quanh đồi, thầy Huệ Văn bảo chú Huệ Minh và Huệ Tân đến bên cạnh cây thông to ngồi hóng mát nghỉ chân. Mỗi người tìm cho mình một chỗ ngồi thích hợp. Thầy Huệ Văn ngước mắt nhìn lên ngọn thông cao và rồi nhìn chung quanh toàn cảnh trí tươi đẹp của ngọn đồi. Nơi đâu cũng toàn là cây lá hoa rừng. Bỗng có một vài con chim chích chòe từ đâu bay đến đậu trên cành cây kêu vang ríu rít. Nghe tiếng chim kêu, chú Huệ Minh đưa mắt nhìn lên thấy chúng đang chuyền nhảy tung tăng ca hót líu lo, chú liền nói:

- Mấy con chim này sướng thiệt, chúng được tự do bay nhảy muốn bay hay đậu đâu tùy ý thích, không có gì ràng buộc chúng nó cả. Ngẫm lại, người ta đâu có được tự do như mấy con chim này phải không sư huynh ?

Nghe Huệ Minh hỏi, thầy Huệ Văn liền nói:

- Này đệ ! Nhìn thấy chúng bay nhảy thì có tự do sướng thiệt đó, nhưng đệ đừng quên rằng, đằng sau chúng còn có nhiều người săn bắn rình rập để sát hại chúng nó. Cho nên, đừng thấy chúng bay nhảy như vậy mà chúng ta cho rằng chúng thực sự là có tự do hạnh phúc. Nếu thực sự tự do, thì chúng đâu có phập phồng lo âu sợ hãi người ta theo đuổi rình rập để giết chúng. Thấy bên ngoài thì dường như chúng nó có tự do hạnh phúc lắm, nhưng kỳ thật bên trong thì chúng cũng vẫn nơm nớp lo sợ hãi hùng. Như vậy, thì chúng làm gì mà có được tự do hạnh phúc thực sự chớ ?

Thầy Huệ Văn vừa nói đến đây thì chú Huệ Tân liền hỏi:

- Thưa sư huynh ! Trên đời này chỉ có ông Phật mới thực sự là có tự do giải thoát hoàn toàn, còn lại không có ai được như vậy hết phải không sư huynh ?

- Đúng vậy. Chỉ có Đức Phật mới là người có tự do giải thoát hoàn toàn thôi.

Chú Huệ Minh liền hỏi:

- Tại sao Ngài được như vậy ?

- Vì Đức Phật đã dứt sạch hết vô minh phiền não.

Chú Huệ Tân hỏi:

- Còn các vị Bồ Tát thì sao ?

- Các vị Bồ Tát cũng được tự do, tự tại giải thoát, nhưng các Ngài chưa được hoàn toàn như Phật.

- Tại sao ?

- Vì các Ngài chưa dứt hết vô minh phiền não tức là các Ngài vẫn còn chút ít vi tế vô minh. Sự đoạn hoặc chứng chơn của các Ngài, còn tùy theo trình độ tu chứng sâu cạn mà có những đẳng cấp khác nhau, bởi Bồ Tát có nhiều hạng bậc không đồng, vấn đề này không thể nói một giây lát mà các em có thể hiểu hết được. Huynh nghĩ, sau này khi các em có dịp vào học đường thì chừng đó các em học sẽ hiểu nhiều hơn.

Ba huynh đệ luận bàn đối đáp đến đây, nhìn lên cây không còn thấy bóng dáng của các con chim khi nãy. Thấy vậy, thầy Huệ Văn mới nói:

- Đó, các em có thấy không, sự còn mất ở đời nó giống như những con chim này. Mới thấy đó rồi lại bay mất. Tuy nhiên, nó chỉ không còn ở đây chớ không phải là nó mất hẳn luôn. Có thể là nó sẽ đậu chuyền nhảy ở một nơi khác.

Chú Huệ Minh nói:

- Tuần trước đệ có nghe sư phụ giảng về việc “Còn”“Mất” ở đời, nhưng lúc đó đệ hơi buồn ngủ nên đệ không hiểu rõ hết những gì mà sư phụ đã giảng. Đó là lỗi của đệ. Vậy bây giờ, sư huynh có thể nói rõ hơn về vấn đề này cho hai em nghe có được không ?

- Được. Sư huynh sẵn sàng nói cho hai em nghe. Tuy nhiên, huynh không thể nào giảng rõ kỹ càng như sư phụ được.

Thầy Huệ Văn nói tiếp:

- Lần sau, nếu hai em có nghe sư phụ giảng dạy, thì phải cố lắng lòng chú tâm theo dõi để nghe. Tuyệt đối, hai em không được ngủ gục hay tỏ vẻ chểnh mảng thờ ơ lơ là, đó là lỗi nặng lắm hai em có biết không ? Nếu vậy, thì uổng công sư phụ giảng dạy và hai em cũng không thu thập được gì. Cho nên, nếu lần sau tái phạm như thế, thì sư phụ sẽ phạt hai em quỳ hương đó nghe chưa.

- Dạ, nghe !

Chú Huệ Minh nói:

- Em chỉ lỡ một lần thôi, từ nay về sau em không bao giờ dám tái phạm lỗi lầm như thế nữa đâu. Sư huynh yên tâm. Bây giờ sư huynh nói cho hai em nghe đi.

Thầy Huệ Văn đưa mắt nhìn cảnh vật chung quanh và rồi nhìn vào đôi mắt trong sáng chứa đựng sự hồn nhiên ngây thơ trong trắng và không kém thông minh của hai em mình, rồi thầy từ từ chậm rãi nói:

- Phật dạy, trên đời này không có gì tồn tại lâu dài. Tất cả đều chịu chung một định luật vô thường chi phối. Nhưng ở đời, người ta chỉ thích muốn cái còn, cái có, cái tốt, cái đẹp ... chớ đâu có ai muốn cái mất, cái xấu, cái hư bao giờ. Tuy nhiên, người ta quên rằng, cái có cái còn chỉ là những thứ giả trá tạm bợ không thật. Nó chỉ tồn tại trong một thời gian nào đó thôi. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có bài thơ “Nguyện cầu” cũng nói về ý nghĩa còn và mất này.

Ta còn để lại gì không ?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót này
Ðể ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi
Ðêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm

Để sư huynh kể cho hai em nghe một vài mẩu chuyện ngắn về cái còn và cái mất.


Trong một ngôi chùa nọ, có một vị sư trụ trì trọng tuổi. Trong chùa ngoài vị sư trụ trì ra, còn có một chú tiểu thị giả để vị sư sai làm những công việc lặt vặt. Hai thầy trò đang sống trong cảnh êm đềm dưới mái chùa đầy ấm cúng. Bỗng một hôm, có một chú thanh niên trang tuổi như Huệ Minh, đến xin xuất gia với vị sư già. Chú kể lể hoàn cảnh mồ côi không cha, không mẹ, không người thân thích, mất hết chỗ tựa nương, năn nỉ than khóc ỉ ôi, chú cầu xin vị sư cho chú được thế phát xuất gia. Động lòng từ bi trắc ẩn của kẻ tu hành, vị sư không thể từ chối nên cho chú ta xuất gia. Lúc đầu, chú tỏ ra rất ngoan ngoãn, chăm chỉ tu hành, làm việc theo những gì thầy dạy bảo. Trải qua thời gian tuy không lâu nhưng vị sư thấy người học trò của mình đáng tin cậy. Từ đó, vị sư giao chìa khóa chùa và thậm chí còn đưa chìa khóa thùng phước sương cho chú cất giữ. Thế là, chú đã đạt được điều mong muốn của chú rồi.

Một hôm, có một vị thí chủ đến thỉnh vị sư trụ trì tới tư gia cúng thất cho người mẹ mới mất, sư trụ trì đi cùng với chú tiểu, để chú thanh niên này ở lại giữ chùa. Đây là một cơ hội ngàn vàng đối với chú. Thế là, chú gom hết những đồ đạc quý giá, kể cả tiền bạc trong thùng phước sương chú đều vét sạch sành sanh không còn gì hết. Lấy xong, chú cao bay xa chạy, bặt tăm bặt tích. Khi vị sư trụ trì trở về, thì ôi thôi, nhìn lại đồ đạc không có cánh mà bay không còn thứ gì cả. Nhưng đối với người tu hành, thì sự mất mát đó cũng không đến đỗi thương tiếc bi lụy như người đời. Tuy cũng có một chút thoáng buồn, nhưng sau đó nhớ lời Phật dạy về lý vô thường huyễn mộng thì không có gì phải luyến tiếc. Tuy nhiên, vị sư chỉ buồn cho mình là thiếu sáng suốt vì quá tin tưởng một người mà mình chưa biết rõ lai lịch gốc gác. Đó là có từ bi nhưng thiếu trí tuệ. Những Phật tử hay tin đó liền đến chùa thăm hỏi, vị sư chỉ mỉm cười và chỉ biết dùng lời phân trần khuyên giải họ. Sư nói:

- Ở đời này không có ai muốn mình mất đi bất cứ thứ gì, dù đó là một vật rất nhỏ, khi người ta đã yêu thích rồi không ai lại muốn mất. Người ta muốn cái gì của mình tạo ra là phải bền bỉ còn hoài. Khi mất đi một món đồ quý giá thì người ta mất ăn, mất ngủ, thật là đau khổ biết ngần nào ! Nhưng người ta quên rằng, trên đời này không có vật gì tồn tại ở trong tay mình hoài. Bản thân mình còn không giữ được, thì thử hỏi những vật ngoài mình làm sao giữ được ? Ấy thế mà, không ai muốn mình chết và cũng không ai muốn người thân của mình phải ra đi. Được thì vui, mất thì buồn. Sum họp thì vui, chia ly thì buồn. Bởi con người vốn dĩ đã quá ích kỷ, cái gì cũng muốn gom thâu về mình. Nghĩa là không muốn mất mát bất cứ thứ gì. Mãi sống trong sự còn, mất, thắng, bại, hơn, thua, mà người ta luôn nơm nớp lo sợ. Từ lo sợ rồi sanh ra ưu phiền, từ ưu phiền sanh ra bệnh hoạn. Cứ mãi sống trong vòng lẩn quẩn như thế, mà người ta quên đi bản thân mình. Người ta không ngờ rằng, do mất đồ mà nhà sư đã thuyết giảng một bài pháp vô thường có không thật là hữu ích. Nhờ đó mà mọi người đến nghe cũng thức tỉnh phần nào.

Chú Huệ Minh định hỏi một câu về sự còn và mất ở sự tu hành, nhưng thầy Huệ Văn lại kể tiếp một câu chuyện nữa cũng nói lên sự mất còn. Chuyện kể rằng:

Có một ngôi chùa làng, trong chùa có vài vị tăng đang tu học. Bên cạnh chùa có một miếng đất khá lớn, khoảng độ một mẫu. Chư tăng trong chùa nhờ miếng đất này mà trồng trọt nhiều thứ hoa màu thực phẩm để chi dụng, nhất là khoai mì. Một hôm, ngoài trời tối đen như mực, khoảng giữa đêm trời lại đổ cơn mưa to. Lúc đó trong chùa mọi người đều đang an giấc. Đâu có ai ngờ rằng, trong đêm hôm mưa to gió lớn mà lại có kẻ đi ăn trộm khoai mì. Sáng ra, một vị sư trẻ ra vườn liền phát hiện đêm hôm có kẻ trộm khoai. Vị sư liền chạy vào chùa báo cho nhà sư trụ trì biết. Thế là cả chùa đều chạy ra xem, coi khoai bị mất nhiều ít. Thấy thế, mọi người đều ồn lên thậm chí có người còn nặng lời quở trách. Trong khi đó nhà sư trụ trì không nói một lời nào, ngài thản nhiên âm thầm lặng lẽ trở vào trong chùa. Mọi người đều ngạc nhiên qua thái độ thản nhiên lạnh lùng của nhà sư. Tuy vậy, không ai dám nói hay than phiền điều gì cả.

Chiều lại, nhà sư họp chư tăng để nói về việc mất trộm khoai đêm hôm. Bấy giờ, nhà sư mới lên tiếng hỏi một vị tăng lớn tuổi trong số các vị tăng hiện diện. Nhà sư hỏi, theo thầy thì chúng ta nên làm gì khi đã bị mất trộm như thế ?

- Phải rình bắt cho được chúng nó và rồi đánh chúng nó một trận tơi bời, để chúng bỏ cái tật gian tham đê tiện đi ăn trộm đồ của người ta.

Nhà sư yên lặng không nói. Nhà sư quay sang hỏi một vị tăng khác:

- Theo ông, thì mình nên làm gì ?

- Mình nên rình bắt cho được chúng nó rồi giao bọn chúng cho công an xử phạt trị tội.

Nhà sư cũng lặng lẽ không nói lời nào. Nhà sư hỏi tiếp một vị tăng khác. Đây là một vị tăng trẻ tuổi nhất trong số các vị tăng.

- Theo ngươi, thì phải làm gì ? Hành động như thế nào đối với kẻ trộm ?

- Dạ thưa, mình nên tìm cách giúp đỡ cho kẻ ăn trộm.

- Tại sao ?

- Vì gia cảnh của họ nghèo đói túng thiếu nên họ mới đi ăn trộm khoai của mình. Biết đâu, họ còn có các đứa con nhỏ dại, chúng nó đang bị bệnh hoạn đau ốm chi đó, túng thế ở bước đường cùng, nên họ mới liều lĩnh hành động bất nhân thất đức như vậy. Nếu mình đánh đập hay bắt nhốt họ, thì chỉ chuốc thêm thù oán và cũng không giải quyết được gì cho họ. Chi bằng mình nên tìm cách giúp họ trong cơn túng thiếu nghèo đói, cho họ một số tiền để họ có một số vốn làm ăn, hoặc tạo cho họ có một công ăn việc làm nào đó để cho họ kiếm sống. Có vậy, thì họ mới không còn sanh tâm đi ăn trộm đào tường khoét vách của thiên hạ nữa.

Nãy giờ, nhà sư trụ trì lắng nghe sự phân giải của một vị tăng trẻ, ông thầm nghĩ cái chú này giãi bày tình lý rất rõ ràng. Tuy chú còn trẻ tuổi mà lý giải rất phân minh và có nhân từ đức hạnh của một người tu hành. Nhà sư gật đầu và khen thầm.

Bấy giờ, nhà sư hỏi những vị khác, theo ý các vị thì ý kiến của chú này có nên làm như vậy không ? Mọi người như đã hiểu ý nhà sư không ai dám chống đối cãi lại. Vì giải quyết một việc hợp tình hợp lý thì làm sao có thể chống đối được. Đó là một cách giải quyết khôn khéo và hết sức thông minh. Thầy Huệ Văn kể đến đây, thì chú Huệ Minh nói:

- Đúng là thông minh không luận tuổi tác. Mình là người xuất gia tu hành, ít ra mình cũng phải có tấm lòng rộng lượng bao dung tha thứ. Thân này còn chẳng ra gì sá chi mấy củ khoai mì.

Chú Huệ Tân nói xen vào:

- Theo sư huynh thì cho đó là một cách giải quyết hay nhất. Nhưng theo đệ nghĩ, thì làm sao mình biết được kẻ trộm mà giúp đỡ cho họ chớ.

Chú Huệ Minh nói:

- Dễ thôi, mình cứ theo dõi bọn chúng thì sẽ biết. Chuyện đó đâu có khó gì. Bởi họ thừa biết, ăn trộm của người đời thì họ còn bị đánh đập thậm chí còn bị giết chết, chớ còn ăn trộm của nhà chùa, chả lẽ mấy ông thầy tu hành đầy lòng từ bi vị tha nhân ái, mà lại đi đánh đập giết chết họ hay sao ? Đâu có ai tàn nhẫn như thế. Như vậy, thì cứ tiếp tục mà hành nghề đạo chích, cứ tiếp tục đào móc có gì phải lo sợ.

Chú Huệ Minh nói đến đây, thầy Huệ Văn tỏ ra đồng ý và khen phải. Đồng thời thầy cũng kết luận câu chuyện. Các em thấy cách xử lý của vị tăng trẻ tuổi này thật là hay.

Chú Huệ Tân liền hỏi:

- Sư huynh nói hay mà hay ở chỗ nào ?

- Hay ở chỗ là tuy nhà chùa bị mất khoai, nhưng không mất cái đạo lý tình nghĩa của một người tu hành. Xử sự giữa tình và lý rất rõ rệt. Lý là giúp cho họ có công ăn việc làm hoặc giúp cho họ có số tiền vốn làm ăn. Về tình thì họ mang ân sâu nặng với mình và họ không bao giờ biết oán trách hay hiềm thù với mình. Đó là thể hiện vừa tình người mà cũng vừa tình đạo.

Đến đây, chú Huệ Minh liền trở lại chuyện mất còn ở một khía cạnh sâu hơn, tức nói về mất còn ở nội tâm, không phải mất còn ở bên ngoài. Chú hỏi thầy Huệ Văn:

- Sư huynh có thể cho biết thêm về sự mất còn ở nội tâm như thế nào không ?

- Sự mất còn ở nội tâm thì nó sâu sắc khó hiểu hơn, bởi nó không có hình tướng như sự còn hay mất cụ thể ở bên ngoài.

- Sâu sắc như thế nào ?

- Những thứ phiền não buồn, giận, thương, ghét, lo sợ .v.v.v. trong tâm mình, mình không thấy nhưng nó vẫn có tác dụng hiện ra tướng trạng bên ngoài. Như lúc đệ giận thì không ai biết được cái giận của đệ ra sao, nhưng người ta thấy được cái mặt bậm trợn hay tay chân múa may quay cuồng hung hăng, thì người ta biết là đệ đang nổi cơn thịnh nộ nóng giận dữ dội. Nhưng cái nóng giận đó, do có duyên nên nó mới sanh khởi. Như người nào đó làm trái ý nghịch lòng đệ mà đệ không vừa ý thì liền đó đệ nổi giận ngay. Vậy thì cái giận này do duyên mà sanh khởi nên nó không có thật, khi có khi không. Khi không có thì người ta tưởng đâu là nó mất, kỳ thật thì nó chỉ ẩn tàng sâu kín trong tiềm thức chớ không có thật mất. Đơn cử một thứ phiền não, còn những thứ phiền não khác cũng thế. Đệ vận dụng công phu tu hành cho đến khi nào những thứ phiền não này không còn nữa, thì chừng đó cái tánh không giận, nói chung là tánh “KHÔNG” của vạn pháp sẽ hiện bày. Như sóng không còn thì toàn thể mặt biển yên lặng hiện ra. Thế thì, mất là mất cái giả không thật, chớ cái chơn tánh thì làm sao mất được ? Tuy nhiên, cái không mất này, vì không có hình tướng nó vượt ra ngoài đối đãi nhị nguyên, nên chúng ta không thấy được. Như đệ thấy đèn tuy có đứt bóng không cháy, nhưng điện nào có mất đi đâu. Tuy điện không mất nhưng bảo đệ chỉ ra cái tướng trạng của điện như thế nào, thì thử hỏi làm sao đệ có thể chỉ được. Tuy không chỉ ra được mà nó vẫn hiện hữu. Chính cái chỗ này mà trong kinh thường nói cái tánh vi diệu hay diệu pháp là vậy đó. Như đức Phật, Ngài đã hết vô minh phiền não nhưng cái bản tánh viên giác của Ngài đâu có mất. Nói mất hay còn là nói trong phạm vi đối đãi, còn cái thực thể vượt ngoài đối đãi thì không thể nói còn hay mất gì cả. Chính vì thế, sư huynh mới nói nó sâu sắc là vậy. Vô Minh và Phật Tánh tuy cả hai đồng thời có, nhưng Vô Minh thì vô thủy mà hữu chung, còn Phật Tánh thì vô thủy vô chung. Cái có hình tướng thì mất còn cái không hình tướng thì không bao giờ bị hoại diệt. Cho nên trong kinh Pháp Hoa gọi cái tánh thể nầy là “Như Lai Thọ Lượng” (mạng sống lâu dài vượt ngoài thời gian không sanh không diệt). Còn trong Kinh Lăng Nghiêm thì gọi là “Thường trụ Chơn Tâm”.

Chú Huệ Minh nãy giờ lắng nghe sư giải thích cặn kẽ của sư huynh Huệ Văn mà lòng cảm phục sự hiểu biết sâu sắc của sư huynh mình. Thật đáng cho mình học hỏi. Chú Huệ Tân tuy không hiểu nhiều, nhưng cũng lãnh hội được chút ít qua sự giãi bày còn mất từ cái thô bên ngoài cho đến còn mất của cái vi tế bên trong.

_________

Ba huynh đệ luận bàn đối đáp đến đây, bỗng nghe âm thanh của ba tiếng kẻng từ trong chùa vọng lại, đó là báo hiệu giờ Tịnh Độ tối sắp bắt đầu. Ba tiếng kẻng đó là do bà Bảy đánh, vì trước khi đi, thầy Huệ Văn có dặn bà Bảy tới giờ đánh kẻng dùm. Nghe tiếng kẻng báo hiệu, ba người đều lần mò theo con đường mòn quen thuộc trở vô chùa để chuẩn bị giờ Tịnh Độ tối …

Nguyện cầu

- Thơ Vũ Hoàng Chương

Ta còn để lại gì không ?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về

Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót này
Ðể ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi

Ðêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm



Nơi bình minh yên tịnh

- Lam Khê



Đêm thật dài, sâu thẳm và hun hút trên những đôi chân đời lang bạt. Cái nóng râm ran sau nhiều ngày khô hạn làm cho mặt đường nhựa bỗng như lên cơn sốt giữa làn khói xe dày đặc. Không gian rồi cũng trở nên im vắng khi đêm về. Tất cả chìm nhanh trong những giấc ngủ vội vàng, những hơi thở gấp gáp như sợ thời gian qua mau. Thỉnh thoảng vang lên tiếng lè nhè vô thưởng vô phạt cùng bước đi ngật ngưỡng của một gã say mèm nào đó làm khuấy động lên đôi chút.

Không biết Linh đã chạy qua bao nhiêu quãng đường, bao nhiêu dãy phố … khi tiếng rao đêm vẫn còn văng vẳng, cho đến lúc mọi hoạt động đều ngưng bặt, thì cô mới dừng lại ngồi nghỉ bên cánh cổng ngôi nhà có mái che rồi thiêm thiếp ngủ. Nhưng chỉ được chốc lát, Linh đã choàng tỉnh dậy, cảnh giác nhìn quanh.

Chiếc cổng có giàn hoa giấy màu tím trông ẩn khuất và hiền lành làm sao, mùi Ngọc Lan thoảng ra từ mảnh sân nhỏ, ngôi nhà hai tầng xinh xắn gợi lên một chút gì đó bình yên và hạnh phúc mà Linh từng ước ao. Lòng cô bé chợt bồn chồn ray rứt. Sao giống quá, vẫn khung cảnh này … giàn hoa giấy, hương Ngọc Lan nhè nhẹ làm trái tim Linh thắt lại vì nhớ thương khắc khoải. Cô lại chìm vào giấc ngủ, chìm vào trong giấc mơ về một khoảng đời đã xa thật xa, dù chưa được bao lâu.

Ngôi nhà là niềm mơ ước của ba mẹ lúc mới lấy nhau. Khi chị em Linh bắt đầu đến trường thì đã cùng vui đùa dưới mái nhà khang trang đó rồi. Em Trúc nhỏ hơn Linh một tuổi, hai chị em gái lần lượt ra đời không làm cho ba mẹ mất đi tình yêu thương và chắt chiu vì tương lai con cái. Ba là công chức bậc trung, mẹ buôn bán lặt vặt ở nhà, trông coi dạy dỗ các con. Những ngày rảnh rỗi ba chỉ quanh quẩn chăm sóc mấy chậu hoa kiểng và mảnh vườn nho nhỏ trước sân, cùng chơi đùa với chị em Linh, phụ mẹ làm những công việc khác trong nhà. Một bức tranh gia đình yên vui hạnh phúc tưởng như sẽ mãi vững bền theo năm tháng.

Sự yên ấm ấy không kéo dài qua hết quảng đời tuổi thơ của Linh. Lúc ấy Linh còn quá nhỏ để có thể hiểu được nỗi lòng của người lớn. Trong một lần gây gỗ, ba mẹ chia tay nhau. Mẹ đem theo em Trúc bỏ về bên ngoại, rồi sau đó sang định cư nước ngoài cùng với người đàn ông khác. Có lẽ đó là nguyên nhân làm cho gia đình Linh phải chịu cảnh tan đàn xẻ nghé. Mái nhà hiu quạnh vì không còn bàn tay vun vén của người phụ nữ, nên không bao lâu ba cũng lấy vợ khác, và một đứa con trai kháu khỉnh ra đời, sớm làm cho ông quên hết nỗi đau buồn cũ. Những ngày tháng đó, Linh đã sống trong sự ghẻ lạnh khinh ghét của mẹ kế và vẻ thờ ơ đôi khi tàn nhẫn của ba đã làm đứa con gái thơ dại sớm chịu xa mẹ cảm thấy tủi thân, lòng đầy uất nghẹn. Một lần Linh lỡ tay làm té đứa em trai nhỏ, cô bé sợ hãi khi thấy cả ba và dì tức giận nhào tới túm lấy tóc cô. Linh vùng bỏ chạy để từ đó không bao giờ trở về ngôi nhà ấy nữa.

Đêm nay Linh cũng lại chạy trốn. Cô đang chạy trốn khỏi những cạm bẫy mà cuộc đời luôn giăng ra cho những kẻ cô thân yếu đuối. Nhiều năm bặt hết tin tức gia đình, trái tim cô cũng dần chai sạn vì lăn lộn trên đường mưu sinh, nhưng Linh không nguôi lòng nhớ mẹ, nhớ về mái nhà một thời đầm ấm thân thương. Một lần tình cờ gặp người bà con xa bên ngoại bảo mẹ mới trở về nước và có đi tìm đứa con gái nhỏ lưu lạc. Buồn tủi và tự ái, Linh đã không hỏi gì thêm về mẹ. Nếu như cô còn một mái ấm gia đình, còn một ngôi nhà để quay về, thì đâu phải lang thang vất vưởng, tối nay lại trải qua một đêm ngủ ngoài đường. Thân gái dặm trường làm sao cô luờng hết bao trắc trở đời thường.

Gã đàn ông to lớn đẫy đà vì cái bụng phệ quá cỡ và cặp môi lúc nào cũng mấp máy như luôn thèm khát một cái gì đó. Đã vậy, đôi mắt ông ta cứ híp lên khi cười, để lộ hàm răng vẩu ra vừa đáng sợ vừa thấy ghét. Bà chủ nhà trọ bảo với Linh là ông ta cần một người phụ bán hàng, lương khá, ổn định, lại có chỗ ăn ở đàng hoàng. Dầu gì thì cô cũng không còn sự lựa chọn nào khác. Mấy tháng rồi cơ sở may da nơi Linh vào làm chưa bao lâu, bị thua lỗ nên họ sa thải bớt những công nhân chưa vững tay nghề. Linh thất nghiệp, tiền ăn tiền nhà còn thiếu, nay biết lấy gì để trả. Người chủ nhà gợi ý một chỗ làm mới, thế là cô bằng lòng ngay. Từ ngày trôi nổi tha phương Linh đã nếm trải đủ mọi ngành nghề, từ cô bé bán dạo, chạy bàn, cho đến phụ bốc vác, đẩy xe hàng ở bến chợ, từng phải ăn bờ ngủ bụi. Cuối cùng thì một người tốt bụng giới thiệu cô vào làm trong cơ sở may này.

Linh hoảng lên khi thấy ông ta bước vào phòng mình. Căn phòng nhỏ nằm cuối hành lang, cửa then chỉ gài hờ:

- Ông chủ ! Ông vào đây làm gì trong đêm hôm ?

- Ậy ! Đừng la chứ. Chúng ta đã thỏa thuận rồi mà.

- Thỏa thuận gì ? Tôi chỉ đến đây làm công cho ông thôi, ông đừng …

- À, thì làm công … chẳng phải cô đang cần tiền là gì ?

Linh tức giận nói lớn:

- Tôi cần tiền. Nhưng đồng tiền làm ra từ mồ hôi nước mắt của mình, chứ không phải bán thân …

Không hiểu làm cách nào mà Linh đã chạy thoát được gã đàn ông lực lượng chực vồ lấy cô trong cơn dục vọng. Linh chạy … chạy mãi cho đến tận nửa đêm và …

- Ê ! Con nhỏ nào lại đến ngủ nhà ông vậy cà.

Tiếng cười nói của hai thanh niên say xỉn vừa trờ xe tới, một tên bước qua chỗ Linh để mở cổng. Gã còn lại phụ hoạ:

- Con nhỏ coi bộ được đó mày. Hay mình rủ em vào nhà chơi cho vui, còn hơn để ngủ ngoài hè thế này.

- Thôi chứ, mày tính dụ dỗ con gái nhà lành à ?

- Nhà lành cái con khỉ. Cái thứ đầu đường xó chợ này …

Linh chồm dậy như bị điện giựt và lại nhanh chân bỏ chạy, mặc kệ những giọng cười nham nhở đuổi theo. Chạy một hơi … chợt cô nghe có tiếng chuông chùa. Tiếng chuông công phu khuya nhẹ vang trong thinh lặng, làm cho cõi lòng cô nhen nhúm lên một chút bình yên tin tưởng. Linh dừng chân lại trước ngôi chùa, cổng chùa bỏ ngỏ, cô bé thở dài rồi vội bước vào bên trong, đến ngồi dựa nơi bực thềm trước chánh điện. Cô ngủ liền sau đó, trong tiếng mõ nhịp nhàng cùng giọng tụng kinh đều đều trầm lắng, và rồi Linh lại nằm mơ … một giấc mơ thật an lành tươi đẹp . Khi ánh nắng tỏa lên tới bực thềm thì Linh cũng giật mình thức dậy. Cô ngơ ngác nhìn quanh, thấy mình vẫn nằm ngoài hành lang chùa, với chiếc khăn mỏng trên người mà không biết ai đó đã đắp lên. Đưa mắt nhìn quanh, Linh trông thấy một vị sư cô đang đi tới, liền rụt rè bước lại thưa:

- Thưa … cho con gởi lại chiếc khăn …không biết của ai …

Sư Cô mỉm cười đỡ lấy:

- À, khăn của chùa, Sư Cô thấy con ngủ ngon quá nên không nỡ đánh thức. Con vào đây lúc chùa công phu phải không ? Thôi con bước ra phía sau rửa mặt, rồi xuống nhà bếp dùng cháo sáng. Mấy cô có để phần cho đó.

Linh hơi ngỡ ngàng nhưng cũng làm theo lời vị sư dạy. Khi múc gáo nước lạnh rửa mặt mà Linh cứ nghe bụng mình cồn cào co thắt lại vì đói và khát kinh khủng. Sư Cô ngồi yên lặng nghe cô bé kể chuyện đời mình. Lần đầu tiên có người chịu lắng nghe nên Linh nói say sưa như chưa từng được nói. Bao nhiêu tủi buồn cơ cực vì miếng cơm manh áo, cùng nỗi uất hận vì ba mẹ bỏ bê khiến cho cô phải dập dìu trôi nổi như cánh lục bình. Nói xong cô thở hắt ra:

- Bây giờ con chẳng biết phải đi đâu làm gì ? Chắc con trở lại với nghề bán dạo hay bán vé số gì đó. Con chẳng quen biết ai ở thành phố này cả. Làm gì rồi cũng bị người ta gạt gẫm lừa lọc.

- Theo Sư Cô thì, vị sư chậm rãi nói, con chưa tìm được việc làm thích hợp thôi thì cứ ở lại chùa. Từ từ rồi Sư Cô sẽ nhờ những Phật tử thân tín giới thiệu cho nơi làm tốt đáng tin cậy. Con hiền lành lại là con gái mới lớn, ra đời sớm quá … về lâu về dài thật cũng khó giữ mình. Mà này, con cũng nên về quê thăm ba một lần và tìm mẹ đi. Mẹ con ở nước ngoài về, chắc là cũng muốn lo cho tương lai của con …

Linh cúi mặt im lặng, như cố kiềm chế những giọt nước mắt cứ chực tuôn ra. Một lúc lâu cô mới ngẩng lên nói với giọng đầy xúc động:

- Con nhớ nhà, nhớ ba mẹ lắm. Nhưng con vẫn giận họ … chưa muốn về vào lúc này đâu.

- Người lớn cũng có nỗi khổ tâm riêng con ạ ! Con bỏ đi bặt tăm như vậy, ba mẹ con hẳn là lo lắng lắm. Nước mắt lúc nào cũng chảy xuôi, ba mẹ nào lại không thương con. Mà thôi từ từ rồi tính. Đợi khi con ổn định rồi trở về thăm nhà cũng được. Trở về với hình dáng và tâm hồn nguyên vẹn, ba con cũng sẽ hối hận và thương con hơn. Con cứ ở lại đây ít bữa, nghe kinh kệ và phụ làm công quả, rồi lòng con sẽ được thanh thản bình yên trở lại.

Ngoài sân có nhiều người đang làm việc và chuyện trò thật vui vẻ. Những Ni Cô trẻ điềm đạm mà chói sáng qua nụ cười hiền từ chứa chan đạo vị. Những em nhỏ đến chùa làm công quả trong niềm tin tưởng lạc quan hạnh phúc. Ánh nắng đã lên cao. Lâu lắm rồi Linh mới được hưởng một buổi sáng thanh bình như thế. Cô chợt ví mình như một người sắp chết đuối, bất chợt gặp chiếc thuyền cứu hộ. Và khi an ổn bước sang bờ sự sống, Linh mới cảm nhận hết cả một khoảng trời mênh mông rộng mở phía trước.

Ngày mai khi bình minh trở lại … biết đâu Linh lại không tự mình lật sang một trang đời khác. Ngày mai, con đường trở về nhà ắt sẽ nhuộm đầy sắc nắng vui tươi và thoát tục.

Bản tình ca cô đơn

- Thích Tuệ Giác



Ta đã đến như lời xưa hẹn ước
Trái tim này dâng hiến trọn cho đời
Vô lượng kiếp dìu nhau chung nhịp bước
Vạn nẻo đường nhân thế mộng đầy vơi


Cuộc hành trình lăn lóc mải chưa ngơi
Người còn khổ, ta còn đây chí nguyện
Xót thương đời đảo điên mê chấp luyến
Huyễn thân này xin chấp nhận thương đau

Ai có biết trần gian tuồng mộng ảo
Mải đam mê đuổi bắt bóng chiều tà
Cuốn theo ghềnh bao bọt bóng phù hoa
Làn hương thoảng nhạt nhòa trong sương khói

Hoa tươi thắm lúc bình minh nắng mới
Chóng phai tàn khi bóng ngả tà dương
Giấc Nam Kha sực tỉnh đóa Vô Thường
Nghe thương xót bao người đang đắm đuối

Đêm trở giấc ngậm ngùi trong tiếc nuối
Mộng liêu trai rụng vỡ ánh trăng tà
Cuộc tình nồng theo giọt đắng phôi pha
Lòng giá buốt bản tình ca héo hắt

Đời tan hợp vui buồn duyên được mất
Danh, lợi, tình đâu chắc thật bền lâu
Mãi tranh đua chen lấn giật giành nhau
Gây bao mối thương đau sầu chất ngất

Hãy thức tỉnh bước lên đường giải thoát
Gót phong trần xin dừng bước lang thang
Được gì đâu khi tỉnh giấc kê vàng
Nghe chua xót bàng hoàng lòng buốt giá

Ôi bão tố, phong ba đời nghiệt ngã
Dấy điêu linh thống khổ cuộn dòng đời
Dìm bao người đắm đuối biển mù khơi
Bao khát vọng tan tành theo mây nước

Ta đã đến như lời xưa hẹn ước
Dù gian truân khó khổ quyết không lơi
Dong thuyền từ đưa chúng vượt trùng khơi
Soi đuốc Tuệ dẫn người qua bến Giác

Khi đã nguyện dấn thân đời trược ác
Là đương đầu bao thử thách oan khiên
Nhiều đắng cay cùng nghịch cảnh chướng duyên
Lòng chẳng khác, dù xương tan thịt nát

Hãy xây lên giữa cuộc đời đổ nát
Một lâu đài giải thoát vượt tam thiên
Giữa trần gian đầy khổ não ưu phiền
Đem trái Giác hạt Thiền ban rải khắp

Bài hợp tấu đợi duyên người phúc đáp
Bản tình ca hòa nhịp điệu cùng anh
Đàn không dây vang điệp khúc vô sanh
Sáo không lổ vọng lên bài bất tử

Ta đã đến như lời xưa hẹn ước
Trái tim này dâng hiến trọn cho đời
Vô lượng kiếp dìu nhau chung nhịp bước
Vạn nẻo đường nhân thế mộng đầy vơi

Tâm nhìn

- Sưu tầm



Xưa có một vị Tỳ Kheo, cất một cái am trên một sườn núi vắng vẻ để tu tập thiền định. Dưới chân núi là một con sông, có một chuyến đò qua lại. Vị Tỳ Kheo muốn hạ sơn hóa đạo phải đi qua chuyến đò ấy. Kẻ đưa đò là một lão mẫu tuổi trên 50, còn khoẻ mạnh.

Một hôm, khách qua sông thấy kẻ đưa đò không phải là lão mẫu nữa, mà một thiếu nữ rất duyên dáng đẹp đẽ, dung nghi trang trọng, cử chỉ thanh cao. Hỏi ra mới hay rằng, người con gái không biết người ở xứ nào, một ngày nọ, tới xin lão mẫu ở trọ và giúp bà một tay đưa khách qua sông.Thấy nàng xinh đẹp, lại đoan trang, lão mẫu vô cùng thương mến.

Từ đó, khách sang sông thăm thầy ngoạn cảnh mỗi ngày mỗi đông. Có lẽ ai cũng thích qua đò để được ngắm dung nhan giai nhân và cái vẻ thướt tha mềm mại của tay ngà đưa mái chèo nhẹ trên mặt nước. Thầy Tỳ Kheo thỉnh thoảng có việc phải hạ sơn, cũng qua đò. Nhưng có điều lạ, khi qua bên kia sông rồi, khách chỉ trả có một tiền, cô gái đòi thầy phải trả hai tiền. Vị Tỳ Kheo ngạc nhiên hỏi tại sao lấy tiền đắt hơn. Cô gái cười nói:

“Mọi người qua đò chỉ có qua đò thôi. Còn thầy, ngoài việc qua đò, thầy còn ngắm tôi nữa nên phải trả gấp đôi.”

Không lý cãi cọ lôi thôi với một cô gái, vị Tỳ Kheo đành phải chịu trả cho cô hai tiền.

Lần sau, có việc phải hạ sơn, vị Tỳ Kheo bước xuống đò không dám nhìn cô mà úp mặt xuống lòng đò. Ðến bến, mọi người lên trả tiền đò, đến lượt thầy, cô gái bắt trả gấp tư. Thầy hỏi:

- Lần trước, cô bảo tôi qua đò nhìn cô phải trả gấp hai, nay tôi không hề nhìn cô mà chỉ úp mặt xuống đò, tại sao cô đòi gấp tư ?

Cô gái nói rất nghiêm trang:

- Mấy lần trước, thầy chỉ dùng mắt nhìn nơi mặt và bên ngoài của tôi. Hôm này thầy dùng tâm và nhìn hết toàn thân bên trong của tôi nên phải trả gấp tư.

Nghe xong, thầy Tỳ Kheo phát lên cười và hình như có sở ngộ. Ngoảnh lại cô gái đó đã biến đi đâu mất. Từ đó, chỉ còn lão mẫu đưa khách sang sông . . .

Quét lá bên đời

- Cư sĩ Liên Hoa



Nao nao nhặt lá sân chiều
Khói sương ấp ủ đìu hiu giấc nồng
Trời xanh, đôi mắt thuở mong
Cánh chim ngơ ngác, ôm mây thả hồn
Ta - Người, vạn nẻo mù sa
Trên con dốc đổ, bơ vơ chốn nào
Đường đi, vẳng tiếng chuông xa
Có nghe mưa bụi rớt trên vai gầy
Ưu phiền gieo hạt hương thơm
Trái tim quấn quít, nghe thơ trở mình
Bên hiên, mưa nắng trao tình
Lời kinh buổi sớm, mở ngàn nẻo thơm
Loanh quanh, từng bước tìm thơ
Bên đời lá rụng vàng mơ cõi lòng
Mở tâm, một sớm chân tình
Tiếng đàn vô tự, nghe chừng đâu đây ...
______

Cô đơn một buổi đi tìm
Nhặt trong hơi thở, có ngàn lá rơi
Em về ngàn lối mộng mơ
Thấy tâm thuở trước, bây chừ vẫn như

Đường về nguồn hạnh phúc

- Thông Hội


I. Tìm hạnh phúc bằng thỏa mãn tham vọng

Trong đời thường, bất cứ là ai, từ trẻ đến già, nam hay nữ, luôn khát khao kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc đôi khi rất xa mà có lúc lại rất gần. Có những lần ta ngỡ nắm được nó trong tay nhưng rồi hạnh phúc chợt tan biến như một bào ảnh. Thế là ta khổ đau, rồi lại hì hục lao đi tiếp tục kiếm tìm. Ta tin rằng nếu những đòi hỏi, những ước vọng của mình được thỏa mãn là ta có hạnh phúc. Khi được vừa ý, xứng lòng là ta có hạnh phúc. Có thật như vậy không ? Đây vẫn là câu hỏi chứa nhiều ẩn số …

Đây là một đoạn trong lời tâm sự của T. bác sĩ triệu phú, anh ra đi chỉ vài ngày sau khi chia sẻ những lời này vì chứng cancer phổi.

“Tôi đã có được mọi thứ trong cuộc sống, đến tột đỉnh của sự nghiệp. Tôi có tất cả. Đó là tôi của một năm trước đây. Tôi nghĩ tôi đã chế ngự được mọi chuyện và đạt đến đỉnh vinh quang. Nhưng tôi lầm …”

Từ lúc nhỏ, anh đã được gia đình và xã hội gieo vào trong anh khái niệm “Nếu thành công sẽ có tất cả, kể cả hạnh phúc !” Thành công là có tiền, nhiều tiền. Anh đã nỗ lực ganh đua và thành công mọi lãnh vực từ lúc nhỏ. Theo đà ganh đua và thành công đó, anh lớn dần và khái niệm đó trong anh cũng được tô bồi, nuôi dưỡng thành sự ham muốn không dừng nghỉ. Anh như con thiêu thân lao vào ánh đèn, cứ lao tới, ganh đua đạt thành quả. Anh ra trường với cấp bằng bác sĩ ưu tú về mắt nhưng thấy trị bệnh tiền không nhiều, anh xoay qua mở phòng mạch giải phẩu thẩm mỹ, dễ có tiền hơn, thế là anh miệt mài làm việc, say mê kiếm tiền, quên thời gian, quên nghỉ ngơi và chỉ ít lâu sau, anh thành triệu phú. Những gì anh mơ ước, mong muốn, anh đã có. Từ nhà cửa, xe và những phương tiện khác anh dùng, toàn là cao cấp, ít ai sắm nổi. Nhưng, tiền tài, danh vọng, địa vị, phương tiện sống, tất cả đã vuột khỏi anh, kể cả sự sống. Anh đã ra đi khi vừa bốn mươi tuổi.

Trong kinh Tứ Thập Nhị chương, phẩm Tham đắm các dục, Phật dạy:

Người thuận theo lòng dục
Để mong được danh tiếng
Khi danh tiếng vừa nổi
Thì thân này mất rồi
Giống như người đốt hương
Khi người nghe mùi hương
Thì cây hương tàn rồi

Khi mọi người ngửi được mùi hương thì cây hương bắt đầu tàn, hưởng trọn mùi hương thì cây hương cũng hết. Anh cũng vậy, lúc bắt đầu có những gì anh muốn là sự sống của anh cũng bắt đầu giảm, đến khi anh có tất cả, sự sống của anh cũng chẳng còn, như cây hương tàn. Cái gì đã hủy hoại anh ? Suốt đời anh sống có hạnh phúc không ? Người đuổi theo thành đạt hàng ngày sống bằng tâm trạng nào ? Hình ảnh máng cỏ tươi treo trước mặt con lừa và con lừa cứ lao tới, lao tới, nó nghĩ khi được máng cỏ tươi nó sẽ vui, sẽ hạnh phúc biết bao …

Như vậy, khi được thỏa mãn những đòi hỏi, những ước muốn, ta vui. Niềm vui này là thứ hạnh phúc nhất thời vì ngay lúc vui, bóng dáng của lo âu, sợ hãi đã ập tới, ta sợ mất hay ta nhàm chán những gì đang có và tính toán để có hơn nữa. Hạnh phúc nhất thời và khổ đau là hai mặt của cuộc sống, mặt này xuất hiện là mặt kia chờ sẵn. Chỉ có niềm vui khi quay về hiểu rõ chính mình và tháo gỡ những lầm chấp ở nội tâm … hạnh phúc ấy mới vững bền, là hạnh phúc chân thật. Vậy, hạnh phúc không đến từ bên ngoài, và cũng không xa, chỉ khi nào bóng tối lầm chấp khổ đau trong ta không còn thì bình minh hạnh phúc có mặt.

Bóng hạnh phúc không còn xa xôi nữa
Nếu lòng ta thật sự hiểu chính mình
Đêm mù tan, ta lại đón bình minh
Và sức sống chan hòa trên mọi nẻo …

II. Tìm hạnh phúc bằng thắp sáng Tuệ Giác

1. Từ Kinh Tứ Diệu Đế

Thắp sáng trí tuệ là điều quan trọng và cần thiết mà Thế Tôn muốn trao truyền. Ngày xưa Đức Phật thành tựu đạo quả cũng nhờ con đường nội quán này. Bao đời chư Tổ Ấn độ, Trung Hoa, Việt Nam cũng truyền nhau, trí tuệ nội quán này. Các ngài luôn nhắc nhở ta, hãy quay lại khám phá sự vận hành của nội tâm, nhờ đó ta nhận ra nhiều lớp sự thật về mình. Các kinh điển từ nguyên thủy đến đại thừa đều hiển bày tinh thần này …

Tứ Diệu Đế, bài kinh căn bản của đạo Phật, giúp mọi người dứt khổ, sống vui nhờ nhận ra bốn sự thật nơi chính mình. Tinh thần của Tứ Diệu Đế giúp ta hiểu rõ về mình, về những sự thật nơi mình, nhờ hiểu rõ những sự thật về mình nên giải thoát. Nên người giải thoát phải là người hiểu rõ nội tâm mình. Chưa biết buồn, vui, giận hờn, sợ hãi luôn xảy ra nơi thân tâm là khổ, và vì sao những phiền khổ đó có mặt thì cái ngã và ngã chấp vận hành hàng ngày làm sao nhận ra ? Không thấy sự vận hành của ngã và ngã chấp ở nơi ta hàng ngày như thế nào, làm sao biết thực chất của nó là gì ? Đâu thể nào Phật nói không thật, kinh nói hư giả, rồi mình cứ lầm bầm nói cái tôi không thật, cảnh như huyễn được. Nếu cái tôi không thật, cảnh huyễn hóa, vậy sao khi va chạm, khi đụng chuyện ta bị nó khống chế ? Nếu tất cả do duyên hợp, tại sao ta phiền giận không hay biết và trách móc người ? Cho nên ta không thể nói suông, nói suông vô ích, chỉ đếm tiền dùm người khác thôi, còn mình vẫn trắng tay.

Có vị tăng đến nói với một vị Thiền Sư:

- Trong pháp của tôi, một mảy bụi cũng chẳng lập, mười hạnh lành sẽ dùng vào đâu ?

Thiền Sư bảo:

- Năm uẩn lăng xăng, bốn đại đầy dẫy, sao bảo là không mảy bụi ?

Vị tăng nói:

- Nhưng bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có.

Thiền Sư liền tát cho ông một tát bảo:

- Kẻ học nói như mè, như thóc, chưa đúng, hãy nói lại !

Ông tăng lộ vẻ bực tức, đứng dậy. Thiền Sư cười bảo:

- Bụi bặm phủ đầy mặt rồi, sao ông chẳng phủi đi ?

Ta nên đi thẳng vào nội tâm mình để nhận ra nhiều lớp sự thật và thấu suốt nhiều lớp sự thật này để sự thật tối thượng hiển lộ. Như nhiều lớp mây tan và mặt trời chiếu sáng. Đến chỗ này, cội gốc Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ đã xum xuê cành lá sẵn sàng trổ hoa trái Bát Nhã. Cũng như hàng Thanh Văn phát tâm dấn thân trên con đường Bồ Tát để thành tựu Vô thượng Bồ đề …

2. Đến Kinh Bát Nhã

Đại diện hệ phái kinh đại thừa là kinh Bát nhã. Đức Phật đã hiển bày trí tuệ cứu cánh Bát Nhã bằng bài kinh thật ngắn gọn, nhưng là cốt tủy của đạo Phật – Tâm kinh – hay Kinh trí tuệ cứu cánh rộng lớn. Mở đầu bài kinh, Bồ tát Quán Tự Tại khi quay lại nhìn sâu vào nội tâm, liên tục, ngài thấy rõ năm uẩn không thật có, ngài liền dứt khổ. Năm uẩn là năm thứ chứa nhóm, hợp lại để hình thành một con người.

- SẮC, thân thể

- THỌ, những cảm thọ (vui buồn giận hờn thương ghét ...)

- TƯỞNG, những nhớ tưởng, nghĩ tưởng về chuyện này chuyện nọ, những hình ảnh đã qua hay chưa tới .v.v.v.

- HÀNH, những ý nghĩ nối tiếp nhau sinh diệt không dừng

- THỨC, cái phân biệt sạch dơ, đúng sai, tốt xấu, thương ghét .v.v.v.

Ngài đi vào mỗi uẩn và thấy rõ nhân duyên hình thành từng uẩn để thực chứng tướng không thật của mỗi uẩn. Năm uẩn đã không thật thì bản ngã làm sao có ? Cái tôi không thật thì ai khổ ? Chứng ngã không nhưng phải chứng luôn pháp không, từ Mười Hai Nhân Duyên đến Tứ Diệu Đế và Niết Bàn, tất cả đều không thật có. Ngay cả Vô Thượng Niết Bàn cũng là như chiêm bao, như bọt nước. Từ tinh thần vô sở đắc này, Bồ Tát tự tại đi vào các cõi hóa độ chúng sanh không chướng ngại. Đến đây thì mây tan mặt trời trí tuệ thường sáng. Bồ Tát chứng thật tướng Bát Nhã, tiếp tục lợi sanh để thành tựu quả Phật.

Cho nên tinh thần Bát Nhã là tuệ giác đi vào nội tâm để thấy chớ không phải để nghĩ tưởng, nói suông, và để giúp ta phá lầm mê chứ không phải để chấp cứng hay chỉ hiểu rồi buông tất cả. Trước tiên, văn tự Bát Nhã giúp ta hiểu Thế Tôn muốn truyền đạt ta điều gì. Rõ ràng, ngài muốn ta phải quay về tìm hiểu về mình, về trọn vẹn con người mình cùng những chấp thật của mình về các pháp thế gian và các pháp xuất thế gian, cuối cùng vào chỗ cứu cánh là trí tuệ Bát Nhã, giải thoát. Phần này thuộc về phạm trù tư tưởng.

Quán chiếu Bát Nhã là áp dụng chỗ hiểu này đi vào từng uẩn để nhận ra mỗi uẩn có mặt là do duyên hợp. Năm uẩn đều do duyên hợp nên không thật. Bản ngã cũng vậy. Giống như ta vào trong nhà cầm từng món đồ xem xét kỹ để biết những thứ ấy làm bằng gì. Các pháp bên ngoài, từ pháp thế gian đến pháp xuất thế gian, quán sát kỹ để nhận ra các pháp cũng do duyên hợp nên không thật. Trong, ngoài, lúc nào cũng rõ ràng, thấu suốt thực chất tâm, thân cảnh giới, thường như vậy mới gọi “trong ngoài rõ ràng thường biết”. Nhưng dù ngồi được thuyền Bát Nhã, ngay cả chèo giỏi nhưng vẫn chưa tự tại hoàn toàn, vì còn vướng con thuyền, còn quán chiếu. Đến khi thật sự vứt bỏ thuyền mới thể nhập thật tướng Bát Nhã. Được tự do tự tại, đầy đủ diệu dụng. Như người lên bờ thì đâu cần thuyền nữa, muốn đi đâu thì đi, tự do.

Thiền sư Duy Khoan nói: Sãi tôi, 30 năm trước thấy núi là núi, thấy nước là nước. Đến khi gặp thiện tri thức chỉ cho chỗ vào, thấy núi chẳng phải núi, thấy nước chẳng phải nước. Đến khi nhập vào chốn tịch tĩnh y nhiên thấy núi là núi, thấy nước là nước. Lần thấy của 30 năm trước là cái thấy chấp thật của người thế gian, vì chấp thật nên sống mờ mịt trong khổ đau phiền muộn. Lặn ngụp, nổi trôi trong biển khổ. Đến khi gặp thiện tri thức chỉ cho chỗ vào, là được người giới thiệu con thuyền Bát Nhã, mỗi người có khả năng có thuyền Bát Nhã, được chỉ cách ngồi thuyền và cách chèo thuyền Bát Nhã vượt qua biển sóng gió (nghe giảng Bát Nhã, hiểu lý Bát Nhã, áp dụng quán chiếu Bát Nhã vào nội tâm mình). Đến khi thể nhập chốn tịch tĩnh, ngã và pháp không còn, chứng Thật tướng Bát Nhã, trong ngoài một thể nhất như, không còn quán chiếu, không cần thuyền Bát Nhã nữa. Hoàn toàn giải thoát, tự do tự tại, hạnh phúc vô biên.

3. Như vậy khám phá nội tâm hay con đường nội quán bắt đầu từ đâu ? Làm sao để thấy được sự vận hành của nội tâm ?

Tinh thần Tứ Diệu Đế là tuệ giác nội quán và tinh thần Bát Nhã cũng là tuệ giác nội quán. Bước đầu và cũng là phần căn bản trên con đường giải thoát là quay về phát hiện những cảm giác phiền khổ đang xảy ra nơi mình và nhận ra những phiền khổ ấy là do mình vướng vào những gì mình tin chắc chứ không phải do bên ngoài. Suy tư và chiêm nghiệm xem những gì mình tin chắc có phải là những bản vẽ của mình hay không ? Có phải vì mình chấp thật những bản vẽ này mà mình khổ và mình lao đao, lận đận suốt đời cũng vì đem tâm huyết cả đời để thực hiện bản vẽ ? Nhận ra chính mình làm mình khổ chứ không do hoàn cảnh hay ai khác. Cũng như anh bác sĩ trong câu chuyện trên, từ nhỏ đến lớn anh đã tận lực thực hiện bản vẽ của mình (có tiền là có tất cả, có luôn hạnh phúc) và anh say mê, miệt mài thực hiện, khi đến tột đỉnh của thành công, anh cũng vừa ra đi.

Bồ tát Quán Tự Tại dùng tuệ giác chiếu thẳng vào nội tâm, đây là giai đoạn hành trì, mà hành sâu sắc chứ không còn nằm ở phạm trù học hiểu, học hiểu thuộc văn tự Bát Nhã. Nghĩa là, thực hành chứ không phải hiểu suông, nói suông hay chỉ dựa trên hiểu biết rồi buông thả mọi thứ cho đó là hành Bát Nhã, tai hại hơn nữa là hiểu sai lầm rồi chấp cứng chỗ lầm lẫn ấy…

Trong câu chuyện thiền trên đây, vị thiền khách chấp vào “không”, vì chấp không nên ông cho là bốn đại, năm uẩn đều chẳng có, ngay cả mười pháp lành cũng không và ông tin là mình đúng do đó tâm nhân ngã sanh. Ông đến gặp vị thiền sư để khoe chỗ “tu sâu sắc” của mình và đến để tranh biện hơn thua. Khi vị thiền sư dùng thủ thuật kỳ diệu của thiền môn điểm hóa, cái phiền giận sôi bừng lên mặt, đang hủy hoại thân tâm mà ông chẳng nhận ra, thì làm sao ông biết được ông giận là do ông chấp cứng vào cái “không” và chỗ tin mình đúng ? Đây là khổ và nguyên nhân của khổ. Ông mờ mịt như thế làm sao ông thấy được niệm gì dẫn ông tới đối thoại với vị thiền sư và cái tôi gì đang tạo tác ? Những gì đang xảy ra trong nội tâm của vị thiền khách không phải vận hành của nội tâm sao ? Nếu không quay về để ý mình làm sao phát hiện ?

Trong đời, ta cũng vậy, khi cho là mình đúng, mình hay, giỏi ... ta liền chấp thật và tin vào những khái niệm này, thế là ta suy nghĩ, nói năng, hành xử theo những gì ta tin chắc, đến khi gặp những hoàn cảnh hay người khác nói hay làm ngược lại, ta phiền giận trách móc vì ta luôn nghĩ là hoàn cảnh hay đối phương làm mình khổ (chứ không phải do mê lầm, chấp thật nên mình khổ). Vì vậy, ta thường làm mình khổ và người khổ mà không hay biết.

III. Phần kết

Suốt đời, ta đi tìm hạnh phúc nhưng ta lại đi ngược về hướng khổ đau. Nên ta chỉ nhận toàn là niềm đau nỗi khổ, hạnh phúc như máng cỏ tươi treo trước mặt con lừa để nó cắm đầu đuổi theo mãi, hay có chăng là thứ hạnh phúc pha lẫn đắng cay nhưng ta cứ mãi thèm thuồng.

Trong kinh, Đức Phật dẫn một ví dụ: Có một số người bị bệnh phong cùi, họ tách rời xóm làng, sống quấn quýt bên nhau ven một cánh rừng, chung quanh một hố lửa hừng hực cháy. Mỗi lần bệnh phong lên cơn nhức nhối, họ nghiêng người hơ những mụt ghẻ trên hố lửa nóng mà gãi, càng gãi, họ càng thấy “đã” vô cùng. Họ quen tìm vui lúc bệnh phong cùi lên cơn, lúc những mụt ghẻ hành hạ. Một hôm, có người thầy thuốc giỏi, tìm vào chỗ những người cùi này. Ông hỏi:

- Các anh có muốn trị bệnh phong cùi để thân thể an lành, không còn bị hành hạ đau nhức và được tự do sống vui vẻ khắp mọi nơi không ?

Họ hỏi:

- Khi đó có giống như khi bọn tôi hơ và gãi ghẻ trên lửa cho “đã” không ?

Vị thầy thuốc đáp:

- Khi đó những mụt ghẻ không còn, thân thể các anh sẽ lành lặn. an bình.

Những người cùi đều nói:

- Nếu vậy, ông chỉ cần trị cho chúng tôi hết đau nhức, còn những bệnh phong cùi xin giữ lại, để chúng tôi còn được hưởng cảm giác “đã” rất là hạnh phúc đó khi hơ ghẻ trên lửa và gãi …

Mê lầm từ thuở ban đầu nên ta chấp thật vào những thấy nghe, hiểu biết, cho là …, giống như người bị bệnh phong cùi. Những người này lại chấp cứng vào cảm giác “đã” mỗi lần hơ và gãi ghẻ trên lửa, dần dần quên mất mình đã từng đau khổ vì bệnh phong cùi và không còn muốn trị bệnh nữa. Cũng vậy, trong lò lửa nung nấu, bức bách của thế gian, ta tìm vui qua thỏa mãn những gì ta mong muốn, ta đòi hỏi mà quên đi mình đang sống trong lầm mê. Ngày nào còn bệnh cùi là còn đau nhức, rồi hơ lửa gãi cho “đã”, lấy đó làm vui. Không biết niềm vui ấy là mặt khác của lầm mê đau khổ.

Ta có muốn tỉnh ra những mê lầm (cũng như biết mình đang bị bệnh phong cùi, cần phải trị dứt) để hưởng được nguồn hạnh phúc vĩnh hằng trong ta hay không ?…

Đất Mẹ bao tình

- Thích Tánh Tuệ



Có những sớm từng bước chân nhè nhẹ
Ta chợt nghe đất thở dưới chân mình
Nghe cây lá ngạt ngào từ đất Mẹ
Dâng hương đời, thương mến mọi hàm linh

Ta quỳ xuống thật gần ôm hôn đất
Như trọn đời mặt đất chở chuyên ta
Được truyền trao bài học sâu xa nhất
Lòng bao dung, chấp nhận rất nhu hòa

Đời lắm lúc cho ta nhiều biến động
Đất ân cần hiến tặng những mầm xanh
Người mấy độ cho nhau niềm tuyệt vọng
Đất yêu thương dâng trái ngọt, cây lành

Rồi mai đây ta trở về với đất
Nằm nghe chân thiên hạ bước âm vang
Bước yên bình như vỗ về mặt đất
Bước không hồn, vội vã, bước hoang mang …

Bàn tay với đỉnh Vô Thường

- Cư sĩ Liên Hoa


Một ánh trăng, một lời là thuở trước
Bỏ lại tâm tình, dấu vết còn không
Đi trước gió để lắng lòng nhìn lại
Dòng sông xưa, nguồn suối vẫn thân tình

Trong cơn say của cuộc đời với những mộng mị thành hình từ trong tâm tưởng, dệt nên những huyễn ảo, các mộng mơ, … hòa hương dệt vọng vào niệm, dậy lên những sóng cồn cuồn cuộn chảy của nguồn suối Hoa Nghiêm. Tương tức, tương nhập, để thấy em trong từng cuộc nhân sinh, từng cõi lòng không tánh, gỡ bỏ các nối kết để đi vào lòng chân ngôn tự tại. Với đôi tay với cao trên đỉnh vô thường, nghe lại lòng mình chỉ còn là cơn sóng rì rào, bắt gặp lại những tâm tình thuở trước của đứa bé vui đùa trên cánh đồng vô tận, đem thơ vọc vào núi mộng, mây hồng. Thơ từ thuở soi nguồn đó được bay cao lên trên bãi cát trắng mịn, sân đời, lắng lòng vuốt lại mái tóc ngàn phương, kỳ diệu, có lơ thơ những cánh chim mộng đẹp. Cát nằm yên trên mộng, gắp những cánh hạc ẩn chứa trong tâm cho tung bay về khắp mọi phương trời. Ở đâu có tâm, nơi đó có tiếng thơ vụt tỉnh. Ở đâu có con người, ở đó tự có tình tự của bước chân đời thong dong, khi bắt gặp lại màu xuân sắc ta bà, nếm mùi lạ thân thương như hơi thở của ánh trăng tâm buông … bên hồ tâm tĩnh lặng.


Mây hồng, núi mộng thênh thang
Không gian thay áo, lộng nguồn gió mơ
Bàn tay với đỉnh Vô Thường
Bồng bềnh trước ngõ, bên đường gieo thơ

Áo màu xuân sắc Ta Bà
Em mang cho nắng lụa hồng lan man
Thờ ơ xào xạc lá vàng
Cõi lòng sương gió, bên đời tịch liêu

Tóc mềm xõa suối ngàn phương
Lơ thơ từng cánh chim bay lưng trời
Ánh trăng về muôn giữa ngày
Lắng nghe hơi thở suối đài Hoa Nghiêm


Sống để yêu thương

- Thích Tánh Tuệ



Mở Tâm ra trọn với người
Cho tình thương nở ... đẹp ngời đóa Sen
Mở lòng với lạ cùng quen
Cơn mưa Từ Ái nhẹ len vào hồn

Bình minh rồi lại hoàng hôn
Sống chan hòa ... chớ để buồn một ai
Cho, cho đến tuổi đời phai
Mỉm cười đã sống không hoài kiếp ni

Trải lòng Hỷ, Xả, Từ, Bi
Đường về cố quận cùng đi dập dìu
Sẽ không buồn những buổi chiều
Khi mình đã “sống” rất nhiều ban mai

Hòn sỏi – Bước chân

- Sư cô Sùng Nghiêm



Một sớm mai dưới tia nắng chan hòa tại tu viện Bát Nhã, Hòn Sỏi gặp Bước Chân. Hòn Sỏi lên tiếng chào:

- Chào các bạn, các bạn ... các bạn từ đâu đến ?

Bước Chân trả lời:

- Chúng tôi từ nơi an tịnh đến.

Hòn Sỏi chợt nghĩ, lẽ nào lại có một nơi như thế ? Tò mò với những Bước Chân mới đến nên Hòn Sỏi lăn theo những Bước Chân trên triền núi. Đi bên những Bước Chân, Hòn Sỏi tự nhiên cảm thấy an lạc và hạnh phúc nên hỏi tiếp:

- Thế các bạn mang an tịnh này đi đâu ?

Những Bước Chân chỉ mỉm cười, thản nhiên đặt từng bước chân thảnh thơi men theo bờ suối giữa tiếng thông reo vi vu, tiếng suối róc rách và tiếng chim líc ríc trong đất trời bao la. Hòn Sỏi lại càng ngạc nhiên hơn khi Bước Chân không trả lời, nên lại hỏi:

- Có phải các bạn đem an tịnh đi chơi không ?

Bước Chân thấy Hòn Sỏi sốt ruột nên đáp lại:

- Vâng chúng tôi đang dạo chơi cùng với an tịnh, nên chúng tôi sẽ mang an tịnh đến những nơi nào mà chúng tôi đi qua.

Hòn Sỏi chợt nhận ra:

- Té ra lâu ni mình chỉ ham chơi với những bước chân rạo rực. Có những lúc mình vui dưới những bước chân làm mình lăn lông lốc, và cũng có những lúc mình buồn khi bước chân muộn phiền đá mình văng tung tóe. Chỉ có những bước chân thảnh thơi của hôm nay mới giúp mình nhận ra rằng hạnh phúc làm sao khi được đồng hành theo từng bước chân an tịnh.

Hòn Sỏi dừng lại và cảm nhận thật sự an lạc nơi tự thân dù những Bước Chân đã đi xa.

Khuyên em

- Sưu tầm



Ngước mặt lên em …
Nhìn thẳng cuộc đời !
Vì đời là bể khổ chơi vơi
Thương em, tôi chỉ đường đi tới
Cố gắng tự mình bước đến nơi

Em nên nhìn lại giữa biển khơi
Trầm luân khổ não biết bao người
Bởi mê nên nhận lầm vọng tưởng
Quên đi chân tánh vốn rạng ngời

Thức tỉnh đi em ...
Giữa những dòng đời !
Đừng nên ủy mị quá em ơi !
Hoa kia đâu có hai lần nở
Kiếp người nào phải một trò chơi

Kiếp người đâu có được thảnh thơi
Khuyên em nên chớ có buông lơi
Mà phải chuyên cần lo vun xới
Cho hoa Bát Nhã mọc phương trời

Giấc mộng vô thường

- Cư sĩ Liên Hoa


Ngủ đi em, bỏ mộng vô thường
Ai đem hương gió đi về nơi nao
Áo xưa màu sắc tàn phai
Trong ta ngày tháng vẫn đầy tử sinh
Thiên thu thức giấc niệm kinh
Chân tâm vẫn bước nguyên trinh buổi đầu
Tóc bay mây khói ngàn sau
Phù du cảm niệm, cánh hoa vô cùng …
(Trích trong: “Người đi tìm trăng giữa ngày”)

Có phải hương là sắc, để cho sóng gió phù du đưa đời đi hoang trên vạn nẻo đường trần. Sống … thì là ai mà không biết sống, vì với điệp khúc gần như thân thương yêu đời này, cũng là định danh cho mỗi người đều mang theo mình nghiệp lực sanh tử để đối diện, đi tìm chân thường trong vô thường ảo hóa.

Bàn tay ngũ uẩn vẫn tròn trịa theo năm tháng, để chúng ta hóa Ba thân trong mọi ứng xử, mọi hoạt cảnh, … có khổ đau, có bất hạnh, có dày vò, có nước mắt, … nhưng cũng nói lên những niềm kiêu hãnh, sự kiên định, tinh tấn, nhẫn nhục, sảng khoái trong mọi trạng thái làm đổi thay của đời sống, vì chính chúng ta chứ không phải ai khác, làm chủ vận mệnh của mình trên ván cờ đi tìm hạnh phúc.

Nếu chúng ta chạy trốn, tìm lãng quên bằng mọi hình thức, mọi nơi chốn nào đó, dù cao sang quyền quý, dù là vong thân trong các ảo ảnh, để an ổn giả tạm, che giấu “mặt mũi của người tình muôn thuở” … thì cũng chỉ là biểu lộ sự thiếu tự tin, thiếu tình yêu, thiếu tâm Bồ Đề,... vì không tin vào chính mình có khả năng đạt được hạnh phúc, đạt được Tánh Phật. Như vậy, chúng ta lại tạo nên bi hài kịch cho cuộc nhân sinh của mình để làm khách phong trần lang thang, không bờ bến và không thể có hạnh phúc đích thực được.

Tin và Yêu, mới có thể nhẫn nhục chuyển hóa cuộc đời, mới khơi dậy được tâm Bồ Đề dấn thân vào mọi nơi chốn, dù là có bao nhiêu nghịch cảnh trái ngang … mới hoàn thành được Tánh Thiện, nếm được hương vị kỳ diệu của hạnh phúc. Vì thiếu hai yếu tố căn bản đơn giản này, ta lại phải tái sinh trong những vọng tâm biến hóa, mất chính mình như hạt sương rơi trên đỉnh cao của đời sống, còn lại chăng là bọt nước rong chơi, khổ đau, chạy đi tìm ta.

Ồ em, bọt nước trùng dương
Ai đem hương đó, gởi vào tâm non
Vô tình ta thở ngàn sương
Thấy nhau khuya sớm, lời son mặn mà

Chưa bao giờ tâm bỏ tâm, dù là bọt nước trùng dương cay ngọt, nhưng trong tâm non xưa, tâm vẫn hằng vậy, một khi hương thơm của vô lượng kiếp huân tu đã in hình trong tâm non, để rồi một lúc nào trong hơi thở vô thường, ta nhìn thấy được mặt mũi của em vẫn đẹp, xinh tươi, mặn mà, trong khuya sớm … Tâm có bao giờ xa và lìa bỏ tâm, chỉ có chúng ta vô tình quên mất với chính mình.

Hạnh phúc thật đẹp vẫn thường cười, nở hoa trong tâm của mọi người, nhất là người con Phật, vì được chỉ dạy thực tập, sống thực với tâm - với tấm lòng - với vô ngôn … vì càng dậy sóng lên bằng ngôn ngữ, bằng lời nói, bằng mọi từ ngữ để giả danh nào đó, thì chỉ làm thực tại xa lìa, cách xa muôn trùng dặm, và chúng ta đau khổ bám chấp theo những hão huyền vô vọng, và dù có sóng gió bao nhiêu, dù là cuồng phong, nghịch cảnh … thì vẫn là chất phù sa ươm mầm cho Giới, cho Định, và Tuệ khởi sinh. Ai muốn biết hạnh phúc chân thật, hãy tìm đến khổ đau, chẻ rời ra để tìm thấy bản chất thực của khổ đau, như “phiền não tức bồ đề”.

Bàn tay son thật đẹp
Năm ngón mở bầu trời
Em về nơi gió cát
Bụi phấn phiền não rơi

Ta ôm đời phiêu lãng
Nghe vọng lời kinh thương
Trăm năm, ngồi núi rộng
Bao giờ giở tâm kinh ?

Vận chiếc áo vô thường
Vào đời ta tọa niệm
Năm sắc ảo huyền rơi
Chốn nào, em về nơi

Trong ta đời luân vũ
Ngọt ngào cõi tâm xưa
Bao lần ta mời gọi
Ngữ ngôn, từng hạt mưa …

Trong luân vũ của đời sống, cõi tâm xưa vẫn đẹp, lòng son. Chúng ta hãy mời gọi nhau, bỏ đi ngôn ngữ khách sáo, tạo hình, giả dạng, không thủy chung … để cho tất cả rụng rơi như những hạt mưa sa giữa cõi đời, để còn lại chăng là một tấm lòng Tin và Yêu dâng tặng cho nhau. Cuộc sống của con người có phải chăng đẹp và có ý nghĩa hơn, giữa biết bao nhiêu bất hạnh vẫn luôn luôn giành giựt, phủ lấp trên thân phận con người.

Ghi lại những suy tư khởi từ tâm non của một người con Phật … khi đối diện với biết bao nhiêu vấn nạn ...

Trăng

- Diệu Linh



Trăng xưa vằng vặc khuôn rằm
Theo đường tay chỉ chân tâm đi tìm
Bao phen hư vọng ảo huyền
Lấp che diệu tánh, ẩn chìm bản lai

Đời chia trăm nhánh trần ai
Trơ vơ kiếp trược, lạc loài tử sinh
Nửa vầng khuất bóng vô minh
Nửa còn treo giữa lênh đênh sa mù

Vạch màn tháo bức thâm u
Sáng soi thật tướng, thiên thu thường hằng
Ngón tay không phải là trăng
Trong ta, ta thắp một vầng viên dung

Một mình

- Ngọc Bảo


Buổi sáng một mình đi bộ trên con đường ngập cây lá đã thành một thói quen không thể thiếu của tôi. Cũng là một nhân duyên, trước đây lâu lắm rồi, nơi tôi ở chỉ cách khu này chừng vài block đường, thỉnh thoảng có dịp đi ngang thấy có cảm tình với khung cảnh ở đây, nhưng không bao giờ nghĩ là sẽ có ngày dọn về đây ở. Thế mà, như có sự xếp đặt, chỉ một ít năm sau tôi đã về sở hữu một căn nhà trong khu này, mặc dù là căn nhà nhỏ nhất …

Bốn mùa xuân hạ thu đông tôi đã đi qua những lối đi uốn khúc bên ngoài những ngôi nhà xinh xắn, qua công viên bát ngát cỏ xanh, gặp những bóng dáng quen thuộc, dù trời nóng hay lạnh, trong ánh nắng lung linh hay dưới mây mù bao phủ. Mùa xuân đang đến cho hoa nở rộ, trong những mảnh vườn nhà những đóa freesias đủ màu đang tưng bừng khoe sắc bên cạnh những cụm azaleas tươi thắm, những luống hồng rực rỡ. Khu phố này lúc nào cũng tĩnh mịch như tờ, lâu lâu mới thấy có một bóng người hay một chiếc xe đi ngang. Không gian hoàn toàn tĩnh lặng, chỉ có một mình ta với ta - nhưng cũng ngập tràn bình yên, đầy đủ trong sự hòa điệu cùng thiên nhiên. Sự hài hòa của không gian yên tĩnh và những âm thanh của tiếng gió rì rào, tiếng lá cây xào xạc, tiếng chim hót líu lo, tiếng chó sủa, cũng như tiếng bước chân và ... tiếng nói trong tâm.

Con người ta thường rất sợ cô đơn, một mình. Thế nhưng có những lúc một mình lại là lúc an bình và thanh thản nhất. Suy cho cùng thì chúng ta sinh ra một mình, chết đi cũng một mình, và có những nỗi niềm không thể diễn tả cùng ai, chỉ có một mình mình biết. Thế thì tại sao không tập làm quen sống một mình, hay nói cách khác, sống với chính mình ? Có thể vì chúng ta không biết “mình là ai” và cảm thấy bất an, sợ hãi trước sự bất minh ấy. Câu hỏi muôn thuở “ta từ đâu tới và đi về đâu” không bao giờ có câu trả lời rõ ràng nhất định, mà phải mỗi người tự tìm ra cho mình. Chính những lúc ở một mình, không bị cuốn theo những cảnh tượng xôn xao bên ngoài, ta mới có dịp để nhìn lại chính mình, hay nói đúng hơn, trở lại với tâm mình. Tâm ta lúc nào cũng ở đó, như ngôi nhà quen thuộc bị bỏ quên, hay như người bạn tri kỷ nhưng không bao giờ được biết đến.

Tôi chợt nhớ đến những lời phiếm luận gần đây của một nhóm bạn về chữ “tri kỷ”. Tri kỷ như Bá Nha và Tử Kỳ, một người đem tâm sự trải vào tiếng đàn mà chỉ người kia mới có thể thấu hiểu được tâm sự ấy. Khi không còn người kia, tiếng đàn cũng không còn ý nghĩa. Nỗi niềm biết tỏ cùng ai ấy thật là ai oán. Và chỉ khi có nỗi niềm người ta mới muốn có tri kỷ. Nỗi niềm của Nguyễn Du đã được gởi gắm vào những nhân vật hồng nhan đa tài mà đa truân bị đời vùi dập, qua những lời than thở:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
( Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang )

Để rồi cảm khái cho chính mình:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
( Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời có ai khóc Tố Như ? )

Thiên hạ bao la, nhưng trên đời này có mấy ai gặp được tri kỷ, để nhiều lúc phải cười đau khóc hận, ôm mối tâm sự một mình. Thế thì đi tìm tri kỷ cũng như tìm trăng dưới bóng nước, nếu có gặp được cũng chỉ là một cái duyên, có hợp rồi có tan, như tất cả những nhân duyên trên cõi đời này. Dù có gặp được tri kỷ, mỗi người cũng vẫn là một thế giới cách biệt, có cảm thông cũng chẳng làm gì được cho nhau, vì ai nấy đều phải sống cuộc đời của mình, đối diện với những vấn đề của mình, không ai có thể cảm nhận được hoàn toàn những điều người khác cảm nhận. Mặc dù vậy, nếu biết hiện tại có một người tri kỷ, dẫu người ấy ở xa ngàn trùng, cũng cảm thấy ấm lòng.

Nếu xây đắp hạnh phúc hay sự an lạc của mình trên những đối tượng bên ngoài hay những gì do duyên hợp, chắc chắn sẽ không khỏi có lúc buồn đau hụt hẫng, bởi vì những gì do duyên hợp đều phù du huyễn ảo như giấc mộng, như bọt nước, như sương rơi. Trên thế giới này, tất cả mọi thứ đều luôn luôn chuyển biến, và con người cũng không ngừng thay đổi, không bao giờ đứng lại một chỗ. Vì vậy, những vấn đề của ngày hôm qua có thể không còn là vấn đề của ngày hôm nay, và những nỗi niềm ôm ấp lâu nay đến lúc nào đó sẽ nhạt nhòa phai tàn cùng với thời gian. Tri kỷ ngày hôm nay có thể không còn là tri kỷ của ngày mai. Có những người bạn trước đây thật thân thiết nhưng ngày nay gặp lại nhiều khi cũng chỉ trao đổi vài ba câu chuyện rồi đường ai nấy đi, vì hoàn cảnh đã thay đổi, tâm tình cũng không còn như xưa.

Một lúc nào đó, dù có một đời sống thế nào, hạnh phúc hay đau khổ, may mắn hay bất hạnh, chúng ta cũng sẽ chỉ còn lại một mình, đối diện với chính mình. Nếu chưa bao giờ biết sống một mình, chắc hẳn sẽ có rất nhiều bất an và phiền muộn, không biết làm gì cho lấp đầy khoảng trống. Biết sống một mình không có nghĩa là xa lánh đời, xa lánh người mà chỉ biết đến mình. Sống một mình như vậy chỉ là theo hình tướng, nếu thực chất vẫn còn đầy vô minh phiền não thì cũng chẳng ích gì. Biết sống một mình là ý thức được sự huyễn hóa trong cuộc đời và đi tìm sự thường hằng an lạc nơi chính mình, qua sự tìm hiểu khai phá thân và tâm mình. Tập trung tư tưởng trong sự thấy biết thân và tâm, cảm nhận sự sống hiện tại qua từng hơi thở, từng niệm khởi đến đi là trở về với Tánh Giác thường hằng sẵn có. Và từ nền tảng bao la của Tánh Giác đó, những năng lực chuyển hóa mầu nhiệm có thể được phát khởi, cho ta sức mạnh nội tại để có thể an nhiên vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc đời.

Trong kinh Phật có kể chuyện một vị Tỳ Kheo khất sĩ lúc nào cũng thích sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai một mình, ngồi thiền một mình, không giao du hòa nhập với các Tỳ Kheo khác trong Tăng chúng. Đức Phật nghe kể lại mới gọi ông đến hỏi rằng:

- Nghe nói ông thích sống một mình, vậy ông sống một mình như thế nào ?

Khất sĩ đáp:

- Bạch Thế Tôn, con chỉ sống một mình một nơi, ca ngợi hạnh sống một mình, một mình đi khất thực, một mình ra khỏi xóm làng, một mình ngồi thiền, thế thôi.

Phật bảo:

- Ông đúng là người thích sống một mình - tôi không nói vậy là không phải - nhưng tôi biết có một cách sống một mình thật là mầu nhiệm. Đó là sự quán chiếu thấy rằng quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới, nên an nhiên sống trong hiện tại mà không vướng mắc vào những ước vọng ràng buộc. Người thức giả sống như thế, tâm không do dự, bỏ hết mọi lo âu hối tiếc, xa lìa mọi tham dục trên thế gian, cắt đứt những sợi dây ràng buộc lôi kéo mình. Đó gọi là thực sự biết sống một mình. Không có cách nào sống một mình mầu nhiệm hơn thế được.

Rồi Thế Tôn nói bài kệ như sau:

Quán chiếu vào cuộc đời
Thấy rõ được vạn pháp
Không kẹt vào pháp nào
Lìa xa mọi ái nhiễm
Sống an lạc như thế
Là biết sống một mình

Như vậy, sống một mình tức là sống an vui tự tại vì đã thấy rõ được bản chất hư ảo của cuộc đời, nên xả bỏ cái Ngã đầy chấp trước si mê, nguồn gốc của mọi phiền não đau khổ. Điều nghịch lý kỳ diệu là người biết sống một mình lại chính người là biết quên mình đi, như thiền sư Đạo Nguyên nói:

Học đạo là học về tự ngã
Học về tự ngã là quên đi tự ngã ...

Có những người sống trong cảnh cô độc nhưng không cô đơn, lúc nào cũng an nhiên tự tại, vì họ đã có một niềm tin để nương tựa. Niềm tin đó có thể là nơi một năng lực tối cao nào đó, có thể là nơi chính mình. Những người tu niệm Phật có thể chuyển hóa được tâm thân, có sức mạnh vượt qua những hoàn cảnh khó khăn đau khổ. Những người quen tu Thiền quán chiếu tâm có thể khai phát được khả năng tự biết mình của trí tuệ Bát Nhã thấu suốt, từ đó có cái nhìn chánh kiến đối với những gì đến và đi trước mắt. Và trong quá trình trở về tâm đó, một lúc nào đó bỗng khám phá ra một người bạn tri kỷ từ muôn kiếp ở ngay nơi tâm mình. Người ấy chính là ta, vì đã trải qua tất cả những gì ta đã trải qua, cảm nhận tất cả những gì ta đã cảm nhận, nhưng không phải là cái ta của vô minh phiền não, mà là một hiện hữu không hình không tướng, không sanh không diệt, tách rời khỏi thân tâm vô thường hoại diệt đầy những cảm xúc hỷ nộ ái ố này. Người ấy bao la như hư không, trước khi ta sinh ra người ấy đã có mặt, và khi thân này trở về với cát bụi, người ấy cũng không mất đi. Đại sư Sogyal Rinpoche nói rằng mỗi khi ngồi thiền là cảm thấy vui mừng hoan hỷ như gặp lại được một người bạn thân từ thuở nào. Người ấy vẫn ở cạnh ta từ lâu nay, nhưng ta không bao giờ biết đến vì mây mù của vọng tưởng che khuất. Chỉ khi nào thức tỉnh, tâm đã trong sáng, ta mới nhận ra rằng thật ra người ấy vẫn hiển lộ với ta từng giây từng phút, qua Tánh Giác thường chiếu, qua “tiếng nói Lương Tri” nhắc nhở làm lành lánh dữ, giữ thân tâm thanh tịnh để không gây tạo nghiệp báo oan khiên. Ngộ được người ấy nơi chính ta là tìm lại được người chủ cho căn nhà thân tâm của mình đã bị bỏ hoang phế từ lâu nay, và có được một nguồn an trú bất tuyệt để có thể sống tự tại ngay trong vòng ảo hóa của tử sinh.

Một thiền sư đã có bài kệ như sau:

Đừng nhờ ai tìm kiếm
Lần hồi lơ với Ta
Giờ một mình Ta bước
Đâu đâu cũng gặp mi
Nay mi chính là Ta
Ta không phải là mi
Nếu hiểu được như thế
Mới gặp đúng Như Như ...

“Khi chưa ngộ thì ta không phải là Người ấy, nhưng khi ngộ rồi thì Người ấy chính là ta. Khi chưa ngộ thì chúng sanh không phải là Phật, khi ngộ rồi thì Phật chính là chúng sanh.” Biết được như vậy thì ta có thể sống tự tại thoải mái với chính mình, dù trong chốn thâm sơn cùng cốc, hay ngay giữa đám đông ồn ào náo nhiệt. Đó là cách sống một mình mầu nhiệm nhất.

Là ai ?

- Thích Tánh Tuệ



。。。 Bạch thầy, con là ai ?
Con là một đứa con lai
Nửa lai Đức Phật, nửa lai Ta Bà
Con là nửa trái me già
Nửa kia còn lại thì là ... chôm chôm
Cuộc đời con thích ôm đồm
Hăm tám ngày mặn, hai hôm muối mè
Bữa thì mặc áo hoa hòe
Đến ngày vía Bụt ... ấp e lam hiền
Nửa mê cái cảnh chùa chiền
Nửa mê đi shop, mê tiền, mê yêu
Con là thập cẩm, đủ điều
Nửa thương đức Phật, nửa ... thương nhiều “người ta”

。。。 Thế thầy là ai ?
Thầy đây là cái chổi chà
Quét chùa cho sạch, quét ra ngoài đường
Quét chợ rồi quét phố phường
Quét cả vui buồn mới rụng sáng nay
Quét lòng thế nhiễm đắm say
Quét cho tàn cuộc mộng này mới ngưng
Quán đời, thầy chỉ người dưng
Chỉ là hạt bụi đường trần rong chơi
Chừng nào con được thảnh thơi
Thầy trao nghề quét ... cho đời nó thong dong

Sầu vương mớ tóc

- HT. Thích Quảng Độ



Mưa thu rả rích, trời thu ảm đạm một màu, thỉnh thoảng một trận gió ào ào lùa qua khóm lá. Con đường mòn dẫn đến đỉnh núi gập ghềnh, khúc khuỷu, nằm im lìm giữa những lùm cây rậm rạp. Một người lữ hành, đầu đội chiếc nón lá, đang lủi thủi bước những bước nặng nề đi lên. Bốn bề vắng lặng, những hạt mưa đập vào nón chàng, phát ra những tiếng lộp độp buồn tẻ.

Vóc người chàng cao và gầy, chiếc nón trùm lên đầu chàng và che luôn cả tuổi tác, nên người ta không nhận ra chàng là một ông già hay một người trẻ tuổi. Người ta chỉ biết chàng đang dầm mưa nhắm thẳng ngôi chùa trên đỉnh núi tiến lên. Ròng rã hai mươi năm qua, chàng đã đặt chân đến nhiều cảnh chùa, ai ngờ một người kép hát lại có thể là một tín đồ Phật giáo kiền thành, song vẫn chưa ai hiểu được nguyên nhân thầm kín khác.

Chàng bỏ chiếc nón xuống, để lộ ra một mái tóc ngắn, mượt và đã gần trở thành màu hoa râm. Chàng kính cẩn đến quỳ trước Phật đài, chắp tay nhìn lên Đức Từ Tôn và đôi môi chàng khẽ run run. Khoảng năm phút sau, chàng từ từ đứng dậy, đi đến chỗ để quyển sổ ghi công đức và nâng cây bút lên, chàng đề tên mình vào cuốn sổ. Buông cây bút xuống, chàng đưa mắt nhìn lơ đãng, cặp mắt sáng đẹp như có sức thu hút người ta, nhưng cũng chứa đựng một nỗi u buồn khó tả.

Rồi như không để ý đến mưa gió, chàng nhấc chiếc nón lên, nhưng bỗng mắt chàng dừng lại trên hình tượng Đức Phật một lần nữa. Chàng tiến đến Ngài, đăm đăm nhìn Ngài và đưa ngón tay dài nhỏ sờ vào bàn tay của Ngài. Một lát sau, chàng từ từ rút tay ra. Khi quay lại, chàng thấy một ni cô đang đứng sau chờ chàng lui ra để vào thắp hương. Chàng vừa đi được mấy bước thì bỗng nhiên như có sức gì lôi chàng ngoảnh lại, hai cặp mắt nhìn nhau kinh ngạc, chiếc nón rơi khỏi tay chàng, chàng xăm xăm bước tới quỳ xuống bên chân ni cô:

- Lan Hương ! Lan Hương ! Đã hai mươi năm rồi, bây giờ anh mới tìm thấy em.

Ni cô lùi lại mấy bước, cau mặt nhíu mày và cố trấn tĩnh. Một hồi lâu, với giọng chìm và nặng, ni cô khẽ nói:

- Con người tất cả đều do duyên nghiệp định đoạt, chúng ta hãy vui vẻ nhận lấy. Anh … đi mau đi !

- Không ! Không ! Sao em tàn nhẫn thế ? Em có thể đuổi anh đi ? Anh tìm em đã hai mươi năm trời, thời gian hai mươi năm ngắn ngủi lắm sao ? Lan Hương, em còn nhớ rặng tre năm xưa không ? Em quên phiến đá ấy rồi à ? Không biết bao nhiêu lần chúng ta đã ngồi và nô đùa trên phiến đá ấy. Và cũng bên cạnh phiến đá ấy, chúng ta đã nguyện ước trăm năm …

- Tôi đã hiến thân cho Phật pháp, đã hiểu rõ lý duyên sinh. Tôi đã phát nguyện noi theo tinh thần đại từ đại bi của Đức Phật, làm việc cứu độ mọi người, mở rộng lòng thương yêu tất cả … Hai mươi năm qua, tôi vẫn còn cất giữ một vật nhỏ, hôm nay có thể đưa cho anh mang về và coi như mối trần duyên của chúng ta đến đây là chấm dứt !

Nói xong, ni cô phủi áo và nhẹ nhàng lướt vào hậu cung. Chừng mười phút sau, ni cô trở ra, tay cầm một gói giấy, phía ngoài buộc bằng một sợi băng lụa màu lam. Ni cô trao cho chàng:

- Đây là vật ngày trước anh muốn và tôi cũng đã bằng lòng cho anh. Bao nhiêu năm qua, tôi vẫn giữ bên mình. Hôm nay, điều ước mong duy nhất của tôi đã đến, đó cũng là nhờ sức giúp đỡ của các vị Bồ Tát. Song tôi xin anh về đến chỗ trọ hãy mở ra xem. Anh có bằng lòng thế không ?

Giọng ni cô bình tĩnh và nghiêm trang. Chàng gật đầu và run rẩy, lòng chàng se lại. Chàng đưa tay ra đỡ lấy gói giấy:

- Lan Hương, hãy về với anh ! Chúng ta không nên chối bỏ hạnh phúc để rước lấy khổ đau. Chúng ta còn có hy vọng, có tình yêu và tương lai của chúng ta còn dài. Em đừng vội chán nản cuộc đời.

- Tôi đã tin Chư Phật và Bồ Tát, tin luật nhân quả. Tôi sẽ vui lòng nhận tất cả những gì rủi ro và đau khổ. Trước kia, tôi cũng như anh, thường phán đoán một cách nông nổi và chủ quan. Tôi cũng đã cho rằng những người “đem mình gởi chốn am mây” là những người ru hồn trong cõi mộng, là những kẻ chán đời và trốn tránh thực tế. Nhưng nhờ sự học hỏi, tìm hiểu và sống theo giáo lý trong hai mươi năm qua, tôi thấy rằng đạo Phật không phải là đạo chán đời như người ta thường lầm tưởng, mà trái lại những người tu theo Phật giáo Đại Thừa là những người yêu đời vô cùng ! Nếu nói đạo Phật chán đời thì chưa đủ. Phải nói rằng đạo Phật chán cuộc đời nhơ nhớp xấu xa, cuộc đời ích kỷ đê hèn và tham lam ngu dại, song đối với cuộc đời trong sạch sáng suốt, cuộc đời vị tha cao cả thì đạo Phật rất thiết tha yêu mến. Thôi đến giờ rồi, xin phép anh tôi đi vào.

Dứt lời, ni cô chắp tay chào chàng, rồi cúi đầu đi vào phía sau Phật điện. Chàng bước theo:

- Đừng ! Lan Hương ! Anh van em, hãy về với anh !

- Tuấn Khanh ! Tôi đã nói duyên phận của chúng ta đã hết, tất cả đều qua rồi !

- Không thể qua được ! Em hãy nghe anh nói đây …

- Nói gì ? Thôi, sáng mai anh trở lại vậy, lúc đó hãy nói ! Giọng ni cô lạnh nhạt.

- Anh không thể đợi đến ngày mai, anh đã sống trong đau khổ và sầu muộn qua bao nhiêu cái ngày mai rồi ! Lan Hương ! Giọng chàng cảm động. Ròng rã hai mươi năm trời, có lúc nào em nghĩ đến cuộc sống của anh ra sao không ? Anh cũng chỉ tin tưởng ở Phật và Bồ Tát, tin ở nghiệp duyên. Anh đã theo gánh hát đi khắp các thành thị. Anh chú ý đến từng người qua lại, song không có em, lúc đó em ở đâu ? Lan Hương, cuối cùng anh chỉ còn biết đến các chùa lễ bái, xin Chư Phật và Bồ Tát chứng giám tấm lòng thành khẩn của anh. Giờ đây, anh đã tìm được em, sao em nỡ hắt hủi anh như thế ?

Ni cô mím chặt đôi môi khô héo và đứng lặng người dưới bóng hình tượng Đức Phật.

- Lan Hương, hãy theo anh về, anh chỉ muốn lúc nào cũng được sống bên em, thế là đủ rồi ! Hiện giờ, không còn ai ngăn trở chúng ta nữa. Anh sẽ đưa em đi lễ Phật, đi du ngoạn các nơi. Chúng ta sẽ ngồi trên phiến đá nhẵn bóng ấy để nói chuyện và cười đùa như những năm xưa. Lan Hương, hãy nói đi, tại sao em cứ yên lặng ?

Đứng trước mặt người yêu đã xa cách hai mươi năm trường, tình cảm trong lòng chàng dào dạt như sóng biển. Cõi lòng của ni cô như một quả núi, không một sức gì của người đời có thể làm rung động. Ni cô khẽ đáp:

- Độ mười giờ sáng mai, anh trở lên đây, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều. Giờ xin lỗi anh cho tôi đi vào.

Dứt lời, ni cô chuyển bước, lách mình qua cửa nách phía sau Phật điện để xuống nhà dưới. Chàng vội đi theo, nhưng vừa đến cửa thì một vị sư ni già bỗng xuất hiện.

- Đàng sau không tiện vào, xin ông dừng lại ! Giọng vị ni già nghiêm nghị và như ra lệnh.

- Tôi vào tìm Lan Hương. Lan Hương là em họ của tôi.

- Người tu hành có bổn phận riêng. Mời ông hãy ra ngồi phía ngoài uống nước.

Vị sư già gầy guộc đứng chắn ngang lối đi của chàng như một bức tường sắt. Chàng đành nén tình cảm xúc động và ôm niềm hy vọng chờ đến ngày mai. Chàng nắm chặt lấy gói giấy, lặng lẽ bước ra khỏi Phật điện và thất thểu đi xuống núi. Chàng quên cả chiếc nón, quên cả mưa dầm. Tâm hồn chàng lúc ấy đã hoàn toàn bị hình ảnh của người mặc chiếc áo màu khói hương ngự trị, hình ảnh trang nghiêm và lãnh đạm làm sao !

Về đến nhà trọ, chàng vào thẳng phòng, đóng chặt cửa lại rồi hồi hộp cởi dải băng lụa buộc ngoài gói giấy. Chàng dần dần nhận ra đó là vật mà hai mươi năm về trước chàng đã tặng nàng nhân dịp sinh nhật mười tám tuổi. Tim chàng bắt đầu đập mạnh, bàn tay chàng run rẩy mở từng vòng băng lụa màu lam cũ kỹ, những vòng lụa xổ ra đến đâu thì chàng có cảm tưởng như từng khúc ruột của chàng cũng đang đứt theo. Cuối cùng, gói giấy được mở tung ra, trong đó có một lọn tóc dài cuộn tròn kèm theo một hàng chữ nhỏ: “Đây là mái tóc của em, nếu có ngày nào được giao đến tận tay anh thì coi đó là chút duyên phận cuối cùng của chúng ta.” Chàng bùi ngùi đau đớn nhìn lọn tóc và hàng chữ. Những việc quá khứ lại lần lượt diễn ra trong ký ức của chàng.

。。。

Hồi ấy, chàng mới mười hai tuổi và vẫn còn học tiểu học. Một lần hết niên học, nhà trường tổ chức một buổi kịch nghệ. Lan Hương, bạn cùng lớp và cũng là em con cô con cậu của chàng, kéo chàng đi để cùng đóng vai tiên nữ với nàng, vì đến giờ trình diễn thì trong số nữ diễn viên thiếu một người bạn gái của nàng. Song một việc không ngờ đã xảy ra là chàng cải trang trông rất đẹp. Trên sân khấu, chàng nhảy múa mềm mại, uyển chuyển giống hệt như một cô con gái. Từ thầy giáo và phụ huynh cho đến các học sinh trong trường đều vỗ tay hoan hô khen ngợi chàng, chàng cảm thấy niềm sung sướng tràn ngập lòng. Từ đó, đối với những động tác và phục sức của phái đẹp, chàng càng ngày càng có hứng thú. Ai có ngờ đâu buổi biểu diễn tình cờ ấy đã quyết định lẽ sống và nghề nghiệp của đời chàng. Hai năm sau, cha mẹ chàng kế tiếp nhau qua đời. Một mình côi cút, không nơi nương tựa, chàng được đưa đến một đoàn hát lưu động để chính thức xin học nghề. Nhờ thông minh và có biệt tài, thêm vào đó là nhờ có cảm hứng và sức cố gắng nên chỉ trong vòng năm năm, chàng đã trở thành một nghệ sĩ rường cột của đoàn và đi trình diễn khắp nơi.

Song tính tình chàng trở nên trầm mặc. Mỗi khi tan buổi hát, chàng thường ngồi một mình suy nghĩ đăm chiêu như thả hồn vào cõi mộng. Trong những giờ phút ấy, cõi lòng chàng là một bãi sa mạc hoang vu trống lạnh. Người duy nhất có thể mang sinh thú đến cho chàng là Lan Hương. Nàng yêu chàng, hiểu chàng, an ủi chàng và sẵn sàng trở thành người bạn đồng hành trên con đường đời của chàng sau này, nhưng liệu chàng có xứng đáng không ? Một anh kép hát có thể nào kết hôn với một nữ sinh trung học con nhà giàu có ? Tuy cha mẹ Lan Hương là cậu mợ của chàng, song từ khi chàng gia nhập đoàn hát để kiếm miếng ăn, họ đã khinh rẻ chàng, thậm chí còn tỏ ra không muốn cho chàng đi lại với Lan Hương, nhưng chàng và nàng không thể chịu đựng được ! Trái lại, nếu có cơ hội gặp gỡ, họ không bao giờ bỏ qua. Do đó, họ càng lén lút hẹn hò nhau. Nỗi khổ tâm của họ càng sâu xa thấm thía, càng đau khổ bao nhiêu thì tình cảm của họ càng trở nên chân thành bấy nhiêu ! Họ yêu đương trong một hoàn cảnh cực kỳ tàn ác.

Một buổi chiều mùa hạ, chàng vừa vượt qua hai trăm cây số từ một thành thị nọ trở về. Chàng không đi đâu, chỉ đến thẳng rặng tre xanh bên bờ sông, ngồi trên phiến đá để đợi chờ. Chàng không dám về nhà cậu mợ. “Con gái tôi đâu có thể lấy một thằng kép hát ”, câu nói ấy đã như một mũi kim xuyên vào trái tim chàng từ lâu và hiện giờ vẫn còn đau nhói. Chàng ngồi trên phiến đá, hy vọng được gặp Lan Hương để trao tận tay nàng một vật mà chàng mang về tặng nàng nhân dịp sinh nhật, rồi lại lên đường trở về đoàn hát, trở về với ánh đèn màu trên sân khấu. Chàng hồi hộp phóng tầm mắt nhìn đám nữ sinh đang từ xa tiến tới. Chàng thấy Lan Hương khoác tay bạn nàng, nói cười vui vẻ. Ánh chiều tà còn rớt lại rọi vào mặt nàng, làm cho cặp má tròn trĩnh của nàng ửng hồng như trái dâu mọng đỏ, mái tóc dài, óng mượt, đen huyền chảy xuống hai bờ vai, chiếc mũi cao, thẳng, đôi mắt trong sáng và thân hình uyển chuyển. Tất cả đã tạo nên cho nàng một vẻ đẹp dịu dàng và quyến rũ. Chàng nhìn Lan Hương chằm chặp, nhìn ý trung nhân của nàng, chàng có cảm tưởng như tình yêu và hạnh phúc đã tuột khỏi tay chàng, đã rời xa chàng và người nắm bắt được Lan Hương, hình ảnh của hạnh phúc, nhất định sẽ không phải là chàng. Chàng, một anh kép hát chỉ mơ ước viển vông mà thôi !

Tà áo thướt tha và cặp mắt đen láy đã hiện ra gần trước mặt chàng, lòng chàng rạo rực, không che giấu được niềm hân hoan vui sướng, chàng khẽ cất tiếng gọi một cách bẽn lẽn:

- Lan Hương !

- Ai gọi ? A, Tuấn Khanh !

Lan Hương buông tay bạn ra, rồi vừa ngạc nhiên vừa sung sướng, chạy đến trước chàng:

- Sao anh lại về vào giờ này ? Sao không viết thư cho em biết trước ?

- Anh không kịp viết thư, nhưng thế này không thích hơn à ?

Chàng nhoẻn miệng cười, duyên dáng như một cô con gái. Song khi chàng vừa ngẩng đầu nhìn lên thì vẻ tươi vui trên khuôn mặt chàng vụt biến mất. Chàng thấy các bạn của Lan Hương đứng xa xa cười cợt và chế giễu. Chàng nghe thấy tiếng họ văng vẳng: “Anh kép hát, bạn trai thân nhất của con Lan Hương đó ! Nghe đâu tụi nó có họ hàng với nhau mà ! Từ nhỏ đến lớn, hai đứa vẫn sống chung với nhau thôi ! Con Lan Hương thật vớ vẩn ! Sao lại đi làm bạn với một anh kép hát thế không biết, hay là mê anh ta rồi ? …”

- Anh sao vậy, Tuấn Khanh ?

Lan Hương thấy vẻ buồn hiện lên nét mặt chàng, nhưng khi nàng quay lại nhìn về phía các bạn, nàng mới hiểu rõ nguyên nhân, liền mỉm cười âu yếm:

- Đi, chúng ta đến ngồi trên phiến đá !

- Lan Hương, anh thấy khó chịu lắm !

Chàng có ý đi sau nàng mấy bước, chứ không dám đi song song với nàng.

- Sao mà khó chịu ? Chúng nó nói đùa cho vui đấy mà ! Em vẫn thường chẳng nói đùa với chúng nó là gì ?

- Anh phải về ngay tối nay.

Lan Hương trố mắt nhìn chàng:

- Chiều nay anh về gặp em với mục đích là báo cho em biết anh phải trở về ngay tối nay ?

Chàng ấp úng đáp:

- Anh … anh … Lan Hương, em hiểu cho lòng anh là đủ rồi !

Nàng cười:

- Vậy anh không hiểu lòng em à ? Thôi đi ! Đến ngồi trên phiến đá nói chuyện cho mát.

Nàng cầm lấy tay chàng kéo đi. Chẳng ai biết là người nào đã đưa phiến đá ấy đặt bên rặng tre xanh, mà cũng không biết nó đã nằm đấy từ đời kiếp nào. Nó đã sáng bóng và nhẵn thín vì bao nhiêu người qua lại đều ngồi trên phiến đá ấy để nghỉ chân. Nhất là bọn trẻ con, lúc thì chúng ngồi, lúc chúng nằm, có lúc chúng lại lấy nó làm nơi ẩn nấp trong khi chơi trò “ẩn bắt ”. Bọn trẻ ấy đều lớn khôn cả rồi, nhưng phiến đá thì vẫn thế, cứ nằm trơ trơ ở chỗ cũ, không hề xê dịch. Tuấn Khanh và Lan Hương cũng đã từng qua những ngày ấu thơ bên cạnh phiến đá ấy, họ ngồi trên phiến đá nô đùa vui vẻ, cũng có khi họ hờn dỗi, giận dữ, lại có lúc họ mơ màng tưởng tượng họ đang ngồi trên một con thuyền nhỏ, lặng lẽ theo dòng nước biếc đi đến một cõi thần tiên nào … Nhưng thời gian qua, họ đã lớn khôn, họ không còn mơ tưởng thế nữa mà mơ ước một cảnh giới yêu đương, trong đó họ sẽ hoạch định cuộc sống tương lai.

- Bây giờ em hỏi anh, anh có thể ở lại đây được mấy ngày ?

Lan Hương ngồi xuống phiến đá trước, đặt chiếc cặp sách một bên, đó là cử động quen thuộc của nàng đã bao năm qua. Tuấn Khanh cũng ngồi theo nàng:

- Có thể ở lại ba ngày, nhưng …

Lan Hương sung sướng nắm lấy tay chàng:

- Thế thì được rồi, ngày mai là Thứ Bảy, chỉ học có nửa buổi, ngày kia là Chủ Nhật, Thứ Hai em xin nghỉ, thế là được chơi với anh ba hôm, có được không nào ?

- Anh rất tiếc vì hoàn cảnh mà phải bỏ học để đi làm cái nghề hát xướng này, không được nở mặt với đời !

- Cần gì phải nở mặt với đời ? Hãy nở mặt với chính mình đi, nở mặt với em mà không đủ à ?

Nàng siết chặt tay chàng, tỏ dấu hiệu an ủi, khích lệ và cũng để bày tỏ lòng nàng.

- Còn cậu mợ …

Nói đến cậu mợ, chàng phát run.

- Cậu mợ cũng sẽ bằng lòng, vì người thương em lắm ! Chỉ cần …

Nàng nhìn chàng bằng cặp mắt tràn đầy tình cảm và bỏ lửng câu nói.

- Chỉ cần sao ? Em nói đi !

Tay chàng cũng nằm chặt trong tay nàng và chàng có cảm giác hồi hộp.

- Chỉ cần anh cố gắng hơn nữa trong nghề nghiệp, đừng tưởng thế đã là hoàn toàn rồi !

Chàng trút một hơi thở nhẹ nhõm:

- Chỉ cần có em, anh sẽ hết sức cố gắng là một ngôi sao chói rạng nhất trong đám tài tử. Hát xướng không phải là một nghề hèn hạ !

- Tối nay, anh về nhà em ngủ ?

- Không được ! Anh đã có chỗ ngủ. Ngày mai, anh sẽ đến chúc mừng em.

- Chúc mừng ? Lan Hương mở to cặp mắt, hỏi.

- Mai là sinh nhật của em, em quên à ?

- À, nàng cười, thế mà chẳng thấy má nhắc gì đến cả !

- Nhất định mợ đã sắp đặt rồi. Sinh nhật thứ mười tám của em mà mợ quên sao được ?

Vừa nói, chàng vừa móc trong túi ra một cái hộp nhỏ bằng nhung trông rất xinh xắn và trao cho nàng:

- Anh tặng em cái này !

- Ái chà ! Anh còn mang quà về cho em kia à ? Cái gì đây ? Nàng hớn hở đỡ lấy cái hộp.

- Em mở ra coi !

Nàng sung sướng mở chiếc hộp ra, thấy trong đựng một chiếc nhẫn và một dải băng lụa màu lam để buộc tóc.

- A, chiếc nhẫn đẹp quá ! Nàng thích thú ướm chiếc nhẫn vào ngón tay.

- Em hãy buộc thử dải băng xem nào !

- Được !

Rồi như một cô bé, nàng xõa mái tóc xuống và cầm lấy dải băng. Thong thả. Chàng không thể tự nén được tình cảm, đưa tay vuốt mái tóc đen dài và mềm mại như nhung tơ của nàng. Để tóc dài xuống trông thướt tha và mơ mộng lắm !

- Anh thích để dài xuống ? Nàng ngả đầu vào chàng.

Chàng đưa tay véo yêu trên má nàng:

- Lan Hương, anh xin em đừng bao giờ uốn tóc cả.

Nàng cười:

- Không uốn để nó dài quét đất thì sao ?

- Quét đất trông càng đẹp. Em cứ để dài đi !

- Được rồi ! Nhưng giả sử có ngày em cắt đi thì sao ?

- Thì cất để dành cho anh.

- Thế hả ? Cho anh, song em nhất định cứ nuôi cho thật dài, dài đến chừng nào anh ghét thì thôi !

Nàng nũng nịu ngả đầu sát vào má chàng. Mùi thơm phưng phức từ mái tóc nàng toát ra, chàng thì thầm bên tai nàng:

- Với em, không bao giờ anh biết ghét là cái gì ! Anh chỉ tự ghét cái phận nghèo của anh.

- Anh biết em ghét ai nhất không ?

- Ghét anh ?

- Đúng rồi, em ghét anh lắm ! Ghét người hay có tính tự ti mặc cảm, không dám ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt ai.

- Lan Hương ! Chàng cúi đầu.

Nàng quay đi và hạ giọng nói:

- Ghét anh, nhưng em vẫn cứ yêu anh.

Chàng ngẩng đầu lên và mắt rướm lệ:

- Em cứ yêu anh ?

Nàng gật đầu.

- Cậu mợ không cho thì sao ?

- Thì em đi !

- Đi theo anh ?

- Không ! Em muốn sống cuộc đời tự lập, làm bất cứ việc gì cũng được và sẽ không bao giờ trở về.

- Em nhẫn tâm bỏ cậu mợ ?

- Trừ khi nào ba má bằng lòng thì lúc đó em mới về.

- Em cũng không cho anh biết ?

- Không ! Em không muốn người ta cho là em đi theo trai. Em muốn anh không mang tiếng và em cũng không mang tiếng.

- Thế em sẽ không nghĩ gì đến anh ?

Tay chàng lại siết chặt lấy tay nàng.

- Mà sao cứ nói những chuyện hão huyền vậy ? Em biết ba má thương em lắm mà !

Nàng nhoẻn miệng cười, rồi đưa tay lên tết nút băng lụa trên đầu thành hình con bướm. Dải băng màu lam càng làm cho mái tóc mềm mại và óng ả của nàng thêm vẻ khả ái. Nàng hỏi:

- Thế nào ?

- Trông thật thướt tha và đẹp lắm !

Chàng ngây ngất nhìn nàng và suối tóc mơ mộng của nàng.

- Ai mượn anh khen ?

Nàng nở một nụ cười quyến rũ.

- Lan Hương, thật em có định …?

- Định gì ?

- Kết hôn với anh ?

- Trừ khi em đi tu thì thôi !

- Lan Hương, thật anh cảm động vô cùng !

Nàng rũ tóc một cái rồi cầm lấy cặp sách đứng dậy:

- Thôi, ta đi về đi !

Chàng cũng đứng dậy theo:

- Anh đưa em đến gốc cây kia.

- Thật anh không về nhà em à ?

Chàng đau khổ lắc đầu:

- Em vẫn chưa hiểu rõ hoàn cảnh ? Ngày mai, anh đến mừng em.

- Thôi được, mai em đợi anh, nhưng phải đến sớm kia đấy !

Lan Hương sửa lại mái tóc, vuốt lại tà áo, rồi xua tay cười:

- Vậy khỏi phải tiễn chân em nữa !

Chàng đứng nhìn theo cho đến khi hình ảnh lả lướt của nàng đã khuất sau lũy tre trong ngõ vắng ngập bóng hoàng hôn, lúc ấy chàng mới thơ thẩn ra về. Thật ra, cha mẹ Lan Hương đã ngầm chuẩn bị bữa tiệc sinh nhật của nàng rất lớn. Tại sao lại làm lớn ? Chắc cũng có lý do gì trong đó ! Thôi thì mua thứ này, sắm thứ nọ và cho phép Lan Hương được tự do mời các bạn bè đến dự tiệc. Cặp mắt nàng sáng lên:

- Má cho phép con được tự do mời các bạn con, hả má ?

Mẹ nàng cười:

- Ai nói dối con ?

- Vậy con sẽ mời Phương Thảo và Tuyết Anh, có được không ạ ?

- Dĩ nhiên !

- Lại còn anh Phác và … và …

Nàng ngần ngừ một lát rồi nói:

- Và anh Tuấn Khanh.

Đôi má của mẹ nàng xị xuống, song bà vẫn mỉm cười:

- Những người kép hát nay đây mai đó, biết đâu mà tìm mà bảo ?

Lan Hương dò xét:

- Nếu anh ấy về kịp ?

- Thì cũng được chớ sao ! Nhưng chắc nó không muốn đến đâu. Thôi, con vào mặc thử bộ đồ mới xem, má còn nhiều việc khác.

Mẹ nàng dắt nàng đến cửa phòng, bà nở một nụ cười bí ẩn:

- Lan Hương, hôm nay là ngày tốt lành của con, hãy vào trang điểm đi !

Lan Hương bắt đầu lục soát trong ký ức của nàng, nàng nhận thấy chưa có sinh nhật nào mẹ nàng đã nói với nàng câu ấy. Bởi thế, nàng ngạc nhiên hỏi:

- Năm nào cũng có sinh nhật chứ có gì mà là ngày tốt lành ạ ?

- Lát nữa, tự nhiên con sẽ rõ !

Mẹ nàng nói xong, liền quay trở ra. Lan Hương vẫn cứ thắc mắc, song nàng cũng vào phòng mặc thử áo mới.

Đặc biệt năm nay khách đến dự lễ sinh nhật của nàng đông hơn mọi năm. Điều đó làm nàng cảm thấy thích thú và hãnh diện. Nàng mặc bộ đồ mới màu hồng nhạt, rồi đeo chiếc nhẫn của Tuấn Khanh tặng và buộc dải lụa màu lam trên đầu. Nàng cười tươi tắn, nhìn những quà tặng và đi cảm ơn từng người. Nhưng người khách mà nàng trông mong nhất vẫn chưa thấy đến, điều đó khiến nàng có cảm giác ray rứt. Chốc chốc nàng lại ngó ra ngoài cửa sổ để lắng nghe bước đi quen thuộc và tiếng gọi hiền dịu ấy. Song đến đúng giờ bữa tiệc được bắt đầu, nàng vẫn chưa thấy chàng tới. Nàng thấy nóng ruột, bồn chồn và hồi hộp, nhưng nàng cố che giấu để tiếp đãi bè bạn niềm nở.

Sau mấy tuần rượu, thực khách nói cười vui vẻ, cha nàng coi bộ cũng đã ngà ngà, ông ngỏ lời cảm tạ mọi người, rồi ông vui miệng tuyên bố luôn:

- Hôm nay cũng là ngày đại sự trăm năm của con cháu bé …

Đôi đũa rơi khỏi tay Lan Hương, nàng hoàn toàn kinh ngạc. Ông thân nàng lại nói tiếp:

- Ba thay con chọn ngày hôm nay làm ngày vui mừng nhất trong đời con. Như thế, ba cũng được trọn bổn phận làm cha.

- Thưa ba, con còn ít tuổi, hơn nữa học hành còn dở dang. Việc đính hôn, xin ba hãy để một vài năm nữa cũng được !

Lan Hương rưng rưng ngấn lệ và dùng hết sức can đảm để khẩn cầu cha nàng. Cha nàng mỉm cười:

- Ba nghĩ trước thế cho chu đáo thôi ! Còn việc cưới xin thì dĩ nhiên là phải đợi sau khi con học hết trung học.

Khách khứa đều hoan hô:

- Hai tin mừng đến một lúc ! Xin mời các Ngài cạn ly.

Lan Hương đứng dậy giữa những tiếng hoan hô, nàng nghẹn ngào van xin cha nàng một lần nữa:

- Thưa ba, vậy xin ba để con học xong trung học, rồi đính hôn cũng chưa muộn.

Mặt cha nàng bỗng biến sắc:

- Con phải vâng lời cha mẹ. Cha mẹ đặt đâu thì phải ngồi đấy, không được lôi thôi chi hết !

- Song đây là việc của con kia mà !

- Mày dám bảo là việc của mày hả ? Mỗi đốt xương, mỗi sợi tóc của mày đều là của cha mẹ.Mày dám chống lời cha mẹ hả ? Cha nàng bất chấp cả bạn bè thân hữu, ông hầm hầm nổi nóng.

- Tất cả các việc khác, con xin vâng theo lời ba má. Nhưng việc này …

- Việc này lại càng phải vâng lời ba má mới được. Con hãy xin lỗi ba con đi !

Mẹ nàng thấy tình hình bất ổn, liền vội dàn xếp. Bà không muốn chồng bà nóng giận trước mặt tân khách và cũng không muốn con gái bị mắng trước nhiều người. Lan Hương đỏ mặt và tức khí bốc lên trong lòng nàng:

- Con không thể chịu được việc đó !

- Không chịu thì cút đi ! Đồ bất hiếu ! Cha nàng thét lên.

Thế là như một trận gió, Lan Hương lướt ra khỏi cửa và chạy mất hút. Mẹ nàng kinh hãi, gọi giật lại:

- Lan Hương ! Lan Hương ! Con điên à ?

Lan Hương vừa mở cánh cổng thì thấy Tuấn Khanh đang đứng phía ngoài, chàng dang tay cản nàng lại.

- Anh …

Nàng chỉ thốt được có thế ! Hai người đều xúc động, không biết xử trí ra sao khi vận mệnh đã đến. Nhưng không còn thì giờ để nói gì hơn, nên nàng vùng vẫy đẩy chàng ra, rồi phóng đi như một mũi tên. Không ai đuổi theo nàng, kể cả Tuấn Khanh.

。。。

Từ đấy, người ta không còn thấy hình bóng Lan Hương nữa. Trên phiến đá nhẵn bóng ấy, vẫn có trẻ con ngồi, nằm và nô đùa cười cợt. Tuấn Khanh theo đoàn hát đi khắp đó đây. Hy vọng duy nhất của đời chàng là tìm nàng. Nhưng nàng ở đâu, biết tìm đâu ? Thời gian lặng lẽ trôi qua, đã hai mươi năm trời xa vắng, không một tin tức gì về nàng ! Hiện giờ, chàng chỉ còn biết nhờ vào sức ủng hộ của Chư vị Bồ Tát.

Tuấn Khanh, một chàng nghệ sĩ trẻ tuổi và đẹp trai, là thần tượng của khách mộ điệu và là túi tiền của đoàn hát, song riêng chàng vẫn mang nặng một tâm tư sầu muộn. Trên sân khấu, chàng đã làm cho bao nhiêu người sống những giờ phút say sưa, thích thú và vui tươi. Người ta không thể quên được giọng hát và điệu cười của chàng. Nhưng khi tan buổi hát, chàng lại vẫn ôm mối sầu hoài vạn cổ, cất bước ra đi và đặt chân đến khắp các cảnh chùa, nguyện cầu và khẩn đảo. Song hai mươi năm qua, chàng vẫn sống trong trống lạnh và thương đau.

- Đây cũng thật là sự an bài của các vị Bồ Tát. Nhờ sức giúp đỡ của các Ngài, cuối cùng mình đã … cuối cùng …

Tay Tuấn Khanh run run nâng niu lọn tóc dài mềm mại rồi khẽ đặt lên môi. Hai hàng lệ ứa ra và tràn xuống hai gò má xanh xao của chàng. Chàng cố nén tình cảm xúc động, chờ đợi đến ngày mai. Ngày mai, chàng sẽ ai cầu ni cô đi với chàng đến một nơi thâm sơn cùng cốc nào đó để sống cho qua những ngày còn lại. Chàng cứ nắm chặt lấy lọn tóc trong suốt đêm. Đợi khi trời vừa hừng hừng sáng, chàng đã vội lên đường. Chàng không thể giữ đúng lời ni cô hẹn là mười giờ sáng. Chàng phải đi sớm, gặp ni cô sớm và đưa ni cô đi ngay.

Chàng theo con đường mòn lên núi hãy còn ngập trong sương đêm. Chàng thấy tim đập nhanh hơn, xúc động, phấn khởi, sung sướng, hồi hộp và bao nhiêu tình cảm lẫn lộn. Bất giác, chàng lại thấy mấy giọt lệ lăn theo sống mũi. Hoài vọng hai mươi năm qua chắc chắn sẽ được thỏa mãn trong buổi sớm mờ sương này. Khi chàng lên tới đỉnh núi, tính ra còn sớm hơn giờ đã định ba tiếng đồng hồ. Người ra tiếp chàng vẫn lại là vị sư ni già gầy guộc và nghiêm khắc đã chặn ngang đường tiến của chàng hôm qua. Vị sư già lạnh lùng nói với chàng:

- Tối hôm qua, ni cô đã rời khỏi nơi này.

- Đi đâu ? Lan Hương đi đâu ?

Chàng quỳ phục xuống bên chân vị sư ni già.

- Ni cô đi vân du.

- Vân du ! Vân du ! Lan Hương đi vân du rồi !

Chàng ngửa mặt lên trời, nước mắt lại trào ra ràn rụa. Từng trận gió thu đưa những áng mây mù buổi sáng đang vèo vèo lướt qua. Giọng chàng yếu ớt:

“Vân du … Vân du … Lan Hương ! Lan Hương đi vân du …”