V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Tín ngưỡng

- Trích: “Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất” - Bạch Lạc Mai
- Chương I - Chỉ vừa gặp gỡ đã quen nhau



Phải chăng có một nơi bạn chưa từng đến, mà lần đầu gặp gỡ lại có cảm giác cách biệt nhiều năm ? Từng gốc cây ngọn cỏ, từng hạt cát hạt bụi ở đó, đều hiển hiện trong mơ, đượm vẻ lạ lẫm lẫn quen thuộc tựa như xa cách một đời. Có lẽ đây chính là duyên phận mà nhà Phật thường nói, bởi vì có duyên nên mới vừa gặp đã xiêu lòng, mới khó lòng rời bỏ. Tôi là cô gái tin ở duyên phận, dù cứng cỏi, lại luôn rũ mày cúi đầu vì một cảm động tế nhị nào đó.

Đặt chân tới Tây Tạng cũng như sa vào một trận luân hồi thần bí khôn lường, bạn sẽ bị những phong thổ nhân tình không rõ nguyên cớ kia nhấn chìm. Nhất là Phật giáo Tạng truyền đông đảo, từ trong lịch sử xa xưa tiếp diễn đến ngày nay, nhiệt tình và si mê của người Tạng đối với tôn giáo chẳng có mảy may nguội lạnh. Tín ngưỡng không thể khinh nhờn đó truyền từ đời này sang đời khác, trước mặt Thần Phật muôn đời bất diệt, họ thậm chí có thể hi sinh không hối hận. Đó chính là số mệnh, chẳng một ai có thể chọn lựa xuất thân, có lẽ bạn thích cầu đá dương liễu, trăng lạnh hoa mai, vậy mà quanh quẩn trước mắt lại là khói vắng đại mạc, đất tuyết hoang nguyên. Nhưng chúng ta không thể quay lưng với thề ước kiếp trước, vứt bỏ trách nhiệm, bèn ngàn núi muôn sông cất bước độc hành.

Một người không tùy tiện hứa hẹn, lại bằng lòng thề thốt thành khẩn vì một đóa hoa sen thánh khiết, bằng lòng quỳ mãi không dậy vì một ngọn đèn bơ. Trong thế giới luân hồi tràn đầy ảo tưởng, vạn vật đều là bụi nhỏ, bụi nhỏ cũng có thể thành Phật. Con người vì có tín ngưỡng mà ấp ủ hi vọng đối với cuộc sống. Những người Tạng cư trú chốn cao nguyên, tin vào sự tồn tại của Thần Phật, đời đời phủ phục dưới chân núi xanh, vừa nói chuyện với thần linh, vừa chăn ngựa thả cừu, sống giản đơn yên ổn, tiêu dao tự tại. Trong mắt họ, tất cả cỏ cây đều có linh tính, tất cả non nước đều có lời hứa, tất cả bò cừu đều có luân hồi. Mọi người đều là tín đồ của Phật, mọi người đều có tấm lòng thuần túy, trong lòng đều trồng một cây bồ đề.

Lúc đó, Phật giáo Tạng truyền có rất nhiều giáo phái, chia làm Gelug (Hoàng Giáo), Nyingma (Hồng Giáo), Kadam (Hắc Giáo), Kagyu (Bạch Giáo), Sakya (Hoa Giáo), giữa họ cũng không thiếu những vụ tranh đấu, loại trừ lẫn nhau. Mãi đến đầu thế kỷ XVII, ở vùng Thanh Hải và Mông Cổ, địa vị chủ đạo của Gelug đã xác lập, nhưng đấu tranh với các giáo phái khác vẫn ngấm ngầm sóng gió. Chúng ta luôn mong thế giời này sóng yên gió lặng, mong tất cả buồn thương đau đớn đều được nụ cười và khoan dung xóa nhòa, mong giữa người và người không cần phân tranh, không phải tổn thương. Nhưng thực tế vẫn trái với nguyện vọng, dù thanh tịnh như Đức Phật, quảng đại như Đức Phật, cũng có lúc bất lực.

Ngày 15 tháng 12 năm 1616, Đạt Lai Lạt Ma thứ tư - Yonten Gyatso - đột nhiên qua đời ở tu viện Drepung, hưởng dương 28 tuổi. Về cái chết của Yonten Gyatso, có người nói là Tsangpa Khan Phuntsok Namgyal phái người ám sát. Lúc đó Tsangpa Khan bị bệnh, nghe nói là do Đạt Lai thứ tư Yonten Gyatso nguyền rủa ông, nhưng bị Tsangpa Khan phát hiện, bèn phái người giết chết Yonten Gyatso. Đương nhiên, đây chỉ là truyền thuyết, bầu trời mây khói mịt mù, lịch sử cũng trở nên mơ hồ không rõ, đời người phù du như giấc chiêm bao, không ai có thể xác định năm đó đã xảy ra chuyện gì. (“Lúc đó Tsangpa Khan nghi Đạt Lai nguyền rủa, dẫn đến mắc nhiều bệnh, liền công khai mệnh lệnh không cho Đạt Lai chuyển thế, nhờ Ban Thiền Lodsang Chokyi Gyaltsen nhiều lần yêu cầu, mới chuẩn y tìm kiếm linh đồng Đạt Lai thứ năm.”)

Đúng vậy, sau khi Yonten Gyatso qua đời, theo quy củ của phái Gelug, phải tìm kiếm linh đồng chuyển thế. Người sinh trưởng ở miền đất này, đều là tín đồ của Phật Đà, tín đồ của vận mệnh, họ tin tưởng con người có ba kiếp, chết rồi sẽ chuyển thế luân hồi, tái tục duyên chưa hết của kiếp trước. Một người bắt đầu từ khi sinh ra, lúc ngây ngô chưa biết sự đời, đã phải gánh vác trách nhiệm và nợ nần, vinh nhục và giàu nghèo của kiếp trước. Chúng ta cho rằng có thể sửa đổi số mệnh, hóa ra là không thể từ bỏ, do đó luôn cảm thấy bản thân phải sống thân bất do kỷ. Có lẽ bạn chỉ muốn làm một người dân bình thường, lại cứ sinh vào nhà vua chúa. Có lẽ bạn muốn thống trị thiên hạ, trở thành bá chủ hô mưa gọi gió, nhưng lại lưu lạc thành tên giặc cỏ lỗ mãng.

Cuộc đời đã được định sẵn, bạn và tôi đều không thể chọn lựa, chẳng muốn nước chảy bèo trôi, rốt cuộc vẫn phải mặc cho vận mệnh sắp đặt. Ngawang Lobsang Gyatso là Đạt Lai Lạt Ma thứ năm. Năm 1617, Ngawang Lobsang Gyatso sinh ra ở huyện Qonggyai, Lhoka, Thiền Tạng, thuộc gia tộc Qonggyaipa. Gia đình Ngài là địa chủ phong kiến ở Lhoka, cũng là quý tộc dưới trướng chính quyền Phagmodrupa. Một con em quý tộc vừa sinh ra đã được đội lên vầng hào quang hoa lệ, vốn cho rằng đời này sẽ giữ nghiệp nhà giàu có, cưới vợ sinh con, sống cuộc sống sung túc mà tầm thường. Nhưng Đức Phật đã trao cho Ngài sứ mệnh lớn hơn, khi Ban Thiền thứ tư Lodsang Chokyi Gyaltsen nhận định Ngài là Đạt Lai thứ năm, cuộc đời của Lobsang Gyatso liền có biến đổi trơi long đất lở.

Ngài rốt cuộc không phải là người phàm, thiên tư thông minh dĩnh ngộ, tài năng kiến thức xuất chúng, sáu tuổi được đón vào tu viện Drepung phụng dưỡng, tiếp nhận nền giáo dục đặc biệt. Trong lịch sử Phật giáo Tạng truyền, Đạt Lai thứ năm Lobsang Gyatso là một nhân vật vô cùng quan trọng, Ngài bình định chiến loạn, xây lại cung Potala, xác lập địa vị thống trị của phái Gelug ở Tây Tạng. Một nhân vật mưu lược kiệt xuất, một vị anh hùng kiến công lập nghiệp, được muôn người thành kính quỳ bái, đồng thời cũng trải qua thử thách của khói lửa chiến trường. Chúng ta dường như nhìn thấy một người cầm lái, không sợ mưa gió, cầm vững tay lái vượt bao sóng cả, cuối cùng đến được bờ bên kia đầy hoa sen.

Lúc đó Tây Tạng là thời đại thống trị của chính quyền địa phương Karma, do Đệ Ba quản lý chính sự, phái Karma Kagyu và Tsangpa Khan áp dụng chính sách áp bức tàn phá đối với Hoàng Giáo. Khoảng năm 1630, chính quyền Tsangpa Khan lợi dụng cơ hội các thế lực địa phương tranh chấp nội bộ, thừa cơ phát động cuộc đấu tranh chống Hoàng Giáo, khiến Đạt Lai thứ năm tránh về Lhoka. Lúc đó Hoàng Giáo ở Tây Tạng và vùng Kham Thanh Hải, thậm chí ở nhiều nơi thuộc Mông Cổ đều rất được đông đảo nhân dân ủng hộ. Sau một thời gian trù hoạch, Đạt Lai thứ năm và Ban Thiền thứ tư thương nghị, cử người đến Thanh Hải bí mật triệu Gushi Khan dẫn binh tiến vào Tây Tạng. Do đó mới lật đổ nền thống trị của chính quyền địa phương Karma, ủng hộ Đạt Lai Lạt Ma thứ năm kiến lập chính quyền Ganden Phodrang.

Không phải thành lập chính quyền Ganden Phodrang thì có nghĩa Lodsang Gyatso là vua của Tây Tạng. Trên thực tế, địa phương Tây Tạng hoàn toàn chịu sự khống chế của Gushi Khan. Lobsang Gyatso kiêu ngạo, với hoài bão lớn lao của Ngài, làm sao cam tâm thần phục thế lực Mông Cổ ? Ngài phải mưu cầu địa vị chính trị độc lập, không phụ thân phận Đạt Lai thứ năm của Ngài. Khi chính quyền Ganden Phodrang thành lập, đúng vào lúc vương triều nhà Minh sắp sụp đổ tan tành. Nội địa chiến tranh loạn lạc, thế lực Mãn Thanh ở quan ngoại nhanh chóng lớn mạnh, đối với họ, giang sơn Đại Minh dễ lấy như trở bàn tay. Hoàng Giáo đứng đầu bởi Đạt Lai thứ năm và Ban Thiền thứ tư, để củng cố địa vị thống trị đã có, quyết định tìm kiếm sự ủng hộ từ chính quyền Mãn Thanh ngày càng hùng mạnh. Năm 1642, Đạt Lai thứ năm Lobsang Gyatso phái Khutuktu ila Kuksasn làm đại biểu, lên đường đến Thẩm Dương.

Lúc đó Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực dẫn các thân vương bối lặc, đại thần ra ngoài thành nhiệt tình nghênh đón, theo quan điểm của Hoàng Thái Cực, chuyến đến thăm của người Tạng là do ý trời sắp đặt, là tượng trưng cao xanh bảo hộ triều Thanh. Do đó, Hoàng Thái Cực còn hướng lên trời làm lễ ba quỳ chín lạy, sau khi vào thành, lại đích thân đến nơi ở của sứ Tạng thăm hỏi. Sứ Tạng lưu lại tám tháng ở Thẩm Dương, được Mãn Thanh niềm nở khoan đãi. Đến khi quay về Lhasa, Hoàng Thái Cực còn viết thư trả lời cho cả Đạt Lai, Ban Thiền và Gushi Khan, đồng thời khen ngợi Đạt Lai Lạt Ma “cứu vớt chúng sinh”, “trợ hưng Phật pháp”. Còn ban tặng lễ vật hậu hĩ, bày tỏ sự xem trọng của Mãn Thanh đối với Phật giáo Tạng truyền.

Tất cả phảng phất bụi trần lắng đọng, Đạt Lai 25 tuổi - Lobsang Gyatso - trải qua phân tranh biến ảo, cuối cùng trở thành lãnh tụ hô mây gọi gió của chính trị tôn giáo toàn Tây Tạng. Mãn Thanh như một ngọn núi sừng sững cao chót vót, đà lớn manh của nó vượt xa Mông Cổ, Lobsang Gyatso với ánh mắt và tầm nhìn thâm thúy của Ngài, đã tranh thủ được sự ủng hộ và chấp nhận hết sức đắc lực của chính quyền Mãn Thanh. Điều này cũng có nghĩa địa vị của phái Gelug ở Tây Tạng được củng cố triệt để, còn Lobsang Gyatso cũng thành vị anh hùng được người Tạng sùng bái.

Bản thân sinh mệnh kỳ thực là thuần túy mà sạch sẽ, nhưng trong quá trình trưởng thành, dần dần chúng ta đã nhuộm quá nhiều bụi hồng. Trong hành trình cuộc đời, mỗi người đều có nhiều tao ngộ không thể tránh khỏi, hoặc dũng cảm đối diện, hoặc hoảng hốt chạy trốn, hoàn toàn ở chọn lựa của bản thân. Lobsang Gyatso từ khi sinh ra đã bị vận mệnh chi phối, do đó khi Ngài tư tưởng dồi dào, cũng muốn chi phối vận mệnh. Dù chúng ta là người mạnh hay kẻ yếu, chỉ cần sống trong năm tháng yên tĩnh mà huyên náo này, tươi tỉnh đó, âu sầu đó, vui vẻ đó, cũng đau đớn đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét