V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


D.P.A (80)

(Ca dao Phật giáo)

Bởi do kiếp trước vụng tu
Kiếp này tu để đền bù kiếp sau



Ăn uống, đi đứng

- Trích “Phép Tắc Người Con”,Bài 9
- Theo Zhengjian,Kiến Thiện biên dịch



Hoặc ăn uống, hoặc đi đứng
Người lớn trước, người nhỏ sau
Lớn gọi người, liền gọi thay
Người không có, mình làm thay
Gọi người lớn, chớ gọi tên
Với người lớn, chớ khoe tài

Diễn giải

Bất kể là ăn cơm, uống nước, hay là đi - đứng - nằm - ngồi, thì người lớn phải ưu tiên, người nhỏ tuổi hơn phải làm sau. Khi người lớn gọi ai đó, cần lập tức thay cho người lớn đi gọi. Nếu người cần gọi không có mặt thì mình lập tức đến trước mặt người lớn để giúp đỡ. Gọi người lớn thì không được gọi tên. Không được hiển thị, khoe tài năng của mình trước người lớn.

Câu chuyện tham khảo: VƯƠNG THỊ TỰ ĂN CÁM

Vợ Hạ Thành Minh, triều Minh, tên là Vương Thị, là một phụ nữ nông dân ở Vô Tích, tỉnh Giang Tô, gia cảnh nghèo khổ, lại gặp phải năm mất mùa. Chồng cô đi làm xa, Vương Thị ngày đêm miệt mài dệt vải, dốc hết sức chuẩn bị cơm, thức ăn cho cha mẹ chồng, còn cô thì ăn cám và rau quả dại. Một lần mẹ chồng ngẫu nhiên đi xuống bếp, nhìn thấy những thứ cô đang ăn, không nén nổi nước mắt tuôn rơi. Sau này Vương Thị sống thọ 80 tuổi, không có bệnh tật gì, yên lành ra đi. Người nhà mộng thấy một đoàn người cầm cờ tấu nhạc đến nghênh đón người phụ nữ hiếu hạnh ra đi. Trong xóm có vị cống sinh, mỗi lần đi qua cổng nhà Vương Thị đều nhất định đứng ngoài cổng kính lễ ba vái, bày tỏ lòng tôn kính.

Phụ chú

- Mất mùa: do lũ lụt hoặc hạn hán mà thu hoạch không tốt, mùa màng thất thu, xảy ra nạn đói.

- Cống sinh: thời đại khoa cử, chọn học trò có phẩm hạnh tốt được ưu tiên, được tiến cử vào Thái học (Quốc tử giám) ở kinh sư (kinh thành) để học hành. “Cống” nghĩa là tiến cử nhân tài cho vua.

Nguyên tác

或 飲 食 或 坐 走
長 者 先 幼 者 後
長 呼 人 即 代 叫
人 不 在 己 即 到
稱 尊 長 勿 呼 名
對 尊 長 勿 見 能

Âm Hán Việt

Hoặc ẩm thực, hoặc tọa tẩu
Trưởng giả tiên, ấu giả hậu
Trưởng hô nhân, tức đại khiếu
Nhân bất tại, kỷ tức đáo
Xưng tôn trưởng, vật hô danh
Đối tôn trưởng, vật kiến năng

Chú thích

- Hoặc: hoặc, hoặc là, hay là

- Trưởng: người lớn, trưởng bối, bề trên

- Hô: gọi

- Tức: lập tức, ngay

- Đại: thay, thay thế

- Xưng: xưng hô, gọi

- Hiển năng: hiển thị tài năng

Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|70|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

“Rồi ai cũng từng làm những việc thiện, chia với người một chút nỗi buồn, đặt vào tay người một chút bình yên. Hãy cảm thấy vui khi làm được những điều đó. Hãy lấp đầy cuộc đời mình bằng những ngày như vậy. Vì hạnh phúc của đời người sẽ đến từ việc làm như thế”.

Không gì mênh mông bằng những ngày trống rỗng, sống rất vội, qua rất nhanh, chẳng cất được điều gì vào đấy, như trang giấy trắng, nhưng dù có tiếc nuối thế nào cũng không thể lật lại để viết gì thêm được nữa, và cũng không thể xé bỏ đi. Để mãi đó, còn mãi đó, lâu lâu nhìn lại, thấy nặng lòng, thấy mênh mông như chiều mưa một mình đứng giữa ngôi nhà hoang, chẳng làm gì được.

Không gì vui bằng những ngày khi nghĩ lại vẫn còn thấy vui. Ngày đó, chia được với người một chút nỗi buồn, đặt vào tay người một chút bình yên, có ánh mắt thật hiền nhìn cuộc sống, có hơi ấm từ đôi tay chân thành làm lành lại trong lòng người một vết thương, có đôi chân không ngại khó khăn. Ngày đó như ngăn tủ ấm, cất đầy niềm vui, cất đầy tiếng cười.

Không ai đủ giàu để có thể thương lượng với thời gian mua lại được quá khứ, để thay đổi ngày hôm qua, thêm vào đó ít nụ cười, bớt đi vài dở dang, nhặt bỏ năm ba lỗi lầm, xóa đi một ít phiền muộn, nhưng cũng không ai nghèo đến mức phải mang cả ngày mai bán đi bởi những vội vã trong hiện tại.

Người ngủ an.



Biển đời

(Thích Nhật Từ)

Nước mắt đời, biển trầm luân
Niềm vui xen lẫn nỗi buồn xa xăm
Vui một chút, khổ muôn phần
Khuyên ai ráng giữ chân tâm nhiệm mầu



Hiểu mình là giác ngộ

(Hoàng Nguyên)



Có bao giờ bạn tự hỏi mình đã thực sự hiểu mình ? Nếu chưa thì ta rất dễ tự làm khổ mình và làm khổ người.

Đạo Phật nói rằng tu là một tiến trình thay đổi và chuyển hóa, thay đổi điều chưa tốt thành tốt, chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc. Nhưng nếu không hiểu mình, làm sao ta thấy được gốc rễ của những phiền não khổ đau để mà chuyển hóa; làm sao ta biết mình có những thói quen không tốt, những khuynh hướng tiêu cực, những khuyết điểm của bản thân để mà thay đổi; và cả những điều tưởng chừng như là thật nhưng hóa ra hư ảo, giả dối …

Vì vậy, hiểu mình căn bản nhất là nhận ra được những thói quen chưa tốt nơi mình để uốn nắn thành những thói quen tốt. Ẩn sâu bên trong mỗi người luôn tiềm tàng những khuynh hướng tiêu cực, vì vậy nhận ra được những khuynh hướng đó đòi hỏi chúng ta phải hiểu sâu hơn con người của mình. Triết gia cổ đại Hy Lạp, Socrate, nói rằng nhiệm vụ của một triết gia là tìm hiểu chính mình. Và phương châm sống của ông là “hãy tự hiểu mình”.

Nếu không hiểu mình, nhiều khi ta lên án, chỉ trích người khác chính điều mà mình đang mắc phải. Đó là chiều sâu tâm lý bên trong, mà khoa phân tâm học gọi là sự “phóng chiếu”, nghĩa là ta gán cho người khác những cái mà mình đang bị vướng kẹt trong lòng. Ta lên án điều gì đó nhưng chính ta lại mắc sai lầm chính ở điều lên án đó. Ví dụ, mình lên án, chỉ trích người hay cãi vã nhưng chính trong các buổi đàm thoại mình là người hay cãi vã nhất. Đôi khi chính bạn là người không rộng lượng nhưng lại đi chỉ trích người khác là keo kiệt, bủn xỉn. Chính bạn khát khao có được cái gì đó mà không được, lại đi phê phán người khác khi họ đạt được nó. Đó là sự phản chiếu tâm lý tiêu cực ẩn sâu bên trong chúng ta.

Như Simon Peter Fuller đã nói: “những đặc điểm mà ta thấy khó chịu ở người khác lại thường là những khía cạnh tiêu cực của chính ta, nếu xóa bỏ được những mặt tiêu cực đó rồi thì ta đã không thấy khó chịu khi nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của nó từ đối phương”. Vậy làm sao nhận diện được những khía cạnh tâm lý tiêu cực ẩn sâu bên trong ấy ? Là phải thường trực quán chiếu sâu sắc vào nội tâm mình. Nội quán, vì thế rất thiết yếu cho việc hiểu mình, hiểu con người bên trong mình. Hiểu mình là bước đầu quan trọng trong việc chuyển hóa tâm thức, vì không hiểu mình, ta như kẻ lạc giữa rừng sâu, chẳng biết lối nào mà ra, chẳng biết sự vận hành của các tâm lý phiền não như thế nào để mà chuyển hóa chúng. Cho nên thiền sư Thường Chiếu mới nói: “người tu đạo nếu biết rõ về tâm mình thì sẽ phí sức ít mà dễ thành công, người tu đạo nếu không biết gì về tâm mình thì chỉ phí công vô ích”.

Hiểu mình, thì không như việc hiểu biết thông thường như sở thích và đam mê của mình là gì, mà hiểu rằng mọi sự an vui hạnh phúc hay khổ đau phiền muộn đều do tâm thức mình tạo tác nên. Tâm ta tạo nên mọi thứ và chính tâm ta trải nghiệm những điều ấy. Ngài Kalu Rinpoche nói: “chẳng gì khác ngoài tâm tạo ra vũ trụ, và chẳng gì khác ngoài tâm trải nghiệm điều ấy”. Sự việc này không tốt, con người này thật đáng ghét, đó là tâm ta tạo nên sự việc không tốt và con người đáng ghét đó, và chính tâm ta trải nghiệm sự bực tức, khó chịu và giận ghét đối với chúng, chứ không hề thực có con người, sự việc đáng ghét hay xấu nào cả. Xấu hay tốt, đáng ghét hay dễ thương là tùy vào cảm xúc và nhận thức của ta, ta có cảm xúc yêu thương quý mến với người nào thì người đó là dễ thương, còn cảm xúc khó chịu giận tức với ai đó thì họ là người đáng ghét.

Vậy nên Shakespeare mới nói: “không có sự vật hiện tượng hay hoàn cảnh tốt hay xấu mà chính cách nghĩ của con người khiến nó xấu hay tốt”. Nhận thức được như vậy thì ta không còn oán trách hoàn cảnh hay con người làm cho mình khổ nữa. Chỉ cần bạn không còn oán trách hoàn cảnh hay ai khác nữa về nỗi khổ đau của mình, thì nỗi đau khổ ấy lập tức hóa thinh không.

Thì hóa ra, các tâm lý phiền não như bất an, lo lắng, sợ hãi, sầu muộn … đều chẳng thật có, chúng chỉ là những cảm xúc lao xao bắt nguồn từ việc nhận thức sai lạc của ta mà ra. Đúng hơn, chúng như những con sóng ảo ảnh trên bề mặt tâm thức của ta vậy. Ấy thế mà bấy lâu nay ta cứ lầm tưởng chúng là thật có, để rồi để chúng xô đẩy làm mình quay cuồng mãi trong mệt mỏi và khổ đau. Chỉ cần bạn giác ngộ được rằng phiền não bất an chỉ là những ảo ảnh và nở nụ cười đầy tỉnh thức trên môi, thì sự bất an phiền muộn ấy sẽ tan biến như làn khói tan vào hư vô, chỉ còn lại một nội tâm an bình tĩnh lặng.

Ngài Huệ Khả khi chưa chứng đạo, một hôm tham kiến Tổ Bồ đề Đạt Ma, cầu Ngài an tâm cho mình, Tổ bảo đưa tâm đây ta an cho, Ngài Huệ Khả tìm tâm chẳng thấy nó đâu, Tổ bèn nói vậy là ta đã an tâm cho con rồi đó. Ô hay, tâm đã không có thì phiền não bất an làm sao thật có. Lời khai thị ấy của Tổ một lần nữa khẳng định với chúng ta rằng những phiền não bất an chỉ là hư vọng mà thôi. Vậy thì, khi có phiền não bất an sinh khởi trong tâm, hãy thức tỉnh tự nhủ, chúng là hư giả, không thật, thì tự dưng chúng biến mất không còn tác động tiêu cực lên mình được nữa. Ai giác ngộ được sự thật này, người đó thoát khỏi mọi sầu đau.

Hiểu mình thì mới hiểu người, mới có thể cảm thông, bao dung và yêu thương người được. Hiểu mình, là khi ai đó có những hành động, cử chỉ, lời nói làm mình bị tổn thương, khiến trái tim mình đau nhói, là hiểu rằng nếu ở vào hoàn cảnh điều kiện nhận thức như của người đó thì chắc mình cũng sẽ có những hành động, cử chỉ, việc làm tương tự như họ. Hiểu được như vậy thì tự dưng trong ta dâng lên một niềm bao dung, yêu thương rất lớn. Cái thương nảy mầm từ cái hiểu, cái biết là như vậy.

Hiểu mình là biết rằng mình là người không hoàn hảo, tốt ở điểm này thì có thể chưa tốt ở điểm kia. Thì người cũng vậy, tốt ở điểm kia nhưng có thể khiếm khuyết ở điểm nọ. Hiểu thấu sự không hoàn hảo của mình, của người, thì tự nhiên ta mở lòng bao dung với nhau hơn, không còn nhìn vào khiếm khuyết, lỗi lầm của nhau mà công kích nhau nữa. Nên nhớ rằng, trên thế gian này, ngoại trừ Đức Phật và các bậc thánh nhân ra, tất cả chúng ta đều là người không hoàn hảo. Hiểu được như vậy thì tình thương, lòng bao dung cũng tự khắc nảy sinh trong trái tim ta.

Có thể nói rằng nền tảng căn bản của đạo đức được đặt cơ sở trên việc hiểu mình. Hiểu mình thì mới hiểu người, từ đó có những hành động phù hợp với mình, với người, đó là đạo đức. Triết gia người Đức, Kant, nói rằng quy luật đạo đức thì nằm trong lòng mỗi người, chứ không phải nơi mệnh lệnh của tôn giáo. Cho nên việc hiểu mình là điều quan thiết để có những hành động đạo đức. Đức Phật dạy rằng việc suy xét về tự thân là khởi đầu cho một hành động đạo đức. Ngài nói: “những gì mình không ưa thích, không vừa ý thì người khác cũng thế”. Xét mình hiểu người như vậy thì tự nhiên ta không đem cái điều mình không muốn, không thích mà trao cho người khác nữa. Có lẽ cũng từ sự chiêm nghiệm triết lý hiểu mình, hiểu người này mà Đức Khổng Tử đã đúc kết thành câu nói thời danh: “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn” - điều mình không muốn thì đừng trao cho người. Đó là đạo đức. Đạo đức ấy bắt nguồn từ việc hiểu mình, hiểu lương tri của mình.

Việc hiểu mình là tiền đề căn bản cho mọi sự tu tập chứng ngộ chân lý và đạt đến hạnh phúc tối hậu. Nếu không hiểu mình thì không thể hiểu người, hiểu cuộc đời, hiểu thế gian. Đức Phật dạy rằng nếu ta đi tìm sự giác ngộ chân lý, giải thoát, ...mà tìm ở ngoài ta thì không bao giờ có thể đạt tới được, dẫu có trải qua trăm ngàn vạn kiếp, đi khắp càn khôn vũ trụ. Nhưng chính ở đây, nơi tấm thân này, trong tâm hồn này, ta quay về đó để quán chiếu thật sâu sắc thì mọi sự thật, chân lý, hạnh phúc chân thực đều hiển lộ. Ngài nói: “trong chính thân thể dài hơn một thước này, cùng với tri giác và trí năng của nó, Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường thực hành dẫn đến sự chấm dứt thế gian”.

Thế gian ở đây, theo Ngài Narada, là ám chỉ tình trạng khổ đau. Và vì vậy lời tuyên bố ấy của Đức Phật được xem là phát biểu theo công thức của Tứ Diệu Đế. Nhưng ta cũng có thể hiểu, thế gian ở đây là chỉ cho thế giới vũ trụ, trong đó mọi nguyên lý hình thành, vận hành tồn tại và sự hủy hoại của nó, Đức Phật đều thấy biết rõ ràng thông qua con đường nội quán. Điều này như Carl Jung cũng đã từng nói: “tầm nhìn của bạn sẽ trở nên sáng rõ chỉ khi bạn nhìn vào bên trong tâm hồn mình”.

Và Novalis cũng có nói, con người mang cả vũ trụ nơi mình, và việc lặn sâu vào bên trong chính mình là cách tốt nhất để con người cảm nhận được bí ẩn của thế giới. Cho nên, nhìn vào bên trong, thấu hiểu chính mình thì thông tỏ hết vạn sự bên ngoài, đạt đến chứng ngộ và giải thoát trọn vẹn.

Hiểu đời, biết mấy cho vừa
Ta chưa giác ngộ vì chưa hiểu mình …

Nếu biết ngày mai đã muộn rồi

(Thích Tánh Tuệ)



Có thể ngày mai vẫn rất dài
Vẫn bình minh hẹn với sương mai
Một ngày vẫn sống trên trần thế
Chẳng chút chi ngờ chuyện đổi thay

Vì thế ngày nay ở chốn này
Mới vừa mở mắt đã loay hoay
Ai đi mặc kệ, ta còn sống
Dệt tiếp buồn, vui ... với tháng ngày

Cứ thể ngày qua vẫn cuộc đời
Gạo, tiền, cơm, áo ... mãi lăn trôi
Tương lai hạnh phúc dài mơ mộng
Hiện tại tâm tình luôn vắng vui

Nếu biết ngày mai sẽ muộn màng
Ta còn đuổi bóng chạy miên man
Hơn, thua, hờn, giận ... còn không nhỉ
Ngồi thở mà nghe ... mộng đã tàn

Nếu biết ngày mai đã muộn rồi
Lời thương còn giấu lại trên môi
Trăm năm bù lấp bằng chi nhỉ
Chìm khuất thiên thu những bóng người

Nếu biết ngày mai chạm bến bờ
Môi còn khất hẹn tiếng Nam Mô
Lắng nghe lòng đất nghìn tâm sự
Hối tiếc đường tu trót ... hững hờ

Phật dạy: là duyên … là nợ ...

(Sưu tầm)



Duyên phận trên đời này vốn đã được tạo hóa an bài, vì vậy những người có duyên có phận sẽ tự hội ngộ, đồng hành với nhau, không cần phải cưỡng cầu.

Duyên phận là một điều kỳ diệu trong cuộc sống của chúng ta

Người xưa có câu: “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên tương diện bất tương phùng”, vì vậy, mọi sự đến và đi trong cuộc đời đều là duyên phận.

Con người ta gặp nhau nhờ Duyên, yêu nhau bởi Nợ, và chia ly do Phận. Nếu đã là Duyên, thì dù có xa cách thế nào cũng tìm được đường gặp lại. Nếu đã là Nợ, thì dù có trốn tránh tới đâu cũng không thể thoát được. Và khi đã là Phận, thì đơn giản, là không thể chống lại …

Có lẽ trong đời người chúng ta đã chiêm nghiệm rất nhiều hoàn cảnh. Không ai muốn nhưng do vô tình hay hoàn cảnh đưa đẩy để tình yêu trở thành một niềm đau. Trong tình yêu, hình như đâu đâu cũng đã được ông trời định duyên. Duyên đến, duyên ở, hay duyên đi dường như cũng đều do số phận sắp đặt.

Có những lương duyên khi bắt đầu (dù rất nhanh) đã chắc chắn như “ván đã đóng thuyền”.

Có những duyên phận khi bắt đầu (dù dài hơi) đã định trước là sẽ phải ra đi.

Có những duyên phận chẳng bao giờ có kết quả tốt đẹp.

Yêu một người không nhất định phải có được người ấy, nhưng khi đã có được người ấy thì nhất định phải hết lòng yêu thương. Nói thì thật dễ nhưng hành động mới thật gian nan. Trong tình yêu, có nhiều lúc nếu sự chân thành lại gây ra nỗi đau; xin hãy chọn nói dối, nếu nói dối gây ra vết thương lòng; xin hãy chọn cách im lặng; nếu im lặng làm bạn đau; xin hãy chọn cách ra đi; nếu tình yêu là nỗi đau; xin đừng lại gần nó ... nhưng có rất nhiều hoàn cảnh đều không như vậy, vì thế ta là người có quyền chọn lựa.

Nếu những điều mất đi làm ta đau khổ, ta có sợ phải trả giá cho những gì đã qua không ? Nếu đắm say làm ta khổ, liệu ta có chọn kết thúc ? Nếu theo đuổi làm ta mỏi mệt, ta có chọn lựa cách im lặng ? Nếu chia xa là u sầu, ta sẽ tâm sự nỗi lòng ấy cho ai ? Có rất nhiều điều phải đến tận sau này chúng ta mới nhìn rõ. Có rất nhiều chuyện ngay lúc nó diễn ra ta không cảm thấy đau khổ, nhưng ta chẳng thể tìm thấy nó trên con đường mình đang bước tới.

Có tình yêu sâu sắc nồng nàn nhưng chẳng biết thể hiện ra sao cho thật hoàn mỹ. Có tình yêu biết là không thể bước tiếp, nhưng không can tâm rời bỏ. Có tình yêu biết là đau khổ, nhưng không thể trốn tránh. Có tình yêu biết là không có tương lai, nhưng con tim đã chẳng thể quay đầu lại. Có lẽ câu sau đây diễn tả đúng nhất cái quyết định đi đến hôn nhân giữa hai người:

- Người mình lấy làm vợ (làm chồng) có thể không phải là người mình yêu nhất, có thể cũng không phải là người yêu mình nhất, mà chỉ đơn giản là họ đến đúng vào cái thời điểm cả hai cùng muốn lập gia đình.

Và ở đâu đó có một câu như thế này:

- Nếu bạn không còn yêu một người, xin hãy buông tay để người khác có cơ hội yêu người ấy. Nếu người bạn yêu bỏ rơi bạn, xin hãy giải thoát cho chính mình, để mình có cơ hội yêu người khác.

Câu nói thẳng thắn nhưng rất có đạo lý, dạy cho chúng ta cách cư xử đúng đắn trong tình yêu. Có những thứ ta có thích thế nào đi nữa nhưng không bao giờ thuộc về ta, có những thứ ta lưu luyến, bịn rịn không dứt nhưng chẳng thể giữ lại cho mình. Tình yêu là bài ca chẳng bao giờ hát đến lời cuối, nhưng cho dù có thế nào thì tin rằng cứ chịu khó gieo nhân tốt trong cuộc sống hàng ngày thì duyên và nghiệp lành của mình sẽ tăng lên được một chút và nghiệp xấu cũng sẽ bớt xấu đi.

Tình yêu quả thật kỳ diệu. Sống ở đời này, dù chúng ta ý thức được rằng khi yêu là đầy khổ đau, nhưng hầu hết người ta lại muốn yêu một lần. Yêu là duyên, vượt duyên đến nợ, an nhiên với định mệnh ấy thôi.

Phật nói rằng, cuộc sống con người chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy luân hồi, kiếp này nối tiếp kiếp khác, thừa hưởng và kế thừa lẫn NỢ nhau. Con người gặp nhau là bởi chữ DUYÊN, sống và yêu nhau là bởi chữ NỢ. Nhiều cặp vợ chồng, đôi lứa đang sống với nhau mà một trong hai người bỗng có tình cảm với người khác, dẫn đến chuyện chia tay. Những người dung tục sẽ nói người kia là trăng hoa, đểu cáng … nhưng thật ra đó chỉ là người ta đã trả xong nợ và đã đến lúc phải rời đi. Chuyện tình cảm không thể níu kéo được, duyên đến không cần phải vui mừng quá đỗi, duyên đi cũng không cần phải khóc lóc thảm thiết.

Không có tình yêu thì bên cạnh bạn vẫn có bạn bè.

Không có bạn bè tri kỷ thì bên cạnh bạn vẫn còn có gia đình.

Không có gia đình thì bạn vẫn còn sinh mệnh của chính mình.

Duyên hợp, duyên tan đều lưu lại một điều gì đó tốt đẹp và một chút tiếc nuối. Trong sinh mệnh mỗi người, điều gì là của bạn thì sẽ không mất, còn như điều gì không là của bạn thì cuối cùng cũng không thuộc về bạn.

Tu có chuyển được nhân quả không ?

- Trích: “Tu Là Chuyển Nghiệp”
- Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Từ lâu, chúng ta thường nghe nói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, tức là ai tạo nhân gì thì phải thọ quả báo đúng như vậy, không sai. Song, trong kinh Phật có dạy như vậy không ?

Đây là điều mà chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận, vì đa số người mới tu đều nghĩ rằng: xưa kia làm điều tội ác, ngày nay tu hành là mong giảm bớt khổ đau. Nhưng, nếu trước đã gây nhân nào sau phải chịu quả nấy thì tu để làm gì ? Tu cốt cho hết khổ, mà nếu gây nhân nào phải thọ nhận quả nấy thì tu đâu có hết khổ ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa nông cạn, đơn giản là tác nhân nào thọ quả nấy thì sẽ thối tâm không tu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định là tác nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân mà không thọ quả, nó rất phức tạp.

Kinh A Hàm Phật có dạy: Người gây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay. Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy, và gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay.

Phật có ví dụ một nắm muối nếu hòa tan trong tô nước lạnh thì tô nước ấy mặn không uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong lu nước lớn dung lượng độ vài ba trăm lít thì nước trong lu sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mằn mặn. Và nếu nắm muối đó hòa tan trong một hồ nước dung tích bốn năm ngàn lít, nước không còn mặn, dùng xài bình thường. Nhân bất thiện là dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong tô nước thì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong lu nước thì quả mặn loãng ra, nước có thể tạm giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong hồ nước lớn, thì quả mặn không thấm vào đâu, nước dùng xài bình thường.

Cũng vậy, người mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm, tạo nhân ác thì trả quả ác nguyên vẹn dụ như nắm muối tan trong tô nước, không giải khát được. Nếu người biết tu thân, tu giới thì dụ như nắm muối tan trong lu nước, tuy vị nước mẳn nhưng cũng tạm dùng được. Còn người biết tu thân, tu giới, tu tâm dụ như nắm muối tan trong hồ nước to, vị nước không mặn, dùng xài bình thường. Vậy, nếu tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả sẽ chuyển, không thọ đúng như khi gây nhân. Như vậy nếu gây nhân ác mà không biết tu, không chuyển nghiệp thì tác nhân nào thọ quả ấy không sai chạy. Nếu gây nhân ác biết tu thân, tu giới là có chuyển nghiệp, thọ quả báo nhẹ hơn. Còn gây nhân ác biết tu thân, tu giới, tu tâm gần như chuyển hoàn toàn. Cho nên tu là chuyển đau khổ được an vui.

Kiểm lại, chúng ta từ nhỏ đến già, không ai là người hoàn toàn thiện lành, cũng có lúc người này làm người kia khóc than, cũng có lúc người kia làm người nọ oán hận. Như vậy, là đã tạo nhân xấu. Nếu hiện tại tu mà vẫn trả quả xấu như cũ thì tu có lợi ích gì ? Thế nên phải biết, tu là chuyển quả xấu, tùy theo sức huân tu nhiều hay ít mà quả tùy theo đó chuyển đổi.

Sau đây, Phật dạy:

- Có một gia chủ nuôi một bầy dê, một hôm có người thường dân tới trộm dê, bị gia chủ bắt được và đánh, đưa ra pháp luật bỏ tù. Lần khác, kẻ trộm dê là người người của quan lớn sai tới, gia chủ chỉ bực tức nói năng đôi lời chớ không đối xử thậm tệ như người thường dân trước. Kế tiếp, kẻ trộm dê do lính của vua sai đến, thì gia chủ không dám nói nặng nhẹ gì cả mà chỉ van xin năn nỉ đừng bắt dê. Trong ba trường hợp trên chứng minh rằng: người không biết tu thân, tu giới, tu tâm gây nhân bao nhiêu thì phải trả quả bấy nhiêu. Vì vậy mà nói nhân nào quả nấy, đó là dụ người thường dân trộm dê không thế lực. Trường hợp người trộm dê là lính của quan thì chỉ bị trách móc nặng nhẹ, đó là dụ cho người biết tu thân, tu giới, tuy có tạo nhân ác nhưng thọ quả báo nhẹ hơn. Trường hợp người trộm dê là lính của vua, thì không bị đánh đập, không bị nói nặng nhẹ, đó là dụ cho người tuy có tạo nhân ác nhưng biết tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả được hóa giải.

Như vậ,y để thấy cùng tạo nhân ác, tùy theo khả năng tu tập cao thấp mà thọ quả sai khác. Nếu biết tu thì quả liền chuyển, không cố định như người không biết tu. Khi biết rõ người có tu thân tu giới tu tâm thì sẽ thoát được những nghiệp quả đã gây trước kia, tuy nói thoát mà không phải hết hoàn toàn, nghĩa là nắm muối vẫn hòa tan trong hồ nước, song vì nước trong hồ quá nhiều nên không thấy mặn. Cũng như chú lính của nhà vua trộm dê, tuy chủ dê không đánh đập không nói nặng nhẹ, nhưng trong lòng chủ nhà không vui, không cảm tình. Đó là nhân quả sai biệt theo khả năng tu tập.

Thế nào là tu thân - tu giới - tu tâm ?

Tu thân là nơi thân này không làm điều ác, tất cả mọi điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh, còn mọi điều thiện phải cố gắng làm, luôn luôn nhớ và làm, đó là biết tu thân.

Tu giới là Phật tử tại gia, sau khi quy y rồi, Phật dạy phải giữ năm giới:

⒈ Không sát sanh: là không được giết người. Vì ai cũng muốn sống thì mạng sống phải được tôn trọng, không nên giết mạng sống của người. Nếu giết mạng sống của người thì bị luật pháp trừng trị. Vì tôn trọng mạng sống của mình nên phải tôn trọng mạng sống của người. Đó là lẽ công bằng, trái với lẽ công bằng là tội lỗi. Ngoài ra, đối với những con vật lớn như trâu, bò, heo, chó tránh được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu. Chủ yếu là không giết người.

Một là tự tay mình giết. Ví dụ mình oán thù ai thì tự mình đến giết người đó chết. Hai là sai bảo người khác giết, ví dụ mình oán thù người nào, mình không trực tiếp giết được bèn xúi bảo hay mướn người khác giết. Ba là hoan hỷ khi nghe thấy giết. Ví dụ mình oán thù người nào đó tự mình không giết được, khi thấy nghe người đó bị giết, mình vui mừng thích thú, như thế là phạm tội sát sanh. Vì tự tay giết là thân tạo nghiệp ác, sai bảo người giết là miệng tạo nghiệp ác, nghe thấy người giết sanh tâm vui mừng là ý tạo nghiệp ác, nên Phật cấm không cho Phật tử làm.

⒉ Không được trộm cướp: phàm của cải của người khác, chẳng được không cho mà lấy từ một cây kim, một ngọn cỏ cũng vậy, tất cả các vật chẳng được không cho mà lấy. Hoặc trộm lấy, hoặc cướp giựt, hoặc lừa gạt mà lấy, cho đến trốn xâu lậu thuế cũng đều gọi là trộm cắp.

⒊ Không tà dâm: người Phật tử sau khi lập gia đình có đôi bạn rồi mà mình còn đi ngoại tình với người khác là phạm tội tà dâm, vì đó là duyên cớ làm cho gia đình mất hạnh phúc, làm cho gia đình tan vỡ, là cái nhân gây đau khổ cho mình cho người, vì vậy mà Phật cấm.

⒋ Không nói dối: nói dối có bốn trường hợp phạm tội.

• Chuyện có nói không, chuyện không nói có, cốt lừa gạt để lấy tiền lấy của người.

• Nổi giận nói lời hung dữ, thô ác mắng chửi người, vu oan người.

• Dùng lời hoa mỹ văn chương thêu dệt để lừa gạt người.

• Nói đâm thọc làm cho đôi bên bất hòa thù oán nhau.

Đó là những trường hợp nói dối thì phạm tội. Nếu nói dối để cười cho vui, hoặc để trấn an người bệnh người khổ, hoặc để cứu mạng người thì không phạm.

⒌ Không uống rượu: nói đơn giản là rượu, ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không được dùng. Vì nó là cái nhân sanh ra bệnh hoạn, làm cho tiêu tán tài sản, mất hết trí tuệ. Nhưng, nếu vì lý do đau bệnh, cần phải uống thuốc rượu để trị bệnh thì được phép uống.

Phật dạy giữ năm giới là vì lòng từ bi, sợ chúng sanh vi phạm thì bị đau khổ. Nên giữ gìn không phạm thì được an vui. Đó là tu giới.

Tu tâm

Có nhiều người nói tôi lo tu tâm thôi lo đi chùa cũng vậy, lạy Phật để làm gì ? Vậy, tu tâm là tu thế nào ?

Tâm là chỉ cho mọi ý niệm xấu ác như tham, sân, si ... tu tâm là bỏ được lòng tham lam, tính sân hận, đố kị, si mê ... Tham thì ai cũng có, và có nhiều loại như tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham ăn, tham ngủ ... ở đậy tôi chỉ đề cập tham ăn và tham ngủ, được mọi người coi là nhỏ mọn, song muốn bỏ không phải là dễ. Ăn nếu dở quá thì không vui, nếu không no thì cũng không được, ăn thì muốn cho ngon cho no đủ. Ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, nếu bắt dậy sớm thì không vui. Vì vậy, chúng ta lúc nào cũng kẹt trong vòng tham muốn, mà đó là cái bệnh chung của mọi người, không ai là không có. Tu là dẹp bỏ lòng tham, còn sân và si luôn luôn đi chung, hễ có sân là có si.

Thuở xưa có một gia đình gồm có ba người, người con đi làm ngoài đồng, ông nội và cháu ở nhà, ông đưa cho cháu hai cái tô và hai đồng bảo:

- Cháu hãy đi mua một đồng tương và một đồng chao.

Đứa cháu cầm tô và tiền đi một lúc về hỏi:

- Thưa ông nội, đồng nào mua tương, đồng nào mua chao ?

Ông rầy cho nó một hồi, rồi bảo:

- Đồng nào mua cũng được.

Nó liền chạy đi, một lúc lâu trở về hỏi:

- Thưa ông nội, hai cái tô, cái nào đựng tương cái nào đựng chao ?

Ông giận quá tát cho nó mấy tát tai, nó khóc lu bù. Ngay khi đó, người con đi cày về, tay cầm cây roi đánh trâu, thấy con mình bị ông già đánh, nó la khóc nên nổi giận nói:

- Ông đánh con tôi, tôi đánh con ông cho ông biết.

Người con liền cầm roi tự quất lên mình túi bụi, ông già nóng ruột quá nói:

- Mày đánh con tao, tao treo cổ cha mày cho mày biết.

Ông liền làm vòng, đút đầu vô treo cổ.

Kết luận câu chuyện, quý vị thấy gia đình đó si mê ở mức độ nào ? Nếu nói ngu thì gia đình đó không ai bằng. Đứa cháu đã ngu, người cha còn ngu hơn, đến ông nội lại quá ngu. Ngu là do nổi giận mà ra vậy. Nên có sân là có si, làm mà không biết sai không biết hại. Xét lại xem, chúng ta có làm những chuyện na ná như vậy không ? Tưởng chừng như không, nhưng khi có làm mà không hay. Chẳng hạn lúc nào đó, con làm trái ý, cha mẹ nổi giận chửi “mày là đồ trâu đồ chó …”, nếu có người hỏi “nó là trâu là chó, vậy cha mẹ nó là gì ?”. Làm cha mẹ chửi con như vậy có khôn không ? Thế mà có lắm người chửi như vậy. Nên biết, hễ nổi sân là liền ngu, không biết phải quấy. Tưởng nói cho đỡ bực, nhưng không ngờ tự ngầm nhận mình là trâu là chó. Vì con là trâu chó, cha mẹ đương nhiên phải là trâu chó mới sanh con trâu chó. Hoặc có người khi giận con thì chửi ông cố nội, ông cố ngoại nó ... Ông cố nội ông cố ngoại nó là ai ? Là ông nội ông ngoại mình. Vậy mà khi giận thì người ta cứ nói cứ làm. Chẳng khác gì người kia đánh con ông già để cho ổng tức, nhưng tự đánh mình thì mình đau. Rồi ông già treo cổ cha nó, cho nó hoảng sợ, nhưng rồi chính ông chết. Vì sân si mà chúng ta không nhận biết điều phải lẽ trái, cứ làm bậy, nói bậy, khiến cho thiên hạ chê cười, nên ca dao Việt Nam có câu:

Sân si nghiệp chướng không chừa
Bo bo mà giữ tương dưa làm gì

Tu mà không chịu bỏ tham, bỏ sân, bỏ si, mà cứ khoe “tôi ăn chay một tháng mười ngày, mười lăm ngày .v.v.v.”. Ăn chay, ăn tương dưa là để chừa tham sân si, ó chừa bỏ được tham sân si thì tâm mới sáng suốt, tâm sáng suốt thì không nói bậy làm bậy, không nói bậy làm bậy thì nghiệp chướng theo đó mà giảm. Nếu không chừa bỏ tham sân si thì nghiệp chướng tội lỗi khó mà hết được.

Tuy nói tu thân, tu tâm, nhưng chủ yếu là tu tâm. Nếu tu tâm mà được viên mãn thì mọi nghiệp chướng không còn, mọi họa khổ sẽ hết, không phải trả nặng nề như lúc gây tạo. Nói nhân nào quả nấy là chưa chính xác, chưa lột lý nhân quả, vì chỉ đúng một trường hợp là người không biết tu, còn đối với người biết tu thì không đúng.

Nếu người tạo nghiệp ác nhiều, vì yếu đuối không cố gắng làm lành, chắc rằng nghiệp ác khó chuyển đổi. Ví dụ có nhiều người lỡ nghiện rượu đều được bác sĩ và bạn tốt khuyên nên bỏ rượu, vì uống rượu hại sức khỏe, tinh thần không minh mẫn, tốn kém tiền bạc, vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh phúc. Nghe lời khuyên, họ hiểu, thấy rõ uống rượu là tai hại, nhưng có người không bỏ được, vì tâm hồn họ yếu đuối bạc nhược. Lại có người ý chí mạnh mẽ biết uống rượu có hại, dứt khoát bỏ ngay. Vậy, nghiệp cũng có thể chuyển được mà cũng có thể chuyển không được, tùy theo ý chí mạnh hay yếu của mọi người.

Có nhiều Phật tử lấy làm thắc mắc hoặc nuối tiếc về những người tu xuất. Vì họ cho rằng các thầy các cô có rất nhiều duyên phước mới được xuất gia tu hành. Tại sao có nhiều người tu mười mấy hai mươi năm, học hành tương đối cũng thông, bỗng dưng cởi áo hoàn tục. Họ hỏi:

- Thầy tu ở trong đạo an ổn quá, tại sao lại hoàn tục cho phiền lụy ?

Các thầy trả lời chung chung:

- Tại nghiệp của tôi nó lôi.

Quý vị nghĩ sao ? Ai tu có nghiệp cũng bị nghiệp lôi hoàn tục hết, hay có người bị lôi có người chuyển nghiệp đổi nghiệp ? Nếu ai tu cũng bị nghiệp lôi hoàn tục, thì chắc chắn không có người tu tới nơi tới chốn. Chúng ta sanh ra trong đời này đều có liên hệ với quá khứ, kẻ có nghiệp này người có nghiệp khác ... Song, tùy theo ý chí của mỗi người yếu hay mạnh mà chuyển được nghiệp hay không. Đừng đổ thừa nghiệp, để rồi tu, nếu gặp cảnh nghịch lòng, trái ý, liền bỏ đạo về đời, lại nói do nghiệp lôi. Người như thế là người không ý chí, không gan dạ, tinh thần cầu tiến quá thấp.

Tuy nhiên chúng ta đừng khinh những người tu hoàn tục. Khi Phật còn tại thế, Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc chứng quả A La Hán, trên đường đi giáo hóa, bà gặp các cô gái trẻ, bà rủ:

- Các con nên xuất gia đi tu.

Các cô thưa:

- Các con còn nhỏ dại, ham ăn, ham ngủ, tu không được.

Bà nói:

- Không sao, cứ đi tu.

Các cô nói:

- Đi tu không làm tỳ kheo ni, lỡ tụi con phạm giới đọa địa ngục thì sao ?

- Không sao, lỡ đọa địa ngục, hết quả báo trở lên tu tiếp.

Theo bà Liên Hoa Sắc thì nếu tu phạm giới bị đọa, hết quả báo thì trở lại tu nữa, vì chủng tử tu hành vẫn còn, gặp duyên thì nhớ lại. Nếu người chưa tu lỡ tạo nghiệp ác bị đọa, hết quả báo không có chủng tử cũ thì biết bao giờ mới tu được. Bây giờ tuy người tu phạm giới bị đọa, có thua kém những người tu khác, nhưng với người chưa tu vẫn có phần hơn, vì họ còn chủng tử cũ, đủ duyên họ phát tâm tu trở lại.

Tới đây, tôi xin đi xa một chút là trình bày lý nhân quả theo tinh thần thiền tông. Trong “Chứng Đạo Ca” của Thiền Sư Huyền Giác có hai câu:

Liễu, tức nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu, ưng tu hoàn túc trái

Nếu liễu ngộ thì nghiệp chướng xưa nay là không, còn nếu chưa liễu ngộ thì phải đền nợ trước. Những nhân ác, những nghiệp bất thiện đã gây tạo từ trước, nếu tu hành không liễu ngộ thì phải trả đủ. Còn nếu tu mà liễu ngộ được thì nghiệp chướng cũ theo đó mà hóa giải không còn.

Sau có một thiền khách tên Hạo Nguyệt đến thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm hỏi rằng:

- Cổ Đức có nói: “liễu tức nghiệp chướng bổn lai không; vị liễu ưng tu hoàn túc trái”, Như Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao lại đền nợ trước ?

Trường Sa bảo:

- Đại đức chẳng biết bổn lai không.

Hạo Nguyệt hỏi:

- Thế nào là bổn lai không ?

- Ngiệp chướng.

- Thế nào là nghiệp chướng ?

- Bổn lai không.

Tại sao nói nghiệp chướng bổn lai không ? Theo Phật giáo thì nghiệp là động lực chi phối đời sống con người từ đời trước cho tới đời này và mãi về sau. Nếu con người còn tạo nghiệp thì còn trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Song, dùng trí quan sát cho kỹ thì nghiệp không thật. Ví dụ ông A nói lời hung ác (khẩu nghiệp) làm cho ông B buồn giận, sau ông A hối hận ăn năn xin lỗi ông B, ông B vui vẻ tha thứ. Khẩu nghiệp ác của ông A trước làm cho ông B buồn giận sau hối hận xin lỗi thì ông B hết buồn giận. Như vậy, nghiệp ác thật thì không đổ được, vì nó không thật nên chuyển được. Nghiệp còn là khi tâm chúng ta mê, nếu biết thức tỉnh chuyển nó thì nó hết, nên nói nghiệp vốn không thật. Tuy không thật, nhưng nếu chúng ta mê thì nó kéo đi mãi trong vòng luân hồi sanh tử không dừng.

Đã nói “nghiệp chướng bổn lai không” tại sao Tổ Sư Tử bị hành hình, Tổ Huệ Khả chết trong tù ? Trong kinh, Phật nói có nhân là có quả, nhưng quả đến còn tùy theo sức tu cao thấp mà chuyển. Tổ Sư Tử khi tới nước Kế Tân giáo hóa, bị ngoại đạo sàm tấu Ngài truyền bá tà đạo nên vua tức giận đích thân cầm gươm đến chỗ Ngài hỏi:

- Thầy được không tướng chưa ?

- Đã được.

- Đã được thì còn sợ chết chăng ?

- Đã lìa sống chết thì đâu có sợ.

- Chẳng sợ thì có thể cho trẫm cái đầu chăng ?

- Thân chẳng phải của ta, huống nữa là cái đầu.

Vua liền chặt đầu Ngài rơi xuống đất. Với con mắt phàm phu thì thấy Ngài bị trả quả chặt đầu, nhưng dưới con mắt liễu ngộ của Ngài thì thấy năm uẩn là không thật, năm uẩn còn mất là trò chơi, nên Ngài không tiếc cái đầu thì có gì gọi là trả ? Sở dĩ chúng ta thấy Ngài trả nghiệp là vì chúng ta chưa liễu ngộ còn thấy năm uẩn thật.

Tổ Huệ Khả cũng vậy, khi Ngài ngộ đạo ở Tổ Bồ Đề Đạt Ma, sau Ngài truyền tâm ấn cho Tổ Tăng Xán. Ngài nói: “ta còn chút duyên để đi trong nhân gian”, rồi Ngài đến giáo hóa ở một vùng nọ cũng bị người sàm tấu Ngài là người truyền đạo không đúng chánh pháp, quan địa phương bắt giam Ngài. Khi bị giam trong khám, Ngài chỉ cười mà không buồn. Ngài nói duyên ta hết ở đây, rồi Ngài tịch ở trong khám.

Đối với chúng ta khi bị nhốt trong khám, thấy đó là một hình phạt rất khổ đau, nhưng đối với Ngài, Ngài không thấy có những sự kiện bực bội, đớn đau, nên Ngài cười. Như vậy, ở tù mà không thấy ở tù, chết trong khám mà không thấy chết trong khám, đó là do Ngài liễu đạo. Cái quả mà chúng ta thấy Ngài trả, nhưng đối với Ngài thì không có trả.

Tôi lấy một ví dụ thực tế cho dễ hiểu, ông Tần thuở xưa chửi bới làm ông Tấn tức giận, nhưng vì ông Tấn yếu thế nên ôm hận không dám trả lời, sau ông Tấn có cơ hội trả thù ông Tần, ông Tần đã biết tu và ngộ đạo, khi bị ông Tấn chửi, ông Tần chỉ cười mà không giận. Hồi xưa ông chửi thì ông Tấn giận, nay ông Tấn chửi thì ông Tần cười. Vậy ông Tần có trả quả không ? Người không tu thấy ông Tần bị chửi, cho là ông Tần trả quả. Nhưng với ông Tần là người liễu đạo, nghe tiếng chửi như gió thoảng ngoài tai, qua rồi thì mất, nên cười mà không buồn. Vậy, dù cho nghiệp chướng xảy ra,người đời thấy kinh hoàng khủng khiếp nên thấy có trả, nhưng đối với người liễu đạo thì không có giá trị, nến thấy không có trả. Thế nên, chư Tổ không thấy trả nghiệp mà người phàm tục thì thấy có trả nghiệp. Để thấy, chúng ta tu từ thấp là giữ năm giới, thân không làm ác là đã chuyển được bao nhiêu thứ khổ đau rồi. Nếu tu tiến hơn nữa là bỏ tham lam, sân giận, si mê, tham sân si càng ít, tâm càng trong sáng, càng thanh thoát, do đó mà được an vui. Và nếu tu tới chỗ viên mãn thì mọi nghiệp chướng đối với mình coi như không có, nếu không bị nghiệp chi phối làm cho đau khổ thì không giải thoát là gì ?

Hiện nay có một số Phật tử mê tín quan niệm sai lầm, cho rằng tụng kinh Kim Cang, tụng kinh Pháp Hoa đổ nghiệp, do tu do tụng kinh nên xảy ra nhiều tai nạn ... Vậy nghiệp đó đổ bằng cách nào ? Do tụng kinh nghiệp nó tràn ra, hay do xưa kia tạo nhiều nghiệp ác bậy giờ đổ bớt đi ? Đã là Phật tử tại sao không tìm hiểu nghiệp đổ bằng cách nào, mà chỉ nghe nói đổ nghiệp là không dám tụng kinh nữa. Học đạo như vậy quá sai lầm, tu là để chuyển nghiệp, giảm nghiệp, chuyển và giảm không có nghĩa là thêm, là đổ ra.

Nếu xưa kia tạo nghiệp ác, đáng lý trả bằng sự đánh đập, hoặc trả bằng tai nạn mất nhân mạng, nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi hay bị trộm cắp mất tiền của. Khi bị mắng chửi hay mất tiền của, nên quán xét: có thể nghiệp chướng của mình phải trả bằng tai nạn nặng nề khổ đau hơn nhiều, nhờ biết tụng kinh nên được chuyển nghiệp chỉ bị mắng chửi mất tiền của thì quá tốt. Xét như vậy, thì sự tu học mới tiến bộ, ngược lại, nghe nói đổ nghiệp cứ tin suông rồi hoảng sợ không tu nữa, là sai lầm.

Lại có nhiều Phật tử quan niệm rằng đi chùa quy y biết tu rồi, thì kể từ đây về sau cuộc sống sẽ bình an không có gì trở ngại. Tu là phải hanh thông mọi việc, nếu có trục trặc thì thối chí nản lòng không tu. Chúng ta nhớ, tu là bỏ ác làm lành, thì ở trong đời nếu có tai nạn xảy ra, biết đó là nghiệp quá khứ còn rơi rớt lại, không sợ hãi, không thối chí, vững lòng tin mà tiến tu không thối chuyển.

Đừng nghĩ tu là mọi nghiệp xấu sạch hết, mọi việc xảy ra đều như ý. Chính Đức Phật là người tu hành công đức viên mãn, thế mà Ngài còn gặp những cái khó khăn nguy hiểm. Có lần Ngài đi giáo hóa ở một làng Bà La Môn, gia đình nọ giỏi về tướng số, sanh được một người con gái rất đẹp. Ông Bà La Môn này muốn gả con gái ông cho người có đủ ba mươi hai tướng tốt, nhưng tìm mãi chưa dược. Bỗng một hôm tình cờ ông gặp Phật đang đi giáo hóa, ông mừng quá chạy về nhà kêu vợ ra xem. Bà ra thấy Phật rất hài lòng, đúng là đủ ba mươi hai tướng tốt, bà bèn ngỏ ý gả con gái cho Ngài.

Phật nói “đối với bà thì con gái bà đẹp, song, đối với ta đó là một dãy da hôi thúi, tất cả trong thân nàng đều là bất tịnh”. Nghe Phật đáp, bà buồn, trở về nhà thuật lại câu chuyện cho con gái nghe, cô tự ái nổi giận, ôm lòng thù oán thề rằng sẽ trả thù Phật. Sau cô được làm hoàng hậu của một nước, bấy giờ Phật đến giáo hóa ở xứ đó, hoàng hậu bèn tập hợp du đãng chận đường Phật để mắng chửi. Tôn Giả A Nan đi theo Phật, thấy du đãng vây mắng thậm tệ, Ngài không chịu nổi, mới nói:

- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn đi nước khác giáo hóa.

Phật hỏi:

- Đi đâu ?

A Nan thưa:

- Thế Tôn đi nước nào cũng được, vì ở nước này cứ bị người vây chửi, con không cam chịu được.

Phật hỏi:

- Giả sử đi tới chỗ khác bị người ta chửi nữa thì A Nan tính sao ?

A Nan thưa:

- Nếu tới đó mà bị chửi nữa thì chúng ta về nước Xá Vệ, Ma Kiệt Đà ... chỗ mà Thế Tôn có nhiều đệ tử ở đó giáo hóa.

Phật hỏi:

- Nếu là thầy thuốc giỏi, A Nan có nên đề bảng: “tôi chỉ trị những bệnh nhẹ, không trị những bịnh nặng” chăng ?

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn, không được, thầy thuốc giỏi phải trị bệnh nặng mới cứu được nhiều người.

Phật nói:

- Cũng vậy, dân ở đây họ nhiều mê muội như người bệnh nặng, nên gặp ta họ chửi. Thôi, thong thả, để ta giáo hóa họ, vì họ cần ta.

Du đãng tiếp tục chửi Phật. A Nan nói:

- Họ cứ chửi Thế Tôn hoài, làm sao giáo hóa được ?

- Chừng nào họ không nghe lời nói của ta thì ta đi.

Nghe Phật trả lời A Nan như vậy, du đãng nói:

- Thôi, Cù Đàm ở đây giáo hóa, chúng tôi sẽ nghe lời Ngài dạy.

Từ đó Phật nói pháp giáo hóa với họ.

Quý vị thấy, Phật mà còn bị người chửi mắng huống là chúng ta. Nhưng điều quan trọng là Tôn Giả A Nan cũng như chúng ta còn tâm phàm, nên nghe chửi không chịu được. Còn Phật đã giác ngộ, tiếng chửi đối với Ngài như gió thoảng ngoài tai. Ngài không động tâm nên thương họ là những người mê muội bệnh nặng, nên nói pháp cứu chữa.

Cũng vậy, chúng ta khi phát tâm tu, nếu gặp người làm khó không nên buồn giận mà phải quán khởi lòng thương và cảm hóa họ. Nhất là những Phật tử có gia đình mà biết tu, hoặc bị chồng hay vợ hay con làm khó dễ, đó là cơ hội tốt để mình tu, chớ buồn giận và đừng cho rằng bạn mình con mình phá rối không cho mình tu, mà nên xét nghĩ thương bạn thương con, vì chưa hiểu đạo còn mờ tối nên cần sự cảm hóa của mình. Thế nên, tất cả mọi khó khăn, những lời xúc não, nếu chúng ta biết tu, tâm sáng suốt hóa giải tất cả thì được an vui.

Một lần khác Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn thong thả đi, họ đi theo sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức, chận Phật lại hỏi:

- Cù Đàm có điếc không ?

- Ta không điếc.

- Ngài không điếc tại sao không nghe tôi chửi ?

- Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng, họ không nhận thì quà ấy về ai ?

- Quà ấy về tôi chứ ai.

- Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.

Người kêu tên Phật chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng nói gió ở đâu đâu cũng lắng nghe để buồn để giận, như vậy mới thấy những lời cuồng dại của chúng sanh Ngài không chấp không buồn, còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng, nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương của Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người đừng quan tâm, như thế mới được an vui.

Trong kinh Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó, người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống mặt người phun. Thế nên, có thọ nhận mới dính mắc khổ đau, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau, quý vị có ai nghe ai nói gì về mình dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui. Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai thứ ba, thì tìm phăng ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ không phải người trí. Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết giải, không thọ nhận, đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa, nếu còn buồn giận vì một vài lý do bất như ý bên ngoài, đó là tu chưa tiến.

Tinh thần nhân quả của đạo Phật không phải gây nhân nào chịu quả ấy trọn vẹn, ngoại trừ người không biết tu thì nhân quả không sai khác. Còn với người biết tu thì nhân quả biến chuyển theo công phu tu hành cao thấp mà có sai khác. Tu là chuyển nghiệp giảm hết phiền não khổ đau để được an vui hạnh phúc, đó là tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu tu sai thì không chuyển được nghiệp nên phiền lụy cứ dai dẳng khổ đau không đứt trừ, lại còn thối chí tu tập, không được lợi ích gì cả. Tôi mong rằng quý Phật tử sau khi nghe pháp nên nghiệm xét ứng dụng tu hành để trên đường tu mỗi ngày mỗi tiến cho hết khổ, được vui.

Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|69|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

“Sống cả trăm năm mà không thấy cuộc sống này là vô thường, chẳng bằng sống một ngày mà thấy mọi thứ đều vô thường, mong manh khó lường, tất cả đang mất đi”.

Không phải khi nhận thấy cuộc sống vô thường thì cuộc sống sẽ không còn vô thường với họ nữa. Cuộc sống vẫn vô thường như vậy, luôn vận động, mãi đổi thay, chỉ là lúc này, sẽ thôi chờ mong những điều quanh mình là mãi mãi để lòng được bình yên, mà sẽ học cách bình yên giữa những đổi thay vô thường, bình thản giữa những tàn phai.

Không phải khi nhận ra lửa là nóng thì lửa sẽ thôi không nóng nữa, lửa vẫn nóng như vậy, chỉ là lúc này, ta biết cách để lửa không làm tổn thương mình, biết cách dùng hơi ấm của lửa để làm những việc có ích mà mình muốn.

Có người vẫn mang trong lòng suy nghĩ “tất cả đều vô thường” để có thể bình thản đi qua hết những nỗi buồn rất dài đó thôi, với niềm tin, đại dương mênh mông cũng còn có bờ, dù hút trong tầm mắt, không thấy bến bờ ở đâu.

Cả trăm năm chấp chới trong biển sinh tử chẳng bằng một ngày về được đến bờ, ngồi bình thản, nhìn lại biển sinh tử, những con sóng bạc đầu từng nhận chìm mình ngày xưa giờ đẹp như một bức tranh.

Tuyệt nhất là đến một ngày, ta nhận ra cuộc sống là vô thường, cảm nhận vô thường thật sự bằng tất cả các giác quan, mắt thấy được màu vô thường, tai nghe được tiếng vô thường, mũi ngửi được mùi vô thường, lưỡi nếm được vị vô thường, tay chạm được vào vô thường … Rồi nhìn lại hôm qua, thấy tất cả đều rất đẹp, kể cả những nỗi buồn, kể cả những nuối tiếc, kể cả những dở dang.

Nỗi đau không đi cùng với con người từ khi họ vừa sinh ra, nó chỉ đến và bắt đầu đi chung khi họ vẫn muốn giữ nguyên vẹn một điều mà nó đã tàn phai.



D.P.A (79)

(Thích Nhật Từ)

Ngẩng đầu nắng rọi Ta Bà
Lòng tràn từ ái nở hoa Ưu Đàm



Sống như ngày mai chết

(Thích Tánh Tuệ)

Sống chết kề nhau trong tóc tơ
Có nhiều kiếp sống vẫn nằm mơ
Chỉ đang tồn tại bằng hơi thở
Rồi chết đi như chưa sống bao giờ

Có kẻ chết đi vẫn sống hoài
Trong lòng nhân thế chẳng phôi phai
Bởi tâm hi hiến cùng nhân loại
Người ấy ra đi vẫn ... sống dài

Ta đến nơi đây ắt vạn lần ...
Nổi chìm, tan biến tựa phù vân
Phải chăng hiện hữu rồi ... vô nghĩa
Nằm xuống, vương mang khối nghiệp trần

Hãy sống như ngày mai chết đi
Sống cùng Trí Tuệ với Từ Bi
Hôm nay Tỉnh Thức, vui hành thiện
Mai dẫu vô thường, buông, sá chi

Hãy sống như chỉ sống một đời
Nụ cười Hỷ Xả thắp trên môi
“Ngày đến, người cười, mình ta khóc
Ngày đi, bao kẻ khóc, ta cười …”

Sống chết cận kề trong phút giây
Ngay trong hơi thở, trút thân này
Quay về Chánh Niệm tan niềm tục
Lòng nhẹ nhàng vui trước đổi thay



In the end ...

(Buddha)

In the end, only three things matter: how much you loved, how gently you lived, and how gracefully you let go of things not meant for you.

╰▶ Cho đến cuối cùng, chỉ duy nhất ba điều tồn tại: bạn đã yêu bao nhiêu/như thế nào; bạn đã sống hoà nhã/cao quý ra sao; và phong nhã như thế nào khi bạn buông xuống những thứ không thuộc về mình hoặc không có ý nghĩa với mình.



Tâm an, vạn sự an

(Thích Nhật Từ)



Sắc đẹp là điều rất quan trọng, gương mặt đẹp là điều rất cần thiết trong cuộc sống này, cũng là điều hãnh diện, là cái phúc của mình. Không phải vì người ta thiên vị với người đẹp, người dễ thương, mà đơn giản, đẹp vốn dĩ là một cái phước.

Cái tâm bên trong là cái nhân, mà cái tướng bên ngoài là cái quả. Tâm đẹp thì mặt sẽ đẹp. Chúng ta hãy soi gương và nhìn khuôn mặt mình sẽ thấy tâm của mình. Nếu ngày hôm đấy mình soi gương mà mình thấy mặt mình đẹp, biết rằng thời gian qua cái tâm mình đẹp. Vì vậy, muốn có nhan sắc đẹp thì hãy tu dưỡng nội tâm mình cho đẹp. Không tốn tiền đi sửa sắc đẹp, để tiền đó để làm việc nghĩa, gương mặt sẽ đẹp bền bỉ.

Chúng ta muốn đẹp mà chỉ lo chăm sóc bên ngoài thì sau này sẽ tàn tạ nhiều hơn, cho nên, mỗi lần ta khởi được tâm thương người là mỗi lần mặt ta đẹp hơn chút, mỗi lần chúng ta giận mặt lại xấu đi. Cứ như vậy mà biết điều chỉnh. Mỗi lần chúng ta lạy Phật, mặt sẽ đẹp hơn một chút. Mỗi lần chúng ta khinh thường người, mặt sẽ xấu đi một chút. Mỗi lần chúng ta kiêu ngạo, mặt mình xấu đi một chút. Cứ một lần chúng ta hạ mình, khiêm tốn, tôn trọng người khác, mặt mình đẹp hơn một chút. Đó là những phương pháp thẩm mỹ tuyệt vời nhất, không có phương pháp thẩm mỹ nào đẹp bằng phương pháp thương người, tôn trọng người, lễ Phật, giúp người.

Thân ngay thì bóng thẳng ngay
Tâm chân thì sẽ hiện bày tướng chân
Thân tâm thanh tịnh, thánh nhân
Sống đời tự tại, tinh thần thảnh thơi

Cái đẹp ngày xưa nhờ phấn son, chẳng thể mãi thường còn. Nay ta làm đẹp bằng giới đức, từ bi trí tuệ mãi đẹp hơn, coi việc người như việc mình, chân thật mà làm, hết mình mà làm, sẽ được mọi người thương yêu. Đi đâu, đến đâu cũng sẽ được người tin dùng.

Bước chân vào đến cổng chùa rồi
Bao nhiêu toan tính hãy buông lơi
Để tâm thanh tịnh, thân thư thái
Gương mặt tươi vui, miệng mỉm cười

Tâm an vạn sự đều bình an. Bình an đến từ bên trong chứ không phải ở bên ngoài.

Mỗi người chỉ là khách qua đường giữa trời đất, mọi chuyện hãy cứ để tùy duyên

(Sưu tầm)

Đời người, một nửa là vượt mọi chông gai, một nửa là giã từ sự nghiệp khi đang trên đỉnh vinh quang, mỗi người chúng ta chẳng qua chỉ là khách qua đường trên thế gian này, mọi chuyện cứ hãy tùy duyên.

Đời người chính là một ‘trường tu hành’

- Có những người, giống như hoa sen vậy, chỉ có thể ngắm nhìn từ xa.

- Có những người, giống như tách trà, có thể từ từ nhâm nhi thưởng thức.

- Có những người, giống như cơn gió thoảng, vậy nên không cần phải để tâm.

- Có những người, giống như cây cổ thụ, để ta yên tâm dựa vào.

Đời người chính là một cuộc tu hành, khi trái tim dịu lại rồi, cảm thấy hết thảy đều bình yên.

Tâm thanh tịnh rồi, cuộc sống cũng theo đó mà trở nên tốt đẹp. Trong tâm vui vẻ rồi, hạnh phúc cũng theo đó mà đến.

Con người, chỉ là khách qua đường giữa trời đất, hết thảy đều hãy tùy duyên.

Đời người, chẳng qua chỉ như một ly trà

... đầy cũng vậy, vơi cũng vậy, có gì phải tranh luận.

... nồng cũng vậy, nhạt cũng vậy, mỗi cái đều tự có hương vị riêng.

... vội vàng cũng vậy, chậm rãi cũng vậy, thế thì đã làm sao.

... ấm cũng tốt, mà lạnh cũng tốt, ta hãy nhìn nhau với một nụ cười.

Đời người - bởi quá để tâm, vậy nên thống khổ vô bờ, bởi quá hoài nghi, vậy nên mới tổn thương nhau.

Đời người - bởi vì xem nhẹ, vậy nên lúc nào cũng vui vẻ, bởi vì nhìn thấu, vậy nên luôn cảm thấy hạnh phúc.

Chúng ta đều chỉ là khách qua đường giữa trời đất, rất nhiều con người và sự việc, chúng ta đều không thể làm chủ được, mọi thứ cứ hãy tùy duyên.

Khoan thứ cho người, cũng là giải thoát cho mình

Khi chúng ta bị hiểu lầm, bạn sẽ dành bao nhiêu thời gian để phân trần giải thích ?

Mỗi người chúng ta thật ra đều quá cố chấp. Thay vì cố gắng đau khổ xoay chuyển phán xét của người khác, chi bằng hãy âm thầm chịu đựng, cho người ta thêm chút thời gian và không gian để hiểu bạn nhiều hơn. Thật ra, tha thứ cho người khác, cũng bằng như tha thứ cho bản thân mình. Tha thứ cho bản thân, cũng là tha thứ cho người khác.

Đọc hiểu bản thân

Có những sự tình, khi chúng ta còn trẻ thì không cách nào hiểu được, đến khi chúng ta hiểu được rồi, thì đã không còn trẻ nữa.

Có những người, dù đã tiếp xúc với nhau cả một đời, cũng không cách nào đọc hiểu được nhau. Có những người, dù chỉ tình cờ gặp nhau trong biển người mênh mông này, nhưng lại trở thành tri kỷ trong suốt một đời của nhau.

Thấu hiểu một người cũng như mua quyển sách vậy, chúng ta thường chỉ luôn chú ý đến vỏ bìa đẹp đẽ, nhưng lại thường bỏ quên nội dung của quyển sách. Chúng ta chỉ chú ý đến danh ngôn của những người nổi tiếng, mà quên mất rằng bản thân mỗi người chẳng ai giống ai. Muốn đọc hiểu người khác, trước hết phải đọc hiểu chính bản thân mình.

Khóc và Cười

Mỗi khi bạn khóc, chỉ có thể khóc một mình, không người nào để tâm đến sự yếu đuối của bạn, bạn chỉ có từ từ lựa chọn sự kiên cường. Còn như bạn cười, thì cả thế giới đều sẽ mỉm cười với bạn. Bạn cho thế giới một tia sáng, thế giới này sẽ trả cho bạn cả một mùa xuân.

Rất nhiều lúc, chúng ta đều là bước đi trong nỗi cô đơn, đừng kỳ vọng người khác đến hiểu rõ tâm hồn bạn, tán thành cách nghĩ của bạn, cần phải biết rằng, bạn chỉ là bước trên đường nơi thế gian, và thế gian trao lại cho bạn cả một khung trời.

Chữ “Đạm” (淡), một bên là nước, một bên là lửa

Đời người, một nửa là vượt mọi chông gai, một nửa là giã từ sự nghiệp khi đang trên đỉnh vinh quang.

Nước – Lửa vốn không thể dung hòa với nhau, người tạo chữ lại khéo léo kết hợp hai chữ này với nhau, vén mở ý vị thật sự của chữ “Đạm” (xem nhẹ). Đây chính là cương nhu kết hợp.

Trăng khuyết thì lại tròn, trăng tròn thì lại khuyết. Cảnh giới cao nhất của đời người, không phải là một mực “tiến lên”, cũng không phải là một mực “thoái lùi”. Con người, chẳng qua là khách qua đường nơi thế gian, mọi chuyện hãy cứ để tùy duyên.

Người khác không cách nào thay thế được

Chúng ta có một loại tính lười trời sinh, luôn muốn chịu cái khổ ít nhất, đi con đường tắt ngắn nhất, nhưng lại có được lợi ích thu được lớn nhất.

Có những sự tình, người khác có thể làm thay bạn, nhưng không cách nào thay thế được cảm nhận của bạn. Nếu thiếu mất đi một quá trình này, dù bạn có thành công hơn nữa, trên mảnh đất tinh thần vẫn là một vùng hoang vu.

Niềm vui của thành công, thỏa mãn của thu hoạch không ở điểm cuối cùng của sự nỗ lực, mà là trong quá trình cố gắng. Con đường bạn phải tự mình bước đi thì phải tự chính bạn bước đi, người khác không cách nào thay thế được. Đi tốt con đường mình đã chọn, chúng ta đã từng khát khao tình tiết lắt léo của vận mệnh, đến cuối cùng mới phát hiện, phong cảnh duyên dáng nhất của đời người, lại là điềm tĩnh và bình thản trong tâm.

Chúng ta từng cầu mong có được sự công nhận của bên ngoài, nhưng đến cuối cùng mới biết, thế giới là của bản thân mình, không chút liên quan với người khác.

Chúng ta từng so đo với hồi báo mà bản thân đã phó xuất, đến cuối cùng mới hiểu được. Hết thảy những thứ có được, đến cuối cùng sẽ mất đi, chỉ còn lại một mớ hư danh.

Con người, chỉ là khách qua đường giữa trời đất, hết thảy đều hãy tùy duyên. Đi tốt con đường đã chọn, bạn mới có thể là chính bản thân bạn.

Bình tĩnh sống

(Nguyễn Tuấn Quỳnh)



Không sao đâu, cứ bình tĩnh sống
Kệ hết đi như gió thoảng trên đồng
Đời toan tính mỏi mòn trong được mất
Một kiếp người thoáng chốc hoá hư không

Chẳng sao đâu, an tịnh giữ trong lòng
Đường vạn dặm nhẹ hành trang thẳng bước
Chuyện hợp tan phù du như mây nước
Bận lòng chi, ta – lữ khách phiêu bồng

Bình tĩnh sống, tâm ta là quán trọ
Khách là thân, sẽ đến lúc giã từ
Danh lợi lắm nhưng ra đi tay trắng
Chỉ tình người sống mãi với nhân gian

Không sao đâu, cứ bình tĩnh sống
Buông bỏ đi cho vơi bớt nỗi buồn
Tâm tư lự giữa đất trời cao rộng
Thanh thản lòng chào đón những hừng đông

Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|68|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

Nơi đây ...

Tháng Bảy ...

Mùa hoa dại đã về đến dưới hiên.

Mặc cho nắng tháng Tư.

Mặc cho mưa tháng Năm.

Mặc cho gió tháng Sáu.

Mặc cho lòng người lạnh nhạt hờ hững quanh năm. Mùa hoa dại vẫn về đúng hẹn. Để tháng Bảy, mỗi sớm mai, mở cửa sổ, lại thấy dưới hiên những đóa hoa dại tím nhạt bình thản.

Dưới hiên nhà tháng Bảy, lũ cỏ dại về viết lên những câu kinh: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh …”

Những câu kinh vô tự, những lời kinh vô ngôn, từ muôn đời nay vẫn mãi ở đó, chờ người hữu duyên.

Hoa của năm nay, hoa của những mùa cũ, hoa của những mùa sau này, chẳng phải một, nhưng cũng chẳng phải khác, có một điều bất biến giữa dòng sinh diệt, có một điều còn mãi từ những mùa hoa.

Tháng Bảy mưa ...

Tháng Bảy gió ...

Dưới hiên nhà vẫn ấm những câu kinh.

Người ngày mới an.



D.P.A (78)

(Lời Phật dạy)

Vô bệnh đệ nhất lợi
Tri túc đệ nhất phú
Thiện hữu đệ nhất thân
Niết bàn đệ nhất lạc



Anh thương em

- Trích “Phép Tắc Người Con”,Bài 8
- Theo Zhengjian,Kiến Thiện biên dịch



Anh thương em, em kính anh
Anh em thuận, hiếu trong đó
Nhẹ tiền bạc, oán nào sinh
Lời nhường nhịn, giận tự hết

Diễn giải

Người anh nên yêu thương người em, người em nên tôn kính người anh. Anh em có thể chung sống hòa thuận thì đạo hiếu đã ở trong đó rồi. Giữa anh em với nhau, xem nhẹ vấn đề tiền bạc của cải thì oán hận sinh ra từ đâu ? Lời ăn tiếng nói giữa anh em với nhau cần nhẫn nhịn, nhường nhịn nhiều hơn thì tức giận tự nhiên tiêu trừ.

Câu chuyện tham khảo: NẤU ĐẬU ĐỐT CÀNH ĐẬU, TÀO THỰC LÀM THƠ TRONG BẢY BƯỚC CHÂN

Ngụy Văn Đế Tào Phi thời Tam Quốc và em trai là Tào Chương, Tào Thực đều do Biện Thái hậu sinh ra. Tào Phi sau khi kế thừa ngôi vị của Tào Vũ Đế Tào Tháo, vì đố kỵ Nhậm Thành Vương Tào Chương vũ dũng cường tráng nên đã dụ dỗ lừa Chương ăn táo có thuốc độc mà chết, thái hậu giải cứu không kịp. Tào Phi lại muốn hãm hại Đông A Vương Tào Thực, thái hậu nói: “con đã sát hại con trai ta là Nhậm Thành, không được sát hại con trai ta là Đông A nữa”. Ngụy Văn Đế đã lệnh cho em trai Tào Thực phải làm được bài thơ trong bảy bước chân, nếu không làm được sẽ bị xử tội nặng. Tào Thực lập tức làm bài thơ rằng:

Nấu đậu để làm canh
Lọc đậu để lấy nước
Cành đậu đốt đáy nồi
Ở trong nồi đậu khóc
Vốn một gốc sinh ra
Đốt nhau sao quá ác

Tào Văn Đế nghe xong, nét mặt lộ vẻ xấu hổ, lòng cảm thấy rất hổ thẹn.

(Nguồn: “Thế thuyết tân ngữ” của Lưu Nghĩa Khánh nước Tống thời Nam Bắc Triều)

PHỤ CHÚ

Bài thơ “Thất Bộ thi” của Tào Thực

 七步詩
 煮豆持作羹,漉菽以為汁
 萁在釜下燃,豆在釜中泣
 本是同根生,相煎何太急

Âm Hán Việt:

 Thất bộ thi
 Chữ đậu trì tác canh
 Lộc thục dĩ vi trấp
 Cơ tại phủ hạ nhiên
 Đậu tại phủ trung khấp
 Bản thị đồng căn sinh
 Tương tiễn hà thái cấp

Dịch nghĩa:

 Đun đậu nấu làm canh
 Lọc đậu để lấy nước
 Cành đậu đốt ở dưới nồi
 Hạt đậu ở trong nồi khóc
 Vốn từ một gốc sinh ra
 Sao lại đốt nhau khốc liệt như vậy ?

Nguyên tác

兄 道 友 弟 道 恭
兄 弟 睦 孝 在 中
財 物 輕 怨 何 生
言 語 忍 忿 自 泯

Âm Hán Việt

Huynh đạo hữu, đệ đạo cung
Huynh đệ mục, hiếu tại trung
Tài vật khinh, oán hà sinh
Ngôn ngữ nhẫn, phẫn tự mẫn

Chú thích:

- Huynh đạo: đạo làm anh, đạo có nghĩa là đạo lý, phép tắc.

- Hữu: hữu ái, thương yêu.

- Cung: cung kính.

- Mục: hòa mục, hòa thuận.

- Khinh: xem nhẹ, coi nhẹ.

- Oán: oán hận.

- Hà sinh: từ đâu mà sinh ra. Hà có nghĩa là đâu, ở đâu, sao. Sinh có nghĩa là sinh ra, sản sinh.

- Nhẫn: nhẫn nhịn, nhẫn nại, nhường nhịn.

- Phẫn: phẫn nộ.

- Mẫn: tiêu trừ.

Giọt nước về nguồn

(Thích Tánh Tuệ)



Giọt nước chưa biết được
Mình thuộc về biển khơi
Đã tan theo ngày nắng
Làm mây giăng ngang trời

Giọt nước chưa dứt nợ
Bén duyên thành kiếp mây
Mây bay hoài năm tháng
Buồn, vui cùng đó đây

Giọt nước chưa biết được
Gió trần gian vô tình
Một hôm mây thành nước
Rơi xuống đời lênh đênh

Giọt nước còn say ngủ
Giấc luân trầm chiêm bao
Sáng nay choàng tỉnh dậy
Hỏi chốn đây nơi nào

Giọt nước chưa thấu được
Tự thể là rừng xanh
Dưới chân là nguồn cội
Nên lên thác, xuống ghềnh

Giọt nước đâu nhớ được
Mình vốn là dòng sông
Sông dạt dào lưu chuyển
Mặc tình ... ai biết, không

Giọt nước nhờ giọt lệ
Biết mình là đại dương
Chợt ... mỉm cười hạnh phúc
Chân thường trong vô thường

Suy nghĩ nhiều để làm gì ?

(Sưu tầm)

Làm người, suy nghĩ nhiều để làm gì ? Nghĩ nhiều thì đau đầu, nghĩ lâu thì mỏi mệt. Suy nghĩ vẩn vơ rồi lo lắng mông lung. Chi bằng tìm chút việc để làm.

Chúng ta chỉ có một cuộc đời này, kết thúc rồi thì không thể quay lại, mất đi rồi thì chẳng thể tìm về. Thời gian của mỗi người rất ngắn, cuộc sống đáng giá hơn tiền của, quý trọng hơn vàng bạc, vậy nên đừng lãng phí. Đừng suy nghĩ nhiều nữa, trân trọng những gì trước mắt thôi.

Sống một ngày biết được một ngày, qua một ngày biết hết một ngày. Chúng ta không thể dự đoán được một phút sau sẽ có việc gì phát sinh, cũng không biết mình và người bên cạnh ai sẽ rời đi trước. Những người bạn quan tâm, hay người quan tâm bạn, cũng chỉ là mối nhân duyên ở kiếp này, qua rồi chưa chắc sẽ gặp lại.

Vậy suy nghĩ nhiều để làm gì ? Mệt rồi thì nghỉ ngơi, thấy phiền thì thư giãn chút. Đời người việc bất như ý luôn luôn có, trong cuộc sống kẻ nhìn bạn không thuận mắt cũng rất nhiều. Đừng quan tâm đến những lời đồn thổi, nhìn nhẹ nhàng những trắc trở gập ghềnh, biến sự đả kích thành động lực, xem thất bại như bài học, rồi tiếp tục đi con đường của mình, làm công việc của mình.

Người biết đau không chỉ có mình bạn, ai cũng phải vừa trị thương vừa kiên cường, vừa trải nghiệm vừa trưởng thành.

Cuộc sống, dù mệt mỏi cũng phải đối diện.

Ngày tháng, dù vất vả cũng phải đi qua.

(Nên nhớ)Trên đời này ai cũng có những khó khăn riêng, nên cứ vững tâm mà cố gắng.

Cho người già bệnh

(Sưu tầm)

Hôm nay tôi có bài thuyết pháp ngắn về đề tài cho người già bệnh. Lý do có bài pháp này là vì một Phật tử đến yêu cầu chúng tôi rằng có cha mẹ già bệnh nặng, nên muốn khi cha mẹ lâm chung được tỉnh táo sáng suốt, không bị hôn mê hoảng sợ. Vì tình của người Phật tử hiếu thảo nên tôi hứa, đồng thời cũng nghĩ thương người già bệnh trong khi mệt mỏi đau đớn, nên chúng tôi nói bài pháp này.

Trước hết nói về cái chết không đáng sợ. Mọi người đều có quan niệm sanh là vui, chết là khổ; sanh là mừng, chết là sợ. Vì vậy ngày sinh nhật gọi là ngày ăn mừng sinh nhật, còn ngày chết con cháu cúng giỗ gọi là ngày cúng kỵ, tức ngày sợ sệt.

Quý Phật tử hiểu đạo thì ngày chết là ngày đáng sợ hay không đáng sợ ? Thật tình cái chết không đáng sợ. Già, bệnh là hai thứ khổ trong bốn thứ khổ Phật nói: sinh, lão, bệnh, tử. Đã mang hai thứ khổ này vào mình là một gánh nặng đau khổ. Nếu gánh nặng đau khổ được quăng đi thì nó được nhẹ nhàng. Vậy chết là quăng được gánh nặng của già và bệnh. Lúc đó chúng ta thảnh thơi nhẹ nhàng, có gì đâu mà phải sợ. Nên chúng tôi nói chết là không đáng sợ.

Điểm thứ hai, như kinh Phật thường nói, có sanh là có tử. Có sanh ra thì phải có chết, đây là chuyện thường, không ai tránh khỏi. Như Đức Phật tu hành rốt cuộc tám mươi tuổi Ngài cũng chết. Các ông tiên mà chúng ta đọc được trong truyện Tàu như Bát tiên .v.v.v… nói trường sinh bất tử nhưng sự thật tám chín trăm năm rồi cũng mất, cũng chết. Do đó tám ông tiên mà bây giờ tìm một ông cũng không ra.

Nên biết dù cho tu đắc đạo như Phật, thân này tới khi hoại cũng phải hoại. Dù luyện được thuốc trường sinh bất tử như thần tiên, thân này đến lúc hoại cũng phải hoại, chớ không bao giờ giữ được mãi mãi. Vì vậy chết là lẽ thường, là việc chung cho tất cả, không ai tránh khỏi. Cái không tránh khỏi mà mình sợ là chuyện vô ích, nếu không nói đó là chuyện khờ khạo. Chúng ta là người hiểu đạo rồi biết rằng có sanh là phải có tử. Ngày chết là ngày sẽ đến, bất cứ người nào cũng phải nhận. Chết là chuyện thường, đã là thường thì không sợ.

Tôi nhớ Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ khi sắp tịch nằm trên bộ ngựa, nghiêng bên phải nhắm mắt để tịch. Bấy giờ những người hầu thiếp khóc rống lên, Ngài liền ngồi dậy, súc miệng, rửa mặt, rồi nói: “sanh tử là lẽ thường, sao lại buồn thảm luyến tiếc như thế, làm não hại chân tánh ta”. Nghe xong, các vị kia mới yên lặng. Ngài nằm nghiêng bên phải mà tịch. Chúng ta thấy rằng đối với Ngài sanh tử là việc thường. Đã là việc thường thì không có gì quan trọng hết. Do đó Ngài tự tại ra đi. Còn chúng ta cho cái chết là lớn lao đáng sợ, nên tới đó chúng ta kinh hoàng. Kinh hoàng là đau khổ. Vì vậy người Phật tử chân chính lúc nào cũng biết rằng chuyện chết sống không thể tránh được. Không tránh được thì chúng ta chuẩn bị ngay những cái gì cần sau khi chết, đừng để tới đó rồi sợ hãi chỉ là chuyện vô ích thôi.

Điểm thứ ba, người Phật tử hiểu đạo khi tu ít nhất cũng giữ năm giới, nhiều hơn thì thập thiện. Biết giữ năm giới, biết tu thập thiện thì khi chết chúng ta sẽ sanh về đâu ?

- Nếu giữ năm giới trọn vẹn thì sau khi chết chúng ta sẽ trở lại làm người đầy đủ phước đức, tức là do giữ giới không sát sanh nên được tuổi thọ; giữ giới không trộm cướp nên được nhiều của cải; giữ giới không tà dâm nên được đẹp đẽ oai nghi; giữ giới không nói dối nên lời nói thanh tao, được mọi người tín nhiệm; giữ giới không uống rượu nên có trí tuệ sáng suốt. Thế nên sinh làm người được đầy đủ phần tốt đẹp của con người, không có gì thiếu thốn hết. Như vậy thân này hoại rồi được thân kế tốt đẹp hơn, phước đức hơn, có gì mà chúng ta phải sợ.

- Còn nếu tu thập thiện khi bỏ thân này sẽ được sanh lên cõi trời, hưởng phước đức thù thắng nhiều hơn cõi này, tức là đẹp đẽ hơn gấp bao nhiêu phần.

Chúng tôi thường nói chết như đổi chiếc xe cũ lấy chiếc xe mới. Chiếc xe cũ xấu hư, chúng ta lấy chiếc xe mới tốt đẹp, hoàn hảo hơn. Cho nên chúng ta hoan hỷ bỏ thân này, vì biết rằng khi bỏ thân này chúng ta sẽ được thân sau tốt đẹp hơn, có gì đâu phải lo buồn. Thật ra chết không đáng sợ, chỉ sợ mình không biết tu. Đó là điều tôi muốn nhắc tất cả quý vị đang ở trong hoàn cảnh bệnh hoạn đau ốm, không thể tin tưởng rằng mình còn sống lâu, ráng nhớ mà tu hành.

Trong nhà Phật có nói đến cận tử nghiệp. Cận tử nghiệp này rất mạnh, có công năng đưa chúng ta tới chỗ tốt hay chỗ xấu khi chúng ta sắp lâm chung.

Trước hết nói cận tử nghiệp của người làm ác. Nếu người khi gần chết khởi tâm ác liền chuyển cả sự tu hành hay công đức trước của mình, liền sanh vào chỗ không tốt. Trong Kinh có kể:

- Một người tu ngoại đạo đạt đến định phi phi tưởng, nếu người đó chết sẽ được sanh về cõi trời phi phi tưởng. Nhưng khi gần chết gặp chút nghịch duyên, ông nổi giận, bực tức lên rồi chết. Sau khi chết ông sanh làm con chó sói. Như vậy, từ quả vị cõi trời phi phi tưởng mà chuyển làm một con vật xấu xa, đủ cho ta thấy cận tử nghiệp nguy hiểm như thế nào. Cận tử nghiệp là nghiệp gần lúc chết. Nếu khởi niệm ác thì nó sẽ dẫn chúng ta sanh vào cõi ác, cõi dữ.

Do đó chúng ta thấy trong cõi người cũng như trong các loài thú, có những người, hoặc những con thú sanh ra một thời gian ngắn liền chết. Chúng ta không hiểu tại sao. Nếu là duyên làm người hoặc làm thú thì phải ở lâu cho mãn kiếp người, kiếp thú, tại sao chỉ một thời gian ngắn thì đi. Đó là lý do để thấy rằng những người ấy lẽ ra không phải sanh chỗ như thế, nhưng vì cận tử nghiệp ác mạnh nên phải sanh chỗ đó. Thời gian ngắn sau chết, sanh lại chỗ khác theo tích lũy nghiệp, tức là nghiệp chứa đựng lâu dài lúc trước của họ. Vì vậy, sức mạnh của cận tử nghiệp đưa đẩy người ta sanh vào chỗ không đúng sở nguyện của mình, chỉ vì cơn nóng giận hoặc khởi những niệm ác lúc sắp lâm chung mà ra như vậy. Đó là tôi nói trường hợp cận tử nghiệp ác.

Kế đến là cận tử nghiệp thiện, tức người gần chết khởi niệm lành. Lúc sắp lâm chung khởi niệm lành liền sanh về cõi lành, dù cho tích lũy nghiệp của họ ác, nhưng nhờ khi sắp chết khởi niệm thiện nên chuyển sang sanh cõi lành. Do sức mạnh của cận tử nghiệp làm cho tích lũy nghiệp mờ đi, nhưng không phải mất. Nghĩa là người ấy phải theo cận tử nghiệp một thời gian, khi nào cận tử nghiệp hết thì họ mới trở lại tích lũy nghiệp.

Nên nhớ nghiệp tích lũy là nghiệp quan trọng mà chúng ta chứa từ thuở nhỏ cho đến lớn trong đời sống. Giả sử chúng ta chứa điều lành, điều tốt đầy đủ, nhưng giờ chót bị cận tử nghiệp ác lôi đi thì phải trả hết nghiệp cận tử đó rồi mới trở lại với nghiệp tích lũy lành, được quả lành, chứ không phải mất hẳn. Nên lúc sắp lâm chung chúng ta phải dè dặt tối đa, không nên khởi những tâm niệm ác.

Trong Kinh nói người phạm hai tội trong năm tội ngũ nghịch là ông Đề Bà Đạt Đa, Đức Phật thọ ký khi chết ông phải đọa địa ngục. Do đó lúc sắp lâm chung ông hối hận hướng về Phật chắp tay xin sám hối. Sau này Đức Phật kể lại cho ngài A Nan nghe rằng ông Đề Bà Đạt Đa tuy bị đọa địa ngục vì tội ngũ nghịch, nhưng vì sắp chết ông biết hối hận sám hối với Phật, nên sau khi hết đọa địa ngục ông được trở lại làm người gặp Phật pháp tu hành, cuối cùng cũng chứng quả thành Phật.

Chúng ta thấy rằng cả đời Đề Bà Đạt Đa đã tạo những nghiệp ác nhưng khi sắp lâm chung ông đã có tâm thức tỉnh, hối cải. Vì vậy, sau này khi nghiệp ác hết, ông sanh về cõi lành và được tu hành chớ không mất luôn chủng duyên lành. Nên biết cận tử nghiệp lành có thể giúp người bị khổ lâu dài chuyển thành khổ ngắn, không còn lâu dài nữa.

Thêm một chuyện nữa. Có một vị tiên ở cõi trời ba mươi ba. Ông biết mình hết phước sắp chết. Do có thiên nhãn, ông biết mình sẽ sanh làm con của một trưởng giả ở nhân gian và sau kiếp làm con ông trưởng giả, ông sẽ đọa địa ngục. Hoảng sợ quá, ông khóc rống lên, kêu la cầu cứu. Khi đó Trời Đế Thích đến hỏi:

- Vì sao ông khóc kêu cứu như vậy ? Ông trình bày chỗ thấy của mình - Trời Đế Thích liền khuyên ông nếu muốn được cứu phải quy y Tam Bảo.

Ông hỏi:

- Quy y Tam Bảo là sao ?

Trời Đế Thích nói:

- Quy y Tam Bảo là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Ông hỏi:

- Bây giờ Phật ở đâu ?

- Hiện giờ Phật đang thuyết pháp ở Vườn Trúc tại xứ Nalanda.

Ông than:

- Bây giờ tôi sắp chết làm sao đến đó để quy y được.

Trời Đế Thích bảo:

- Không sao, chỉ cần ông chắp tay hướng về chỗ Phật đang thuyết pháp nói to lên thế này: “con tên …… xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin Phật cứu con, xin Phật độ con”, như vậy ba lần.

Nghe vậy ông liền quỳ gối chắp tay hướng về Vườn Trúc Nalanda, nói ba lần: “con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, xin Phật độ con”. Sau khi nói ba lần như vậy rồi, ông liền chết. Quả thực sanh xuống trần gian ông làm con trưởng giả. Khi con ông trưởng giả lớn lên, một hôm gặp Đức Phật khất thực ngang qua nhà. Thấy Phật, ông liền phát tâm muốn đi tu. Sau đó ông được Phật độ tu hành chứng quả A La Hán.

Qua đó, chúng ta thấy chỉ cần cận tử nghiệp hướng về Tam Bảo mà sau này khỏi đọa địa ngục, còn được xuất gia và tu hành giải thoát. Như vậy cận tử nghiệp rất là quan trọng. Nếu chúng ta không biết, để cận tử nghiệp chuyển thành ác sẽ đưa tới cõi ác. Nếu chúng ta biết, dù trước kia có làm ác, nhưng nhờ cận tử nghiệp thiện thì sẽ đưa tới cõi lành. Do đó người Phật tử chân chính phải nhớ, phải biết rõ tầm quan trọng của cận tử nghiệp.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa phủ nhận tích lũy nghiệp, là nghiệp do chúng ta chứa chấp từ khi mới sanh ra cho tới già. Nếu chúng ta làm điều lành nhiều thì gọi đó là tích lũy nghiệp thiện, làm điều ác nhiều thì gọi là tích lũy nghiệp ác. Nếu tích lũy nghiệp thiện, và lúc sắp lâm chung không khởi niệm ác, thì con đường thiện nhất định sẽ đến với chúng ta. Còn nếu tích lũy nghiệp thiện nhưng khi sắp lâm chung khởi niệm ác thì con đường thiện của chúng ta phải bị quanh co, có khi nó dẫn mình tới chỗ dữ. Ngược lại, nếu tích lũy nghiệp ác nhưng sắp lâm chung khởi niệm thiện thì con đường ác đáng lý chúng ta phải chịu nhưng giờ đây chuyển sang con đường lành. Nên biết cận tử nghiệp rất mạnh, rất đáng sợ. Quý vị nào tuổi đã lớn, hoặc hay bệnh hoạn nên dè dặt tối đa, không nên tạo ảnh hưởng lớn gây cho chúng ta những đau khổ sau này. Đó là tôi nói về sức mạnh của cận tử nghiệp.

Tiếp theo, tôi sẽ nói những điều cấm kỵ của người khi sắp lâm chung. Những điều cấm kỵ là những điều không nên làm khi chúng ta biết đạo lý.

- Một là lúc sắp lâm chung cấm kỵ không nên sân giận. Dù cho có điều gì trái ý cũng phải bỏ qua để lo cho cái chết của mình, không nên sân giận làm gì. Nếu sân giận thì chúng ta sẽ đọa vào cõi dữ làm những con vật hung dữ khó thể tránh khỏi. Đó là điều thứ nhất.

- Thứ hai là phải dứt tâm oán thù. Nếu ôm tâm oán thù thì khi nhắm mắt chúng ta sẽ theo nghiệp oán thù, đền đền trả trả không có ngày cùng. Nghĩa là mình thù người, sanh ra gặp lại nhau rồi hại nhau, đau khổ chồng chất không biết đến đâu cho hết. Vì vậy chúng ta phải dứt tâm oán thù.

- Thứ ba là tâm yêu mến con cháu, tiếc của cải, .v.v.v… đó là mối hiểm họa, nghĩa là vì yêu tiếc mà đôi khi bị trầm luân hay là trở lại làm những con vật không tốt.

Trong sử ba mươi ba vị Tổ có kể về một vị tăng Ấn Độ tôi không nhớ rõ tên. Một hôm Ngài đi khất thực ngang qua nhà ông trưởng giả, nhưng ông Trưởng giả đi khỏi, trong nhà có con chó chạy ra sủa rất to, Ngài nhìn nó và quở: “ngươi vì bệnh tiếc của mà trở lại làm chó, đã không biết còn sủa om sòm”. Nghe nói như vậy con chó buồn bỏ ăn. Ông trưởng giả về, thấy con chó cưng của mình bỏ ăn, ông liền hỏi lý do và được người nhà kể lại rằng hồi sớm mai có một vị sa môn đi ngang, nó thấy liền sủa, rồi không biết ông ấy nói gì với nó, từ đó nó buồn, bỏ ăn. Ông hỏi vị sa môn ấy ở đâu và tìm gặp được Ngài. Với tâm rất sân hận, ông hỏi:

- Hồi sáng ông nói gì mà con chó của tôi nó buồn đến bỏ ăn ?

Ngài bảo:

- Ông đừng nóng, để tôi nói cho ông nghe. Con chó đó là cha của ông.

Ông càng tức hơn, hỏi:

- Tại sao con chó đó lại là cha tôi ?

Ngài nói:

- Nếu ông không tin ta, ông hãy về tìm ngay giữa giường nơi cha ông khi xưa ngủ mà bây giờ là chỗ con chó hay nằm đó, ông đào xuống sẽ thấy một ché vàng. Vì khi cha ông chết không kịp trối trăn lại với ông, nên bây giờ tiếc của mới sanh trở lại làm chó để giữ của. Nếu không tin ta, ông hãy về đào lên sẽ thấy.

Khi ấy vị trưởng giả không còn lớn tiếng với Tổ nữa, mà trở về đào chỗ Tổ chỉ. Quả nhiên ông thấy có một ché vàng. Ông liền chạy tới xin Tổ cứu cha ông. Tổ khuyên trưởng giả nên đem của đó bố thí để cha ông hết nghiệp. Trưởng giả nghe lời Tổ dạy liền đem ché vàng bố thí. Sau đó con chó chết.

Như vậy, vì yêu tiếc của nên trở lại làm chó để giữ của. Đó là điều đáng sợ. Nên ở đây tôi nhắc ba điều cấm kỵ trước khi lâm chung, Phật tử phải nhớ đừng bao giờ để xảy ra. Tôi lặp lại, điều thứ nhất là tâm sân giận; điều thứ hai là tâm oán thù; và điều thứ ba là tâm yêu tiếc, tức yêu con tiếc của. Nhớ, đừng có ba tâm đó mới khỏi đọa vào con đường khổ. Có ba tâm đó là nguy hiểm.

Nếu khi sắp lâm chung mà khởi tâm thiện thì sẽ được điều lành, điều tốt. Tâm thiện là tâm gì ?

- Điều thứ nhất, khi sắp lâm chung phát tâm bố thí, giúp đỡ người nghèo kẻ bệnh. Mình có phương tiện tới đâu phát tâm tới đó.

- Điều thứ hai đối với người quy y rồi thì phát tâm cúng dường Tam Bảo, còn chưa quy y thì phát tâm quy y Tam Bảo để tâm thiện tăng trưởng. Làm như vậy là đã hướng về điều thiện và sẽ đi theo con đường thiện.

- Ba là phát tâm phóng sanh, nghĩa là cứu những con vật bị người ta bắt và sẽ bị giết. Mình cứu nó bằng cách mua lại đem thả, hoặc tìm cách nào cứu cho con vật không bị chết. Đó là phát tâm phóng sanh.

Bố thí, cúng dường, phát tâm phóng sanh là tâm lành. Nhờ phát tâm lành, tự nhiên lần lần chúng ta sẽ đi theo con đường lành. Đó là những điều tâm nên khởi khi sắp lâm chung. Người Phật tử biết tu, khi sắp lâm chung, cần biết ứng dụng pháp Phật dạy, gìn giữ tâm mình luôn luôn đi đúng đường, không bị lệch lạc. Đối với người tu tịnh độ, lâu nay chuyên niệm Phật, khi bệnh nhiều phải ráng nhớ niệm Phật, không quên. Lúc nào tâm mình cũng hướng về Phật không lơi lỏng, không nghĩ tới con, không nghĩ tới cháu, cũng không nghĩ tới tài sản gì hết. Được như vậy thì nhất định sẽ đi theo Phật không nghi ngờ. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai, đối với người không chuyên niệm Phật mà thường hay xem kinh sách thì phải nhớ một bài kệ. Chẳng hạn, nếu quý vị thường tụng kinh Kim Cang, thì phải nhớ một bài kệ, tức là nhớ tới Pháp giống như nhớ tới Phật, niệm Phật vậy. Chúng ta nghiên cứu kinh điển, học pháp của Phật thì phải nhớ pháp, như tụng bài kệ sau đây trong kinh Kim Cang:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán

Nghĩa là tất cả pháp hữu vi như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng, như sương mai, như điện chớp, phải luôn quán như thế. Chúng ta tụng mãi bài kệ này thì tâm chúng ta được trong sáng, không kinh hoàng khi sắp lâm chung. Đó là trường hợp thứ hai.

Trường hợp thứ ba, nếu người biết tu thiền, tâm được yên tĩnh phần nào thì nhớ lúc sắp lâm chung, mình hằng sống với tâm thanh tịnh, đừng chạy theo tâm vọng tưởng điên đảo, nghĩa là nhớ ngay trong thân người bại hoại này có cái không bại hoại, nhờ vậy chúng ta không kinh hoàng, không sợ sệt mà hằng sống với tâm bất sinh bất diệt của mình. Thân này chẳng qua là tướng hư ảo, có đó rồi mất đó, chớ không bền. Chỉ cái thể chân thật của mình là thanh tịnh, không sanh, không diệt muôn đời. Đó là chúng ta biết tu.

Trong ba trường hợp tôi kể ở trên, người tu niệm Phật thì chuyên niệm Phật, không nhớ chuyện đời. Người chuyên nghiên cứu Pháp thì nhớ một bài kệ. Người tu Thiền thì nhớ ngay nơi mình có cái chẳng sanh diệt, hằng thanh tịnh, không có gì đáng sợ, không có gì đáng lo. Người biết tu nhớ được những điều này thì không bị mê muội, không có gì sợ hãi, ra đi êm ái nhẹ nhàng. Đó là những điều tôi nhắc cho quý vị khi sắp lâm chung.

Bây giờ tôi nói tới hậu sự, tức là việc sau khi mình chết. Nhiều vị nghĩ rằng khi mình chết phải trối trăn lại với con cháu làm thế này, làm thế kia cho mình. Điều đó dư. Tại sao ? Bởi vì thân này do tứ đại hòa hợp mà thành, chúng ta sống cũng mượn tứ đại mà sống: uống nước giúp cho thủy đại, ăn giúp cho địa đại, thở giúp cho phong đại .v.v.v… như vậy bốn đại đó nhờ vay mượn bên ngoài mới tồn tại.

Đến khi chết là không vay mượn nữa thì trả về cho tứ đại. Tứ đại trả về tứ đại thì chỗ nào cũng là tứ đại hết. Tại xứ người, tứ đại cũng là tứ đại; ở quê hương mình thì tứ đại cũng là tứ đại. Đừng nghĩ bỏ thân ở xứ người là thiệt thòi. Thiệt thòi nhất là cái tâm, tinh thần của mình ra đi mà không sáng suốt, đó mới thật thiệt thòi. Còn thân tứ đại này bỏ ở đâu cũng được hết. Người ta hay nói thân này là thân cát bụi cho nên khi chết trả về cho cát bụi, chứ không phải trả về xứ mình hay thành vàng thành ngọc gì, cho nên đừng quan trọng nó.

Thân này để cho con cháu giải quyết bằng cách nào thuận lợi nhất thì tốt, mình khỏi cần dặn dò gì hết, khỏi cần bắt buộc gì hết. Dặn dò bắt buộc nhiều khi làm cho con cháu càng thêm lúng túng. Thí dụ nơi đó không có lò thiêu mà bảo phải thiêu, trong khi có đất chôn mà không chịu chôn. Hay ngược lại, chỗ đó không có đất chôn mà có lò thiêu, mình lại không chịu, nói thiêu nóng lắm, phải tìm đất chôn. Như vậy con cháu lo sợ không biết tìm đất đâu mà chôn, càng làm cực khổ cho người sống chớ không có ích lợi gì. Đã là thân tứ đại hoại rồi thì còn biết gì nữa mà sợ nóng, còn biết gì nữa mà đòi đem về quê hương. Biết chăng là cái tinh thần, cái tâm của mình. Do đó quý vị đừng có lầm lẫn thân này phải trở về quê mình mới tốt. Nghĩ như vậy là sai lầm. Chính cái tâm của chúng ta, tâm sáng thì đi tới chỗ tốt, điều đó mới quan trọng.

Đó là những lời nhắc nhở để quý vị biết sau khi chúng ta có trăm tuổi, không làm phiền hà cho con cháu. Tôi chỉ nói một phần ngắn cho quý vị biết khi đau, bệnh và già sắp lâm chung. Theo đó, quý vị có hướng chọn lựa, đừng bị tâm phàm tục làm cho mình đau khổ ngay hiện tại và kéo dài sau khi lâm chung. Đó là những điều thiết yếu.

Mong rằng tất cả quí Phật tử nghe rồi, khéo ứng dụng để tự cứu mình, đó cũng là lời Phật dạy cho chúng ta thoát khổ.

【http://thuongchieu.net/index.php/phapthoai/suong/65-cho-ngi-gia-bnh】