V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Những vắt cơm giấu trong mái tóc

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương LXXIII, Thích Nhất Hạnh



Một đêm nọ trong khi đang tọa thiền ngoài sân tịnh thất trên núi Linh Thứu, Bụt mở mắt và thấy có người đứng lấp ló sau cây đại thọ, Bụt lên tiếng mời người ấy đến. Dưới ánh trăng vằng vặc, người ấy đặt gươm xuống sân đất và quỳ xuống lạy Bụt như tế sao. Bụt hỏi:

- Ông là ai, đến đây để làm gì ?

- Con xin lạy sa môn Gotama ! Con xin lạy sa môn Gotama ! Con vâng lệnh tới đây giết Ngài nhưng thấy Ngài, con không dám. Con đã cầm gươm định bước tới có hơn mười lần rồi mà không lần nào con dám bước tới. Con quyết định thôi không giết Ngài nữa, nhưng con lại sợ nếu con không giết Ngài thì khi về, con cũng bị chủ tướng con giết chết. Con chưa biết phải làm sao thì sa môn gọi con. Con xin lạy sa môn Gotama ! Con xin lạy sa môn Gotama !

Bụt hỏi:

- Ai đã sai anh đến giết Như Lai ?

- Chủ tướng của con, nhưng con không dám nói tên chủ tướng của con đâu.

- Anh không nói cũng được, nhưng chủ tướng của anh nói với anh như thế nào ?

- Bạch sa môn, chủ tướng của con chỉ cho con con đường phải đi để lên núi và chỉ cho con một con đường khác để trở về sau khi làm xong nhiệm vụ.

- Anh có vợ con gì không ?

- Bạch sa môn, con chưa có vợ con gì cả. Con chỉ có một bà mẹ già.

- Anh nghe đây. Nghe cho thật kỹ và làm theo cho thật đúng. Anh hãy về nhà ngay đi, và đem mẹ anh vượt biên giới trốn sang nước Kosala ngay lập tức. Anh đưa mẹ sang bên ấy tị nạn và sinh sống, nhưng anh đừng xuống núi bằng con đường mà chủ tướng anh đã chỉ bày. Nếu xuống núi bằng đường ấy, anh sẽ bị mai phục giết chết giữa đường. Anh xuống núi bằng một con đường khác. Anh đi ngay đi.

Người lạ mặt lạy xuống một lạy nữa rồi đi mất, để lại thanh gươm trên nền đất. Sáng hôm sau, hai đại đức Sariputta và Moggallana tìm tới viếng Bụt. Hai vị bạch:

- Chúng con nghĩ là đã đến lúc chúng con phải đi qua bên ấy để giúp các anh em khất sĩ đã vì dại dột mà đi lầm đường lạc lối. Chúng con xin phép Bụt cho chúng con vắng mặt một thời gian.

Bụt nhìn hai vị đại đệ tử:

- Các thầy đi thì đi, nhưng các thầy hãy giữ gìn cẩn thận và làm mọi cách để bảo toàn thân mạng.

Vừa lúc ấy đại đức Sariputta trông thấy thanh gươm trên nền đất. Đại đức đưa mắt nhìn Bụt, không nói. Bụt gật đầu:

- Đúng như thế. Hồi hôm có anh lính được lệnh lên ám sát Như Lai, nhưng đã được Như Lai độ cho rồi. Thanh gươm ấy cứ để đó, chừng nào cư sĩ Jivaka lên núi, Như Lai sẽ nhờ cư sĩ đem xuống núi.

Đại đức Moggallana nhìn bạn:

- Bỏ Bụt mà đi lúc này, đệ không được an tâm lắm. Sư huynh nghĩ sao ?

Sariputta chưa trả lời thì Bụt nói:

- Các thầy cứ an tâm mà đi, Như Lai có đủ tỉnh thức để tránh được những tai họa có thể xảy tới.

Hai vị đại đệ tử sụp lạy thầy trước khi xuống núi. Chiều hôm ấy có mấy vị khất sĩ từ tu viện Trúc Lâm lên thăm Bụt. Thấy Bụt, họ không nói năng gì cả. Họ chỉ đứng ôm mặt khóc.

Bụt hỏi:

- Này các vị khất sĩ, tại sao các vị khóc ?

Một vị khất sĩ lau nước mắt và trả lời Bụt:

- Thế Tôn, chúng con từ Trúc Lâm về, giữa đường chúng con gặp sư huynh Sariputta và Moggallana. Chúng con hỏi hai sư huynh đi đâu. Hai sư huynh nói là đi qua Gayasisa. Chúng con buồn quá nên chúng con khóc. Hơn năm trăm vị khất sĩ đã bỏ Bụt mà đi rồi, bây giờ hai vị đệ tử lớn nhất của Bụt mà cũng bỏ Bụt đi nữa thì chúng con không buồn sao được ?

Bụt bật cười. Người an ủi các thầy khất sĩ:

- Này các vị, các vị đừng buồn nữa. Như Lai biết là ở đâu, lúc nào, Sariputta và Moggallana cũng không phản bội Như Lai đâu.

Nghe Bụt nói, các vị khất sĩ cảm thấy yên dạ hơn. Họ xin phép được ngồi im lặng một lát dưới chân Bụt. Ngày hôm sau, Bụt được y sĩ Jivaka mời về tịnh xá riêng của ông trong vườn xoài để thọ trai. Đại đức Ananda cùng đi với Người. Bụt và đại đức Ananda vừa thọ trai xong thì Jivaka thông báo có hoàng thái hậu Videhi đến thăm ông và vì nghe nói có Bụt ở đây nên thái hậu xin vào viếng Người. Bụt biết cuộc viếng thăm này đã được y sĩ sắp đặt trước. Người cho mời thái hậu vào.

Lạy Bụt xong, thái hậu khóc nức nở. Bụt để yên cho thái hậu khóc. Một hồi sau, Người nói:

- Có chuyện gì xin thái hậu cho Như Lai biết.

Thái hậu nói:

- Bạch Thế Tôn, tình trạng thượng hoàng rất nguy ngập. Ajatasattu quyết định bỏ đói thượng hoàng cho đến chết. Nó không cho con đem thức ăn vào cho thượng hoàng nữa.

Rồi bà kể cho Bụt nghe rằng mới hôm đầu tháng, bà còn được phép mang cơm vào cho thượng hoàng Bimbisara, nhưng sau đó mấy hôm, khi bà vào thăm thượng hoàng, quân lính chặn lại và lấy mất thức ăn. Bà vào thăm thượng hoàng mà chỉ biết ngồi khóc. Thượng hoàng an ủi bà, nói rằng người không oán giận Ajatasattu. Ngài nói Ngài nhịn đói mà băng cũng được, miễn là nước nhà không bị nội chiến tàn phá. Sáng ngày hôm sau, bà giấu mấy vắt cơm nhỏ trong tóc của bà, và bà cũng mang trên tay ít thực phẩm để vào thăm thượng hoàng. Bọn lính canh chặn bà lại, lấy mất thức ăn trên tay bà nhưng không biết bà có giấu cơm trong mái tóc. Thượng hoàng đã ăn cơm ấy. Bà đã làm như thế được tám hôm. Thấy thượng hoàng không chết, Ajatasattu bắt quân lính khám xét bà rất kỹ. Chúng tìm thấy cơm trong tóc bà. Vậy là bà không thể đem cơm vào cho thượng hoàng được nữa. Ba hôm sau bà nghĩ ra được một cách mới. Bà nấu một loại đề hồ gồm có sữa, mật ong và bột. Bà tắm gội sạch sẽ, lau mình thật khô rồi trát một lớp đề hồ lên thân thể, đợi cho ráo rồi mới mặc xiêm y. Quân lính canh không thấy có thức ăn và cơm giấu trong tóc, liền để cho bà vào. Vào tới nơi, bà cởi áo và bóc lớp đề hồ ra để thượng hoàng ăn tạm. Bà đã làm được hai lần như thế, nhưng bà rất sợ là trong một vài tuần, mưu của bà sẽ bị khám phá và bà sẽ không còn được phép vào thăm thượng hoàng nữa.

Kể tới đây, thái hậu lại ôm đầu khóc. Bụt lặng thinh. Một lát sau, Người hỏi về tình trạng sức khỏe của thượng hoàng, về thể chất cũng như về tinh thần. Thái hậu nói thượng hoàng đã ốm đi nhiều, nhưng vẫn còn khương kiện. Tinh thần thượng hoàng rất cao. Ngài không tỏ vẻ oán giận hay buồn rầu gì cả. Thì giờ trong tù, Ngài dùng vào việc thiền tọa và thiền hành. Có một hành lang khá dài, Ngài thường đi thiền hành dọc hành lang đó. Phòng giam Ngài có một cánh cửa có chấn song. Từ khung cửa ấy Ngài có thể nhìn thấy núi Linh Thứu. Ngài ngồi trước cửa ấy để nhìn về núi Linh Thứu mỗi ngày, ngồi rất lâu. Ngồi thiền, thượng hoàng cũng ngồi ở đấy, mặt xoay về núi Linh Thứu.

Bụt hỏi thái hậu xem bà đã đưa tin về vua Pasenadi chưa. Bà nói là bà chưa có phương tiện, Bụt nói Người sẽ nhờ một vị khất sĩ đưa tin về Savatthi giúp bà. Thái hậu tạ ơn Bụt. Bà kể cho Bụt nghe là hồi Ajatasattu chưa sinh, các chiêm tinh gia đã đoán rằng Ajatasattu là người sẽ phản lại vua cha. Bà nói hồi bà có mang thái tử, một hôm không biết vì cớ gì mà bà rất thèm cắn vào bàn tay vua Bimbisara mà hút máu. Bà hoảng kinh, không ngờ rằng chính bà mà lại có được cái ý tưởng và cái thèm khát ghê tởm đó. Từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ bà dám nhìn người ta giết một con gà hay một con cá, bà rất sợ khi thấy máu chảy, nhưng hôm ấy thật sự là bà muốn cắn tay vua để hút máu trong tay Ngài. Bà chống trả lại sự thèm khát đó một cách tuyệt vọng. Cuối cùng bà ôm mặt khóc nức nở, và cảm thấy tủi hổ vô cùng.

Một hôm khác trong bữa ăn, vua Bimbisara cầm dao gọt trái cây làm sao đó mà bị đứt tay, mấy giọt máu chảy ra, lập tức bà ôm lấy tay vua đưa miệng mút máu chỗ bị thương. Vua rất lấy làm lạ, nhưng vẫn để cho bà hút. Hút xong mấy giọt máu, bà nằm lăn khóc nức nở. Hoảng kinh, vua tới nâng bà dậy hỏi han. Bà phải nói cho vua nghe cái thèm muốn ghê gớm đó của bà. Bà đã chống trả một cách kịch liệt nhưng cuối cùng đã bị thua. Bà biết cái thai trong bụng bà đã là nguyên nhân đưa đến cái thèm khát kỳ dị đó. Các chiêm tinh gia được vua mời tới đều nói rằng đứa con trong bụng sau này sẽ làm hại vua và đề nghị nên tiêu diệt nó. Vua Bimbisara không chịu, bà cũng không chịu. Tuy nhiên khi sinh, thái tử đã được đặt tên là Ajatasattu. Tên này nghĩa là “kẻ thù không sinh ra”.

Bụt khuyên bà đừng nên vào thăm thượng hoàng mỗi ngày. Cứ hai hoặc ba ngày thì mới nên vào một lần để vua Ajatasattu khỏi nghi. Mỗi lần vào thăm như thế, bà có thể ở lại … với vua thật lâu. Đề hồ bóc ra, nên để dành và ăn mỗi ngày ít thôi, đề phòng trường hợp thái hậu bị cấm vào thăm viếng.

Dặn dò thái hậu xong, Bụt giã từ Jivaka và trở về Linh Thứu.

Hãy cứ

(Thơ HNLC)

Hãy cứ sống bằng lời yêu chân thật
Dù cuộc đời không là những giấc mơ
Có đôi khi đời tàn nhẫn vô bờ
Vẫn phải sống để tập lòng kiên nhẫn

Hãy cứ yêu bằng trái tim thành khẩn
Dù tình người chỉ quanh quẩn lợi danh
Và con tim nhiều khi phải tranh giành
Khi thất bại, hãy yêu thêm lần nữa

Hãy cứ vui bằng cõi lòng chan chứa
Dù chuyện buồn đang xảy đến quanh ta
Niềm vui kia chớ nên để nhạt nhòa
Nó sẽ giúp ta thêm lòng dũng cảm

Hãy cứ tin đời không là sầu thảm
Lấy sức mình xây dựng một niềm tin
Dù người đời cười chê cứ làm thinh
Niềm tin sẽ giúp ta tròn mơ ước

Hãy thứ tha những gì tha thứ được
Bởi trong lòng đã mở cửa từ bi
Để trong ta còn chỗ trống khắc ghi
Những tốt đẹp đời thường luôn sẵn có

Hãy cứ nhìn những cuộc đời gian khó
Để nhủ rằng ta còn có điều may
Và quanh ta vạn vật sẽ đổi thay
Ta hạnh phúc vì vận đời đưa đẩy



D.P.A (55)

• • •

Lấy tĩnh lặng làm bạn
đâu sợ gì cô đơn

Lấy chánh nhân làm bạn
đâu sự nghiệp nào hơn



Phúc - Họa

(Sưu tầm)

Tích đức - mặc dù không có người nhìn, nhưng trời biết đất biết. Người làm việc thiện, phúc dù chưa đến, họa đã rời xa. Người làm việc ác, họa dù chưa đến, phúc đã rời bỏ.

Người làm việc thiện như cỏ trong vườn xuân, không thấy mọc bao nhiêu, nhưng mỗi ngày một tăng. Người làm việc ác, như đá mài dao kéo, không thấy hao mòn gì, nhưng ngày một suy giảm.

Phúc - Họa không ngẫu nhiên, tất cả đều tại tâm. Cái đáng sợ của làm việc ác, không phải là do bị người phát hiện, mà là ở tự mình biết. Cái đáng khen của làm việc thiện, không ở lời tán dương của người khác, mà ở sự bình thản của chính mình.



Two primary choices

- Denis Waitley

There are two primary choices in life, to accept conditions as they exist, or accept the responsibility for changing them.

╰▶Có hai lựa chọn chính trong cuộc sống, để chấp nhận các điều kiện như chúng đã tồn tại, hoặc chấp nhận trách nhiệm thay đổi chúng.



Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|37|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

Ta không trở lại, nhưng vẫn biết, chỉ sáng mai thôi, nơi đó sẽ nở những đóa Dã Quỳ đầu mùa. Đã cuối tháng Mười, nơi đó đã có những buổi sớm mai cuối thu bất chợt se lạnh. Mùa đông đã về đến bên kia núi.

Đã nghe hơi thở của mùa đông. Hoa Dã Quỳ còn gọi là Hoa Báo Đông, loài hoa chạy khắp cao nguyên báo tin mùa đông đã về rất gần.

Ta thương loài hoa dại ấy vì không sợ cảnh thu tàn, không ngại mùa đông lạnh. Bao năm rồi vẫn vậy, loài hoa đó luôn đủ mạnh mẽ để chọn cho mình những ngày cuối thu héo hắt để trở về, gom góp hết chân thành trong lòng mình, đốt lên, bình thản xóa đi những tàn phai cuối thu.

Bình thản an nhiên mỉm cười dù biết phía trước sẽ là những ngày đông lạnh.

Ta không trở lại, nhưng biết sáng mai, nơi đó sẽ nở những đóa Dã Quỳ đầu tiên.

Người ngày mới an.

Quán tha thứ

(Thích Trí Siêu)



Người tu cần phải diệt trừ lòng sân hận, giận hờn, thù ghét, căm tức. Vì lòng sân có sức tác hại như lửa, nó thiêu đốt chủ nhân. Chúng ta hay nổi sân vì bị trái ý, bị người khác làm tổn thương, rồi từ đó ta ghim trong lòng. Cho nên mỗi lần gặp lại hay nghĩ đến người đó thì ta rất khó chịu, bực bội, và rất dễ nổi sân. Người khổ sở nhất là ta chứ không phải người kia. Muốn diệt trừ lòng sân, ngoài việc quán tâm từ, chúng ta cần thực tập thêm phép Quán Tha Thứ như sau:

➊ Nếu tôi đã từng làm ai đau khổ và tổn thương bằng tư tưởng, lời nói hay hành động thì tôi xin tất cả hãy từ bi tha thứ cho sự si mê lầm lạc của tôi.

➋ Tôi xin mở lòng từ bi tha thứ cho những người, vì si mê lầm lạc, đã từng làm tôi đau khổ và tổn thương.

➌ Tôi xin tha thứ cho những điều lầm lẫn vụng dại của tôi và nguyện cố gắng sửa đổi.

➍ Cầu xin cho tất cả mọi người biết tha thứ cho nhau và không ôm ấp hận thù.

Câu thứ nhất xin người tha thứ cho ta, câu thứ hai ta tha thứ cho người, câu thứ ba ta tha thứ cho chính mình, và câu thứ tư ta cầu mong cho mọi người biết tha thứ lẫn nhau. Ban đầu bạn học thuộc lòng bài thiền quán này và tập nhớ lại một cách tổng quát trong lúc ngồi thiền, sau đó bạn đi xa hơn vào chi tiết, nghĩa là xét lại mình đã làm người nào đau khổ, người đó là ai, bạn đã làm tổn thương họ ra sao, bằng lời nói hay hành động … Và sau cùng bạn thầm xin người đó tha thứ cho bạn.

Có người rất kiêu căng, ngạo mạn, nhiều khi biết mình có lỗi nhưng không chịu nhận lỗi và xin lỗi. Thực tập câu thứ nhất sẽ giúp cho họ bớt kiêu căng và thông cảm niềm đau của kẻ khác.

Có người biết nhận lỗi và xin lỗi nhưng trái lại hay ghim trong lòng những niềm đau nên khó bỏ qua hoặc tha thứ cho kẻ đã làm mình tổn thương. Thực tập câu thứ hai sẽ giúp cho họ mở tâm độ lượng bao dung.

Có người biết tha thứ cho kẻ khác một cách dễ dàng nhưng lại không tha thứ được cho mình mỗi khi lầm lỗi. Họ mang mặc cảm tội lỗi và tự trách móc mình như: tại sao tôi dở quá, tại sao tôi có thể làm những chuyện ngu si tồi bại như vậy, .v.v.v... Thực tập câu thứ ba sẽ giúp cho họ biết thương yêu và tha thứ cho chính mình.

Câu thứ tư tập cho tâm mở rộng hướng đến tất cả chúng sinh.

Thực tập Quán Tha Thứ thì tâm ta trở nên nhẹ nhõm, phiền não, bực tức tự động rơi rớt, và lòng thương sẽ mở rộng.

Thắp nến hoàng hôn

(Thích Tánh Tuệ)

Đời sắp cuối, sao muộn phiền chưa hết
Bao lo toan ... chẳng một chuyện ra hồn
Ngước mắt nhìn chiều tím nhuộm hoàng hôn
Nghe trời đất chứa lẽ gì sâu thẳm …

Chiều qua phố, lặng người khua bước chậm
Ta về đâu, đời dạt cuối chân trời
Loay hoay cùng nhịp trái đất ... mù khơi
Dường hoang phí đời ta trong mờ mịt

Ngày tắt nắng nhịp bàn chân chưa biết
Nẻo về sau rạng rỡ ánh mai hồng
Ôi, dã tràng một kiếp đã hoài công
Ta cô phụ chính mình bao kiếp nữa

Đời mộng mị sao lòng hoài chan chứa
Biển mặn đày cơn khát chẳng hề nguôi
Ta là ai mà đắm đuối cuộc đời
Mà đánh đổi nụ cười qua nước mắt

Một ngọn nến ngời khi tà dương sắp tắt
Còn chút này ... sực tỉnh thắp bình minh
Xoay mặt vào trong, thôi “bắt bóng đuổi hình”
Cho vạn kiếp lênh đênh chừ khép lại

Đôi mắt nhắm, thương chuỗi ngày ngây dại
Nhân gian ơi ... cõi mộng biết chăng là



Lời cầu nguyện sám pháp

• • •



「Nếu như tôi đã từng làm cho ai đau khổ, hoặc tổn thương bằng lời nói hay hành động, tôi xin thành tâm sám hối, nguyện cho oan trái giữa tôi và họ đều được hóa giải hết. Và tôi cũng hoàn toàn tha thứ cho những ai đã từng làm cho tôi đau khổ, tổn thương, bằng lời nói hay hành động. Cầu mong cho thân tôi không sát sanh, không đạo tặc, không tà dâm, khẩu không nói dối, khoe khoang, đâm thọc, chửi rủa, ý không tham lam, sân hận, tà kiến, không ganh ghét đố kỵ, ích kỷ, kiêu mạn, biết khiêm hạ, tôn kính mọi người, thường thấy lỗi mình, không thấy lỗi người, và luôn luôn giữ vững tâm được bình thản trước nghịch cảnh của cuộc đời, dù bị chửi mắng, đánh đập hay mưu hại.

Nguyện xin ơn trên Chư Phật, chư đại Bồ Tát từ bi gia trì cho chúng con từ nay cho đến ngày thành Phật, bao nhiêu tội chướng đều được tiêu trừ, tất cả lo sợ, bệnh hoạn, tai nạn, phiền não oan trái, khổ đau ... đều được giải thoát, sống đời đạo đức yên vui trong chánh pháp, xa lìa mọi ác nghiệp, tu nhiều thiện nghiệp, luôn luôn giữ vững chí nguyện tu hành, thường thân cận với Phật, được Phật thọ ý tu Bồ Tát đạo, hết thảy hạnh nguyện đều được viên mãn, trước cứu độ chúng sanh, đồng hành Phật đạo ...」

Pháp ngữ (44)

- Hòa Thượng Tuyên Hóa



Tu hành là tu cái gì ?
- Là tu cho hết vọng tưởng, hết dục vọng. Đó chính là công phu đấy.

Chống đối im lặng

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương LXXII, Thích Nhất Hạnh



Thấm thoát mà đã đến ngày Bụt nói pháp thoại tại Trúc Lâm. Kỳ nào quần chúng cũng đi thật đông, có mặt tại buổi pháp thoại cũng có quốc vương Bimbisara, và có cả hoàng thái tử Ajatasattu nữa. Đại đức Ananda để ý thì thấy các vị khất sĩ các nơi về đông lắm, đông gấp hai kỳ trước. Đại đức Devadatta cũng có mặt ở hàng đầu các vị khất sĩ. Đại đức ngồi giữa hai vị Sariputta và Mahakassapa.

Cũng như lần trước, sau khi Bụt thuyết pháp xong, đại đức Devadatta đứng dậy, tiến lên, chắp tay lễ Bụt và nói:

- Thế Tôn, Người đã dạy các vị khất sĩ nên sống theo các nguyên tắc thiểu dục và tri túc, bỏ dần các ham muốn và sống thật đơn giản với những điều kiện vật chất tối thiểu. Con xin đề nghị một quy chế năm điểm để thực hiện các nguyên tắc thiểu dục và tri túc đó:

➊ Điểm thứ nhất, các vị khất sĩ chỉ ở suốt đời trong rừng hoặc trong vườn cây mà không được về ngủ ở ngoài thành phố hay trong thôn xóm.

➋ Điểm thứ hai, các vị khất sĩ chỉ đi khất thực suốt đời mà không được đáp lời mời của giới cư sĩ tới thọ trai ở nhà họ.

➌ Điểm thứ ba, các vị khất sĩ chỉ có quyền lượm giẻ rách và những mảnh vải vụn để may lại thành y chứ không được nhận y do giới cư sĩ cúng dường.

➍ Điểm thứ tư, các vị khất sĩ chỉ được ngủ dưới gốc cây mà không được ngủ trong phòng ốc.

➎ Điểm thứ năm, các vị khất sĩ chỉ được phép ăn chay, không được động tới thịt cá.

- Thế Tôn, nếu giáo đoàn khất sĩ theo đúng năm điểm này thì chắc chắn các nguyên tắc thiểu dục và tri túc mới được thực hiện nghiêm chỉnh.

Bụt nói:

❝Devadatta, Như Lai không chấp nhận sự bắt buộc phải làm theo năm điểm ấy. Vị khất sĩ nào muốn chỉ cư trú trong chốn viên lâm thì được phép chỉ cư trú trong chốn viên lâm, nhưng những vị khác có thể ở tu viện, tịnh xá, và tạm trú tại thành phố hay thôn lạc khi cần thiết.

- Vị khất sĩ nào muốn chỉ khất thực mà không muốn đến nhà đàn việt thọ trai thì được phép chỉ đi khất thực, nhưng những vị khác có thể đáp lời mời của giới cư sĩ tới nhà thọ trai và thuyết pháp.

- Vị khất sĩ nào chỉ muốn lượm giẻ và vải vụn để may thành y thì được phép chỉ lượm giẻ và vải vụn để may thành y, nhưng những vị khác có thể thọ nhận của giới đàn việt cúng dường, với điều kiện là không có quá ba y.

- Vị khất sĩ nào chỉ muốn ngủ dưới gốc cây thì được phép chỉ ngủ dưới gốc cây, nhưng những vị khác có thể ngủ trong tăng xá, tịnh xá, và ngủ tạm tại nhà cửa ở thành phố hay thôn lạc khi cần thiết.

- Vị nào muốn chỉ ăn chay thì được phép chỉ ăn chay, nhưng những vị khác có thể tạm thọ nhận thức cúng dường mà đàn việt đã làm sẵn, trong đó có ngũ tịnh nhục, nghĩa là những vị đàn việt này đã không vì các vị khất sĩ mà sát sinh.

Devadatta, theo pháp chế hiện thời, các vị khất sĩ có đủ cơ hội để tiếp xúc và hướng dẫn người cư sĩ, nhất là những người mới có duyên tiếp xúc lần đầu với đạo giác ngộ.❞


Đại đức Devadatta thưa:

- Như vậy là Thế Tôn không chấp nhận pháp chế năm điểm.

- Không, Devadatta. Như Lai không chấp nhận pháp chế của thầy đề nghị.

Devadatta cúi chào Bụt và trở về chỗ ngồi, miệng mỉm cười, không có vẻ gì thất vọng.

Tối hôm ấy, Bụt nghỉ lại tịnh xá ở tu viện Trúc Lâm. Người nói với đại đức Ananda:

- Ananda, Như Lai biết tâm trạng của Devadatta, Như Lai nghĩ là sẽ có chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn khất sĩ.

Một hôm đi khất thực trong thành phố Rajagaha, đại đức Ananda gặp đại đức Devadatta. Hai người dừng lại bên đường để nói chuyện. Đại đức Devadatta cho đại đức Ananda biết là từ nay trở đi, đại đức sẽ tổ chức những lễ tụng giới, bố tát, tự tứ và an cư riêng trong giới các vị đệ tử và thân hữu khất sĩ của đại đức, không còn làm chung với giáo đoàn khất sĩ do Bụt lãnh đạo như trước. Buồn bã, đại đức Ananda về bạch lại với Bụt.

Lễ bố tát thường được thực hiện tại tu viện Trúc Lâm. Đại đức Ananda nhận thấy kỳ bố tát này có hàng trăm vị khất sĩ vắng mặt. Số lượng các vị này ít nhất là ba trăm. Chắc hẳn là họ đi dự lễ bố tát trên tu viện Tượng Đầu do đại đức Devadatta tổ chức.

Lễ bố tát và tụng giới cử hành xong, một số các vị khất sĩ tìm tới tịnh xá gặp Bụt. Họ nói:

- Thế Tôn, những người bên phía đại đức Devadatta đã đến với chúng con. Họ nói rằng chúng con nên theo về giáo đoàn do sư huynh Devadatta lãnh đạo, bởi vì bên ấy pháp chế nghiêm chỉnh hơn pháp chế của Thế Tôn nhiều. Họ đưa ra pháp chế năm điểm, pháp chế mà Thế Tôn không chấp nhận trong kỳ pháp thoại vừa rồi. Họ nói: “tu hành như bên Trúc Lâm thì sướng quá, có khác gì người không tu đâu, Bụt dạy pháp thiểu dục và tri túc nhưng không chấp nhận pháp chế năm điểm để thực hành cho đúng mức những phép ấy, như vậy là mâu thuẫn.” Thế Tôn, chúng con đã không nghe lời sư huynh Devadatta. Chúng có đức tin nơi Bụt, nơi trí tuệ và sự xét đoán của Người, nhưng có rất nhiều vị khất sĩ trẻ, chưa có kinh nghiệm, nhất là những vị xuất thân từ Vajji do đại đức Devadatta thế độ, những vị này thấy pháp chế năm điểm khổ hạnh rất là hấp dẫn và đã đi theo về bên ấy. Chúng con xin tin để Thế Tôn biết.

Bụt dạy:

- Xin các thầy đừng lo lắng quá về vụ này. Điều quan trọng nhất là tự mình, mình phải tu học và sống đời phạm hạnh cho xứng đáng.

Mấy hôm sau, y sĩ Jivaka lên thăm Bụt ở trên núi Linh Thứu, y sĩ cho Bụt biết là trên năm trăm vị khất sĩ đã theo về phía đại đức Devadatta. Devadatta đã đưa tất cả về trung tâm Tượng Đầu ở Gayasisa, và lập đại bản doanh của giáo đoàn độc lập ở đấy. Y sĩ cũng cho Bụt biết là một cuộc vận động khác cũng đang âm thầm diễn biến trong lãnh vực chánh trị, trong đó đại đức Devadatta có dính líu quan trọng, và ông đề nghị với Bụt nên chính thức tuyên bố khai trừ đại đức Devadatta ra khỏi giáo đoàn khất sĩ.

Tin đại đức Devadatta lập giáo đoàn riêng làm chấn động hết mọi giới. Đi đâu các vị khất sĩ cũng bị quần chúng chất vấn. Tất cả các thầy đều được đại đức Sariputta dặn là chỉ nên trả lời như sau: “những ai gây nhân xấu sẽ gặt quả xấu, chia rẽ giáo đoàn là một trọng tội đối với đạo pháp”.

Một hôm, nói chuyện với các vị khất sĩ, Bụt nhắc lại lời của y sĩ Jivaka là phải lên tiếng về vụ đại đức Devadatta, phải tuyên bố rằng mình không chịu trách nhiệm gì về hành động của Devadatta, và Devadatta không còn giữ một chức vụ gì trong giáo đoàn của Bụt. Đại đức Sariputta ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bạch với Bụt:

- Thế Tôn, ngày xưa chúng con đã từng tán thán tài đức của sư huynh Devadatta trước mặt mọi người, bây giờ nếu chính chúng con lại đi tố giác sư huynh của chúng con thì chướng lắm, ngó sao được ?

Bụt nói:

- Sariputta, ngày xưa tán thán tài đức của Devadatta trước đám đông, thầy có nói sự thật không ?

- Bạch Thế Tôn, ngày xưa tán thán tài đức của Devadatta, con đã nói sự thật.

- Vậy bây giờ nếu tố giác Devadatta thầy có nói sự thật không ?

- Bạch Thế Tôn, nếu bây giờ đi tố giác sư huynh Devadatta, con cũng sẽ nói sự thật.

Bụt dạy:

- Vậy thì có gì là chướng ngại đâu ? Vấn đề là nói ra sự thật mà thôi.

Những ngày sau đó, trong dịp tiếp xúc với quần chúng, các vị khất sĩ báo tin cho thiên hạ biết là đại đức Devadatta đã bị khai trừ ra khỏi giáo hội. Các vị khất sĩ cũng nói thêm – từ nay Bụt và giáo đoàn không còn chịu trách nhiệm gì về hành động của đại đức Devadatta nữa. Trong khi đó hai đại đức Sariputta và Moggallana vẫn luôn luôn giữ im lặng. Họ không mở miệng để nói bất cứ một lời nào, dù được quần chúng hỏi.

Thấy thái độ ấy, đại đức Ananda hỏi:

- Các sư huynh không nói gì hết, có lẽ các sư huynh đã có chủ ý ?

- Sư huynh Ananda, đúng như vậy. Chúng tôi có chủ ý, chúng tôi sẽ phụng sự Bụt và giáo đoàn bằng những phương tiện khác.

Trong giới quần chúng, có những người xì xào bàn tán cho rằng các vị khất sĩ tố cáo giáo đoàn độc lập vì thù ghét và ganh tị, nhưng cũng có những người nghĩ rằng có những lý do sâu kín bên trong mà họ chưa thấy được, những người này vẫn có đức tin vững chãi nơi Bụt và giáo đoàn.

Một buổi sáng trong lúc trời còn mưa gió nặng nề, dân chúng ở thủ đô được tin là hoàng thượng Bimbisara thoái vị và nhường ngôi cho con là hoàng thái tử Ajatasattu. Lễ đăng quang của thái tử sẽ được tổ chức trong vòng mười hôm vào ngày trăng tròn sắp tới. Tin này Bụt không được nghe trực tiếp từ quốc vương Bimbisara mà đã nghe qua các vị khất sĩ. Từ trước đến nay, chưa bao giờ vua Bimbisara ra một quyết định quan trọng như thế mà không trực tiếp báo tin cho Bụt.

Mấy hôm sau, Jivaka lên hầu Bụt, và xin phép được nói chuyện riêng với Người. Bụt mời ông đi thiền hành với Bụt trên sườn núi. Hai thầy trò im lặng đi và thở. Đến cuối thiền lộ, Bụt chỉ một phiến đá mời Jivaka ngồi, Người cũng ngồi xuống một phiến đá khác. Jivaka cho Bụt biết là hoàng thái tử Ajatasattu đã ra lệnh nhốt vua Bimbisara trong cung cấm và không cho ai ra vào thăm hỏi, trừ hoàng hậu Videhi. Hoàng thái tử cũng bắt giam hai vị đại thần thân tín nhất của vua, vì sợ những người này âm mưu cản trở việc lên ngôi của hoàng thái tử. Ban đầu thì thái tử cấm không cho hai người này vào thăm vua, nhưng sau đó vì chưa yên tâm nên thái tử bắt giữ luôn họ. Gia đình các vị này được thông báo là các vị cần lưu lại ăn ngủ trong cung để luận bàn chánh sự trong vòng bảy hôm. Sự thật thì họ đang bị nhốt trong cung cấm, mỗi người một phòng riêng.

Y sĩ Jivaka cho Bụt biết là những chuyện trên hoàn toàn được giữ bí mật. Sở dĩ ông được biết là vì ông đã có cơ hội tới chữa trị cho hoàng hậu Videhi. Hoàng hậu đã thuật hết sự thật cho ông và nhờ ông lên núi bạch với Bụt tất cả tự sự. Jivaka kể cho Bụt nghe chi tiết tất cả những gì đã xảy ra. Một hôm, cách đây gần cả tháng, ngự lâm quân thấy thái tử đột nhập vào cung vua trong đêm khuya. Thấy dáng dấp thái tử có vẻ khả nghi, ngự lâm quân đã chận thái tử lại để lục soát, và tìm thấy một thanh gươm giấu trong áo của thái tử. Họ đưa thái tử vào gặp vua, trình lên vua thanh gươm và kể lại tự sự. Vua hỏi:

- Ajatasattu, ban đêm con mang gươm vào cung để làm gì ?

- Tâu phụ vương, con muốn hành thích phụ vương.

- Tại sao con lại muốn giết ta ?

- Tâu phụ vương, con muốn làm vua.

- Làm vua thì làm vua, tại sao lại phải giết cha ? Nếu con muốn làm vua, con chỉ cần nói lên một tiếng là ta thoái vị lập tức, và con có thể làm vua ngay.

- Tâu phụ vương, con không biết như vậy. Con đã lỡ lầm, xin phụ vương tha tội cho con.

- Ai xúi giục con làm chuyện này ?

Thái tử Ajatasattu im lặng. Vua gạn hỏi một hồi thì thái tử tiết lộ là đại đức Devadatta. Vua cho gọi hai vị đại thần thân tín của vua vào cung, ngay lúc nửa đêm. Vua thuật lại cho họ nghe và hỏi ý kiến của họ. Một vị nói rằng tội ám sát vua là tội xử trảm, và đề nghị đem chém đầu các tội phạm trong đó có thái tử Ajatasattu, khất sĩ Devadatta và tất cả các vị khất sĩ liên hệ.

- Trẫm không muốn giết Ajatasattu, vì nó là con trẫm, trẫm cũng không muốn giết các vị khất sĩ, bởi vì các vị khất sĩ đã từng tuyên bố là họ không chịu trách nhiệm về hành động của Devadatta. Trẫm thấy trong vụ này Bụt là người sáng suốt nhất. Người đã tiên đoán được những gì sẽ xảy ra cho nên Người đã cho công bố không chịu trách nhiệm về Devadatta. Trẫm cũng không muốn giết Devadatta, vì dù sao Devadatta cũng là một vị khất sĩ nổi tiếng và lại là em chú bác của Bụt.

Vị đại thần thứ hai lên tiếng:

- Lòng từ bi của bệ hạ thật không có ai sánh bằng. Bệ hạ thật xứng đáng là học trò của đức Thế Tôn. Vậy bệ hạ định thu xếp như thế nào ?

Vua nói:

- Ngày mai, trẫm sẽ hạ chiếu cho bàn dân thiên hạ biết là trẫm thoái vị, và nhường ngôi cho con trẫm là Ajatasattu. Mười hôm sau, thái tử sẽ làm lễ đăng quang.

- Vậy còn tội mưu sát ?

- Trẫm tha thứ cho con trẫm và cho khất sĩ Devadatta. Mong rằng hai người thấy được tấm lòng của trẫm mà học được chút gì từ đức độ của trẫm.

Hai vị đại thần lạy xuống. Thái tử Ajatasattu cũng lạy xuống. Vua dặn các quan giữ nội vụ thật bí mật và thi hành ngay những quyết định của vua bắt đầu từ giờ phút ấy.

Ngay sau khi chiếu chỉ thoái vị của vua được ban hành, đại đức Devadatta đã về ngay kinh đô để hội kiến với thái tử. Thái tử có nói với hoàng hậu Videhi là đại đức Devadatta đã được thái tử mời về để bàn luận về lễ đăng quang của thái tử, nhưng hoàng hậu cho biết là chỉ hai hôm sau cuộc đàm luận đó, thái tử ra lệnh cô lập vua trong cung cấm và bắt giữ luôn hai vị đại thần.

Y sĩ Jivaka nói:

- Lạy Bụt, con mong là sau lễ đăng quang, Ajatasattu sẽ trả tự do cho thượng hoàng và cho hai vị đại thần bị giam giữ.

Trình xong mọi việc, Jivaka lạy Bụt và xuống núi. Ngày mai lại, Bụt tiếp sứ giả của triều đình mời Bụt và các vị khất sĩ tới dự lễ đăng quang của thái tử. Chính quân đội đi tổ chức kết nghinh môn và treo cờ đèn ở khắp nơi trong thủ đô, Bụt được cho biết là đại đức Devadatta và trên sáu trăm vị khất sĩ theo thầy đều đã có mặt tại thủ đô để tham dự lễ đăng quang này. Bụt cho gọi đại đức Sariputta, Người nói:

- Này Sariputta, Như Lai sẽ không về kinh dự lễ đăng quang và Như Lai mong rằng tất cả các vị khất sĩ của giáo đoàn cũng không nên về kinh dự lễ. Chúng ta không nên can dự vào công việc ác đức này.

Đại đức Sariputta nói:

- Lạy Bụt, con hiểu. Con sẽ thông bạch với đại chúng là Thế Tôn sẽ không về dự lễ đăng quang và Thế Tôn muốn các vị khất sĩ trong giáo đoàn cũng không về dự lễ này.

Và đại đức rút lui. Ngày lễ đăng quang của vua mới đã tới. Không thấy Bụt và các vị khất sĩ trong giáo đoàn do người lãnh đạo, quần chúng bắt đầu đặt câu hỏi, và từ câu hỏi, họ tìm ra được sự thật. Họ biết thượng hoàng và hai vị đại thần đang bị giam giữ. Họ biết được là sau lễ đăng quang, vua mới cũng không trả tự do cho thượng hoàng và hai vị đại thần này. Họ bắt đầu hiểu được ý Bụt.

Trong quần chúng, nổi lên một phong trào âm thầm chống đối đường lối thiếu nhân nghĩa của triều đình mới. Quần chúng bắt đầu phân biệt được sự khác nhau giữa giáo đoàn của Bụt và giáo đoàn của đại đức Devadatta. Devadatta đã bắt đầu tự xưng là một vị giáo chủ. Nhiều giới đàn việt, trước khi cúng dường cơm vào bát vị khất sĩ, đã hỏi thăm là vị khất sĩ thuộc về giáo đoàn nào, và họ từ chối không cúng dường cho những vị khất sĩ thuộc giáo đoàn độc lập. Thái độ của họ là để đối kháng lại sự phản bội của Devadatta cũng như của ông vua mới.

Vua Ajatasattu được báo cáo về phong trào chống đối âm thầm này. Vua rất giận, nhưng vua không thể dùng quyền lực để bắt giam Bụt hoặc đàn áp các vị khất sĩ trong giáo đoàn. Vua biết nếu vua động đến Bụt và giáo đoàn một cách trực tiếp thì không những vua sẽ bị dân chúng trong nước chống đối mà còn có thể bị cô lập ngoại giao đối với các nước lân bang nữa. Vua biết rõ là Bụt rất được ngưỡng mộ ở các nước lân bang nữa, nhất là ở vương quốc Kosala. Quốc vương Pasenadi có thể đem quân sang chinh phạt nếu Ngài nghe vua động tới Bụt. Vua triệu đại đức Devadatta vào cung điện để vấn kế.

Cảm niệm những mối nhân duyên trong đời

(Sưu tầm)



Không ai là vô duyên vô cớ xuất hiện trong cuộc đời của bạn cả, sự xuất hiện của mỗi người đều có nguyên do, … mỗi một người xuất hiện đều là đúng lúc nên xuất hiện và đáng nhận được sự cảm ơn chân thành của bạn.

“Người sống ở trên đời, bởi vì xem nhẹ, cho nên vui vẻ, bởi vì xem nhạt, cho nên hạnh phúc”, chúng ta đều chỉ là hành khách qua đường trong đất trời này, rất nhiều người đời và sự tình, bản thân đều không cách nào làm chủ cho nổi. Ví như thời gian đã trôi qua, ví như những người đã rời xa, không làm sao giữ lại.

Chữ “Tâm” (心) có ba nét đều hướng vào trong tâm, chẳng nét nào hướng ra ngoài. Sống ở đời, bạn càng muốn nắm giữ chụp bắt điều gì đó, thói thường nó lại càng rời xa bạn càng nhanh. Tất cả tùy duyên, duyên đậm nhiều thì quấn quýt đoàn tụ, duyên nhạt thì nước chảy bèo trôi, tùy duyên nó đi.

Cuộc đời là dòng chảy lớn, người đến kẻ đi gieo vào lòng bạn những dư âm khó tả, buồn vui thăng trầm, rốt cuộc là vì cái gì ?

- Người yêu quý bạn sẽ mang đến cho bạn sự ấm áp, lòng can đảm và dũng khí.

- Người bạn yêu quý sẽ khiến bạn học được thế nào là yêu thương và nâng niu gìn giữ.

- Người bạn không ưa, chính họ lại dạy bạn có lòng khoan dung và biết cách tôn trọng mà có thể bạn chưa rõ.

- Kẻ không ưa bạn lại giúp bạn trưởng thành, khiến bạn phải tự dè dặt, tự mình xem xét lại chính mình.

Vậy thì, đôi khi ta nên biết cảm ơn người nào đó đang cho ta cảm giác thống khổ. Bởi vì về sau này, đến một lúc nào đó, bạn sẽ hiểu ra được những bài học của những người đi qua đời bạn, người tốt để cho ta noi gương, người xấu để cho ta tránh né lỗi lầm ... chính những con người ấy đã khiến cuộc sống của bạn càng có ý nghĩa, và càng thêm tốt đẹp hơn.

Cảm ơn cuộc sống cuồng quay
Để trân quý một phút giây yên bình
Cảm ơn ai đã vô tình
Ngộ ra cảm giác khi mình vong ân
Cảm ơn kẻ oán, người thân
Cho ta thành tựu chữ Nhân, chữ Hòa
Cảm ơn Đạo lý Phật Đà
Giữa đời thuận nghịch vẫn là thong dong
Cảm ơn trời đất mênh mông
Ôi, sao nói trọn tiếng lòng “Cảm Ơn !”
(Thơ Thích Tánh Tuệ)

Trước cái chết chợt tìm ra lẽ sống

(Thích Tánh Tuệ)



Nếu tôi được sống thêm lần nữa
Sẽ về ngồi lắng đọng giữa chiều quê
Bên sông nhỏ trôi qua làng tĩnh lặng
Soi bóng mình, nghe lúa hát ven đê

Nếu tôi được sống thêm lần nữa
Với bạn hiền cùng dạo phố sau mưa
Tìm một chỗ bên dòng đời vội vã
Ngắm chiều rơi ... đồng vọng tiếng chuông chùa

Nếu có thể xin thuyền đời trôi ngược
Chở tôi về thắm lại buổi hoa niên
Sống hiện tại thong dong không ràng buộc
Không “thả mồi bắt bóng” để truân chuyên

Giá như được sống thêm lần nữa
Sẽ mỉm cười chấp nhận nỗi đau riêng
Lưng cúi xuống bên những đời bất hạnh
Mắt tình thương xin xóa dịu ưu phiền ...

Nếu có thể, xin bắt đầu Sống lại
Thôi tháng ngày rồ dại ... chuốc ăn năn
Dẫu biết kiếp nhân sinh là hữu hạn
Lòng tôi còn chan chứa tận nghìn năm

Xin sự sống cho tôi lần cơ hội
Để tâm tình mở lối, biết khoan dung
Nhìn nhận thế không vội vàng kết tội
Hiểu và Thương mong trải đến vô cùng ...

Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|36|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

“Có một thứ, khi một kẻ vẫn còn giữ được trong lòng, thì những bất an trong nhân gian không dính vào họ được. Thứ đó là tâm không hận thù.”

Có kẻ, tẩm độc vào tên, kéo căng dây cung, bắn mũi tên độc vào không trung, khi hết lực, mũi tên độc tự rơi xuống. Mũi tên độc không cắm vào đâu được giữa lòng hư không, và hư không cũng không mang một vết thương nào, dù thứ vừa đi ngang qua đó là một mũi tên chứa chất cực độc.

Lời nói đầy hận thù, ánh mắt đầy hận thù, cũng như mũi tên độc được bắn ra từ một người chất chứa trong lòng đầy hận thù, mũi tên độc đó không cắm vào đâu được trong lòng một người đã không còn hận thù, nhẹ như hư không, rộng như hư không. Mũi tên không cắm vào đâu được, không chạm vào đâu được, nên không để lại bất kỳ một vết thương thương nào, không “xúc” nên không “tác ý”, không “thọ”, và không “tưởng”, không “tư”.

Trong lòng một người không còn hận thù, rộng như hư không, thì lời nói đầy hận thù cũng chỉ là âm thanh vô thường, và ánh mắt đầy hận thù cũng chỉ là sắc tướng vô thường. Như tiếng gió thổi, như đám mây bay.

Không gì an bằng hư không, mọi thứ đi ngang qua đó nhưng không để lại bất kỳ một vết thương nào.



Đời người

- Nguyễn Chấn Phong



Đời người sinh ra chỉ sống một lần thôi
Mai này ra đi giữ trong tay được gì
Bạc vàng lợi danh có đây rồi lại mất
Ngày còn bên nhau xin đừng gian dối nhau

Đời người bôn ba sinh tử ai từng qua
Nhắm mắt xuôi tay cát bụi ta lại về
Nợ đời trả vay, khách trọ cuộc đời đây
Đời là phù du xin đừng gieo hận sầu

Đời thoáng qua như gió thoáng mây bay
Gặp nhau đây rồi xa nhau một ngày
Bước thời gian vô tình trôi quá vội
Xin đừng trao nhau lời đắng bờ môi

Đời bể dâu, đừng thêm khổ cho nhau
Tình tan mau như nước trôi qua cầu
Nếm thương đau thấu hiểu ai khổ đau
Ôi cuộc đời, nào ai biết ngày sau

Rồi một ngày ta bỡ ngỡ nhìn lại ta
Tuổi xuân tàn mau tóc xanh nay bạc màu
Hối tiếc bao điều thời gian đâu chờ ai
Thoáng chốc trăm năm, ôi buồn một kiếp người ...

Hữu duyên vô phận, hữu phận vô duyên

(Từ Tâm)



Duyên phận là điều gì đó rất kì lạ, không ai có thể thực sự nói rõ về nó. Có thể hữu duyên vô tình quen biết nhưng lại hiểu thấu nhau. Có thể hài hòa với nhau, mà không thể gần nhau. Không cố ý theo đuổi thì có, bỏ tâm cố gắng lại chẳng thành. Như là “có lòng trồng hoa, hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu, liễu lại xanh”.

Mỗi người đều có những cuộc gặp mà suốt đời này không thể nào quên, có những cuộc gặp là mãi mãi, nhưng cũng có những cuộc gặp sớm đứt gánh giữa đường. Dân gian có câu: “duyên do trời định, phận do nhân định”, đó là cách nói nôm na, nhưng kỳ thực, gặp nhau và bên nhau là do Nhân Duyên tụ hội. Dựa vào đôi bên gìn giữ, phát triển thì duyên một lần gặp gỡ mới thành mối phận trăm năm. Nhưng duyên phận dài ngắn thế nào lại chẳng ai hay, ai biết. Một năm, năm năm, cả đời ? Hết thảy chúng ta đều không đoán đươc.

Hôm nay có duyên phận không có nghĩa là vĩnh viễn sẽ có duyên phận. Phật dạy về nhân duyên rằng, cái gì cũng chỉ có thời điểm, duyên phận cũng vậy, bởi thế mà những mối duyên lành phải biết ý thức và trân quí. Tuy nhiên, đã là duyên phận thì không nên cưỡng cầu, mất đi rồi cũng không nên ủ rũ, càng không thể cảm thấy cả thế giới sụp đổ vì duyên đã hết, phận đã đứt, cưỡng cầu chỉ thêm đau lòng. Người mất đi nhất định không phải người thích hợp nhất, vật mất đi nhất định không phải vật tốt đẹp nhất. Mất đi chỉ chứng minh rằng ta với người chẳng qua là cùng nhau đi một đoạn đường, gặp hạnh ngộ rồi chia li.

Kỳ thực, trong cuộc đời mỗi người có rất nhiều điều là không thể lý giải. Chính bởi vì không hiểu điều này mà khiến cho con người ta lúc nào cũng tràn đầy suy tưởng. Mọi người sống trên thế gian đều có cảm tưởng dường như mọi việc là theo sự an bài sẵn vậy. Đến thời điểm nào sẽ gặp ai, sự tình gì xảy ra đều là đã được nhân duyên vận chuyển.

Làm người cốt học được cách điềm nhiên đối đãi với hết thảy, dùng bình tĩnh để đối đãi với mọi sự công bằng và bất công bằng trong cuộc sống, thản nhiên tiếp nhận mọi sự an bài hợp ý và không hợp ý mình. Ấy mới là cách đối đãi của bậc trí huệ. Duyên đến không cần phải vui mừng quá đỗi, duyên đi cũng không cần phải khóc lóc thảm thiết.

Không có tình yêu thì bên cạnh bạn vẫn có bạn bè.

Không có bạn bè tri kỷ thì bên cạnh bạn vẫn còn có gia đình.

Không có gia đình thì bạn vẫn còn sinh mệnh của chính mình.

Duyên hợp, duyên tan đều lưu lại một điều gì đó tốt đẹp và một chút tiếc nuối. Trong sinh mệnh mỗi người, điều gì là của bạn thì sẽ không mất, còn như điều gì không là của bạn thì cuối cùng cũng không thuộc về bạn. Mọi sự tùy duyên, điều gì qua đi thì hãy buông bỏ để nó qua đi, nên bình tĩnh đối diện, quý trọng hết thảy những gì đang có ở hiện tại, như vậy mới sống được tự nhiên, thanh thản. Còn nếu như cố gắng níu giữ thì chỉ khiến bạn sống triền miên trong vô vọng và tâm linh bị đè nặng mà thôi.

Con người thế gian, nếu như so đo, tính toán quá nhiều thì sẽ tạo thành một loại ràng buộc, bị mê lạc quá lâu thì sẽ tạo thành một loại gánh nặng. Vì vậy, không cần quá để ý, khi có được điều gì hãy thật lòng trân quý, khi mất đi điều gì cũng đừng đau khổ tiếc nuối. Để ý quá nhiều, quá sâu sẽ khiến bạn mất đi một nửa hạnh phúc, xem nhẹ hết thảy sẽ khiến cuộc sống thăng hoa hơn, nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

“Có duyên mà không có phận, có phận mà không có duyên” đều là một phần trong nghiệp mệnh, nó không nên trở thành bước đệm dẫn bạn đến bước đường cùng của cuộc đời. Đừng vì “duyên đi” mà sinh ra tâm oán thù, hay nuối tiếc. Sống trên đời, điều gì đến thì hãy quý trọng, điều gì phải đi thì nên buông tay, như thế mới sống được tự do tự tại thực sự.

Sống thuận theo tự nhiên là một loại trí tuệ, cũng là một loại cảnh giới cao của người giác ngộ. Duyên đến, duyên đi, duyên như nước chảy qua cầu !

In the end, only three things matter

- Buddha

In the end, only three things matter:

- HOW MUCH YOU LOVED

- HOW GENTLY YOU LIVED

- HOW GRACEFULLY YOU LET GO OF THINGS NOT MEANT FOR YOU

╰▶Đến cuối cùng, chỉ có ba điều tồn tại:

- Bạn đã yêu thương (cho đi yêu thương) như thế nào/bao nhiêu.

- Bạn đã sống hiền lành, hòa nhã, cao thượng ... như thế nào.

- Bạn đã buông bỏ những thứ không thuộc về mình như thế nào (trong vui vẻ, hay miễn cưỡng, phẫn uất, cam chịu).




Tọa thiền

(J. Krishnamurti)



Đó là một trong những buổi sáng tuyệt diệu chưa từng thấy . Vừng dương vừa mới nhô lên, le lói giữa những hàng cây thông và cây khuynh diệp. Ánh dương chan hòa trên mặt nước một màu vàng rực rỡ, sáng ngời – thứ ánh sáng chỉ xuất hiện trong khoảng không gian giữa núi và biển. Đó là một buổi sáng đẹp ngây ngất, bầu trời trong vắt với làn ánh sáng kỳ diệu khiến cho ta không thể chỉ chiêm ngưỡng bằng mắt mà bằng cả tấm lòng rộng mở. Và khi bạn nhìn thấy cảnh tượng ấy, bạn sẽ thấy đất và trời xích lại gần nhau và bạn sẽ cảm thấy dường như bản thân mình đã hòa tan vào với cái đẹp.

Bạn ơi, đừng bao giờ tọa thiền giữa công chúng, hoặc với người nào, hoặc đám đông nào khác. Bạn chỉ nên tọa thiền nơi vắng vẻ, trong sự tịch mịch của trời đêm, hoặc trong sự tĩnh lặng của buổi sáng sớm. Khi bạn tọa thiền nơi vắng vẻ, phải là nơi vắng vẻ. Bạn phải hoàn toàn cô đơn, không theo một hệ thống nào, một phương pháp nào, không lặp đi lặp lại lời nói, không theo đuổi một ý tưởng, không uốn nắn tư tưởng theo ý muốn của bạn.

Sự tĩnh lặng này sẽ tới khi tâm trí bạn đã được giải thoát khỏi sự suy nghĩ. Khi bị ảnh hưởng bởi lòng ham muốn, hoặc những điều mà trí não bạn theo đuổi, dù là trong tương lai hoặc quá khứ, bạn sẽ không có được sự tĩnh lặng. Chỉ trong sự mênh mông của hiện tại, trạng thái đơn độc này sẽ tới. Và rồi, trong sự tĩnh lặng, tất cả mọi giao tiếp đều chấm dứt, sẽ không còn có cái người luôn theo dõi với những bồn chồn, với lòng khát khao ngu ngốc cùng với những rắc rối cuộc đời của hắn. Chỉ khi đó, trong cái tĩnh lặng của sự đơn độc, thiền định mới trở nên một điều gì đó mà chúng ta chẳng thể dùng lời nói để mô tả.

Thiền định là sự sống vĩnh cửu.

Danh ngôn (138)

- Feurzinger



Chức quyền chẳng qua là một lớp áo, người có phận sự nào đó mặc trong một thời gian. Phận sự xong thì chức quyền cũng thành mây khói. Vì thế ta nên chú trọng việc phục vụ xã hội bằng cách làm xong phận sự của mình hơn là luôn luôn khao khát cái hư vinh của lớp áo chức quyền.

Tiếng chuông chùa

- - -



“Ngàn năm công đức đúc chuông
Lưu truyền tiếng vọng tình thương cho đời”


Một thương của ít lòng nhiều
Phát tâm tùy hỷ đông người nên công

Hai thương nhìn rộng thấy xa
Để dành phước báu dẫu qua cuộc đời

Ba thương cho đến bao giờ
Cháu con mà chia hưởng phước này hôm nay

Bốn thương tiếng tốt bay xa
Bay cao theo tiếng chuông này mười phương

Năm thương rạng ánh đạo vàng
Muôn đời tạo phước nên mình gặp đây

Sáu thương đời sống ngắn ngày
Biết tu và bố thí tấm lòng không phai

Bảy thương vàng đá không lay
Mái chùa dân tộc hai ngàn năm hơn

Tám thương hai buổi công phu
Hồng Chung thấu tận ngục U Minh đài

Chín thương thức tỉnh lòng người
Những ai lung lạc một đời dọc ngang

Mười thương làng xóm Việt Nam
Mái chùa có mặt vui buồn sớt chia

Chuông kia an ủi đau thương
Với là chia sớt hưởng cùng lúc vui

Mười thương vẹn đủ đôi đàng
Tặng người công đức cúng dường đúc chuông

Chùa đây Linh Phước duyên lành …

D.P.A (53)

• • •

Bản lĩnh - Tài năng ... nên sự nghiệp
Nhân hòa - Đức độ ... tạo thành công



Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|35|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

Có người mất năm lạng bạc rồi điêu đứng, kẻ đó nghèo, số tiền ấy là rất lớn, là tất cả tài sản bao nhiêu năm họ nhọc nhằn tích góp được.

Có người mất năm lạng bạc nhưng vẫn bình thản như không, kẻ đó giàu, số tiền ấy chẳng đáng kể.

Cũng như vậy …

Có người sa ngã một lần, lầm lỗi một lần, rồi từ đó không đứng lên được nữa, do hôm qua đã không tích góp được những điều thiện lành bền vững để hôm nay vịn vào đứng lên đi tiếp.

Có người sa ngã một lần, nhưng bình thản đứng dậy như không, do hôm qua đã gây dựng được nhiều điều thiện lành bền vững để làm điểm tựa cho mình.

Có người chỉ một lần sảy chân đã rơi xuống vực sâu, do những bước chân trước đó đã đưa họ đến sát bờ vực. Những gì ngày hôm qua còn lại là thật nhiều những bước chân sai.

Một người chưa biết lắng nghe từng bước chân trong hiện tại của mình, nhất định sẽ còn đi lạc.

Một người chưa lắng nghe được trái tim của mình, nhất định chưa thể bình yên.



Nghệ thuật lên dây đàn

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương LXXI, Thích Nhất Hạnh



Mùa an cư hoàn mãn, Bụt lên đường về miền Nam. Người ghé thăm Vườn Nai Migaradava ở Isipatana, phía Bắc thành phố Baranasi, nơi Người đã nói pháp thoại Tứ Diệu Đế, pháp thoại đầu tiên của Người. Quang cảnh ở đây đã đổi khác. Một cái tháp lớn đã được dân chúng địa phương dựng lên để kỷ niệm lần đầu tiên bánh xe chánh pháp được chuyển xoay. Mới đó mà ba mươi sáu năm đã đi qua, bánh xe chánh pháp đã được chuyển xoay liên tục trong mười sáu năm và chánh pháp đã được lan truyền đến mọi nơi, trên khắp lưu vực sông Hằng.

Tại Vườn Nai, một giảng đường đã được tạo lập và các vị khất sĩ cư trú tu học rất là đông đảo. Sau khi thăm hỏi, thuyết pháp và khích lệ đại chúng, Bụt lên đường đi Gaya. Người ghé Uruvela thăm cây Bồ Đề năm xưa. Cây Bồ Đề càng ngày càng xanh tốt. Nhiều tịnh thất đã được dựng lên trong vùng. Vua Bimbisara đang chuẩn bị cho xây một ngôi tháp kỷ niệm nơi Bụt thành đạo. Bụt ghé vào thôn xóm để chơi với bọn trẻ con. Những đứa trẻ năm nay không khác gì những đứa trẻ năm xưa. Chú bé chăn trâu Svastika năm xưa nay đã bốn mươi bảy tuổi rồi và đã trở nên một vị lớn tuổi trong giới khất sĩ. Bọn trẻ đi hái những trái đu đủ chín đỏ để cúng dường Bụt, đứa nào cũng biết đọc bài tam quy.

Từ Gaya, Bụt đi dần lên phía Đông Bắc để về Rajagaha. Về tới thủ đô, Bụt đi thẳng lên núi Linh Thứu. Tại đây, Bụt gặp đại đức Punna. Thấy Bụt, đại đức rất mừng. Thầy kể cho Bụt nghe về công trình hoằng pháp của thầy tại đảo Sunaparanta. Thầy vừa mới kết thúc một mùa an cư tại đó với một số các vị khất sĩ bạn. Số người quy y Bụt, Pháp và Tăng ở đảo đã lên tới con số năm trăm.

Những ngày kế tiếp, Bụt đi thăm các trung tâm tu học rải rác trong vùng. Một đêm kia, tĩnh tọa trong tịnh thất tại trung tâm vườn Mát, Bụt thoáng nghe được giọng tụng kinh hơi bất thường của một vị khất sĩ. Giọng tụng kinh này có vẻ mệt mỏi và buồn chán. Bụt biết vị khất sĩ này đang gặp khó khăn. Sáng hôm sau, nhờ hỏi đại đức Ananda, Bụt biết vị khất sĩ tụng kinh hồi hôm là Sona. Bụt đã từng biết Sona nhiều năm về trước tại Savatthi.

Đại đức Sona đã được xuất gia dưới sự hướng dẫn của đại đức Maha Kaccana, và tu học với đại đức này mấy năm trên núi Pavatta ở xứ Kururaghara. Sona là một thanh niên con nhà giàu, nho nhã thông minh, nhưng thể chất không được cứng cáp cho lắm. Thầy phải cố gắng hết sức mới sống được đời sống xuất gia không nhà không cửa, ăn một ngày một bữa và ngủ dưới gốc cây, nhưng đạo tâm của Sona rất lớn. Sau một năm, thầy Sona mới được đại đức bổn sư phái về Savatthi thăm Bụt.

Được gặp Bụt lần đầu, thầy Sona rất sung sướng, Bụt hỏi thăm thầy:

- Sona, thầy có mạnh giỏi không ? Tu học, khất thực và hành hóa có khó khăn lắm không ?

- Bạch Thế Tôn, con hạnh phúc lắm. Công việc tu học, khất thực và hành hóa của con không có gì khó khăn.

Bụt bảo thầy Ananda:

- Thầy dọn cho khất sĩ Sona một chỗ nghỉ ngơi trong tịnh thất.

Đại đức Ananda kê thêm một cái giường trong tịnh xá Bụt. Đêm ấy, Bụt ngồi thiền ngoài trời cho tới ba giờ sáng. Sona thấy thế cũng không ngủ. Khi Bụt bước vào, Người hỏi:

- Thầy chưa ngủ sao ?

- Bạch Thế Tôn, con chưa ngủ.

- Thầy chưa buồn ngủ sao ? Vậy thì thầy có thuộc được kinh kệ gì, đọc lên cho vui đi.

Đại đức Sona vâng lời, đọc lên mười sáu câu kệ thuộc phép quán niệm hơi thở. Giọng thầy trong như chuông, không vấp váp, không có một lỗi văn phạm. Bụt khen:

- Thầy đọc hay lắm, thầy tu đã được mấy năm rồi ?

- Bạch Thế Tôn, con mới đi tu được có hơn một năm thôi. Con chỉ mới có một tuổi an cư.

Đó là lần đầu Bụt gặp thầy Sona. Đêm qua nghe tiếng tụng kinh của thầy, Bụt biết là thầy đã cố gắng quá sức mình trong nỗ lực tu học. Người bảo Ananda cùng đi với Người tới tịnh thất của thầy Sona. Thấy Bụt, Sona đứng dậy chào mừng. Bụt bảo Ananda và Sona ngồi xuống cạnh Bụt, rồi Người hỏi Sona:

- Ngày trước, hồi chưa xuất gia, thầy là nhạc sĩ chuyên về đàn mười sáu dây, phải không ?

- Bạch Thế Tôn, phải.

- Khi đánh đàn, nếu dây đàn chùng thì sao ?

- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn chùng thì tiếng đàn chưa đúng mức.

- Còn nếu dây quá căng ?

- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn quá căng thì tiếng đàn biến thể và dây đàn có thể đứt.

- Còn nếu dây đàn được lên vừa phải ?

- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn được lên vừa phải thì bản nhạc sẽ hay.

- Đúng như vậy đó, Sona ! Giải đãi và lười biếng thì đạo nghiệp không thành, mà cố gắng quá sức mình thì sẽ đưa tới sự mệt mỏi và thối chí. Sona ! Thầy phải biết lượng sức mình, đừng ép uổng thân và tâm quá mức, như vậy thầy mới mong thành tựu được đạo nghiệp.

Đại đức Sona đứng dậy lạy xuống để cảm tạ Bụt.

Một buổi chiều, y sĩ Jivaka lên núi Linh Thứu thăm Bụt. Tới chân núi, ông gặp Bụt, Bụt mới ở tu viện Trúc Lâm về. Ông chào Bụt và xin phép được đi theo Người lên núi. Jivaka nhìn Bụt leo các bậc thang đá lên núi mà trong bụng khen thầm. Năm nay Bụt đã bảy mươi hai tuổi rồi mà Người còn cứng cáp và mạnh khỏe quá, Bụt leo núi một cách thong thả và ung dung, một tay cầm bát, một tay cầm chéo áo. Đại đức Ananda đi cạnh Bụt không thể cầm bát thay cho Bụt được, bởi vì một tay thầy cũng cầm bát và một tay thầy cũng cầm chéo áo. Jivaka tiến lên và xin mang bình bát hầu Bụt. Bụt trao bình bát cho ông và mỉm cười:

- Như Lai đã leo núi này có cả mấy ngàn lần, lần nào cũng tự cầm lấy bát, thì đã có sao đâu.

Bậc đá được xây lên tận thềm tịnh xá của Bụt ở trên đỉnh đồi. Chính vua Bimbisara đã ra lệnh xây mấy trăm bậc đá này để cúng dường. Lên tới sân tịnh xá, y sĩ được Bụt mời ngồi trên một tảng đá. Ông cám ơn Bụt rồi hỏi thăm Bụt về tình hình sức khỏe và công việc hoằng hóa của Người ở các nước. Ông nhìn đại đức Ananda rồi nhìn Bụt. Ông nói:

- Bạch Thế Tôn, con xin phép nói sơ lược về tình trạng giáo đoàn ở đây. Con thấy tình trạng giáo đoàn có liên hệ tới tình trạng chính trị. Con nghĩ Thế Tôn cần phải được thông báo về tình hình này.

Rồi y sĩ cho Bụt biết rằng đại đức Devadatta có vây cánh khá mạnh mẽ và đông đảo trong giới các vị khất sĩ cũng như trong giới chính trị. Cánh tay trái của đại đức là đại đức Kokalika, một người được xem như là mưu sĩ của đại đức Devadatta. Ngoài ra còn có các đại đức Kotamoraka Tissa, Khandadeviputta và Samuddadatta, vị nào cũng có đông đảo đệ tử.

Đại đức Devadatta rất thông minh mà cũng rất hùng biện cho nên được rất đông người nghe theo, trong giới khất sĩ cũng như trong giới cư sĩ. Đại đức không chính thức nói ra là đại đức chống đối Bụt và các vị đại đệ tử phụ tá Người, nhưng đại đức đã nhiều lần đưa ra ý kiến là Bụt đã lớn tuổi, không đủ sức để lãnh đạo giáo đoàn, và cách thức của Bụt đã hơi xưa không thích hợp với giới trẻ và với thời đại mới. Đứng về phương diện xã hội, đại đức rất được nhiều giới giàu có ủng hộ. Người ủng hộ đại đức tận tình nhất là hoàng thái tử Ajatasattu. Không biết đại đức khéo léo thế nào mà thái tử Ajatasattu đã ủng hộ đại đức một cách tận tình.

Hoàng thượng Bimbisara tin kính Bụt như thế nào thì Ajatasattu tin kính đại đức Devadatta như thế ấy. Thái tử đã xây cất cho đại đức một trung tâm tu học lớn trên núi Gayasisa, nơi ngày xưa Bụt đã nói kinh Lửa cho ba anh em đại đức Uruvela Kassapa và cả gần một ngàn vị môn đệ của họ. Thái tử cho chở tới trung tâm các thức cúng dường, chở bằng xe ngựa, ba bốn hôm một lần. Giới thương gia và chính trị gia muốn được lòng thái tử cũng bắt chước đi lại Gayasisa để cúng dường và nghe pháp. Với sự ủng hộ đó, uy tín của đại đức càng lúc càng lên. Số các vị khất sĩ theo hùa về đại đức đã có đến ba hoặc bốn trăm vị.

Nói tới đây, y sĩ lại nhìn Bụt và xuống giọng:

- Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng những gì xảy ra đó không đủ để làm Thế Tôn e ngại, nhưng điều này con xin Thế Tôn lưu ý cho con, con nghe phong phanh là Ajatasattu muốn sớm làm vua để thi hành được những gì mà thái tử muốn, Ajatasattu nóng ruột thấy vua cha ngồi ở trên ngôi lâu quá, cũng như đại đức Devadatta nóng ruột thấy Bụt chưa giao quyền lãnh đạo giáo đoàn cho đại đức. Con nghĩ rằng chính đại đức Devadatta đã gieo những ý tưởng nguy hiểm vào đầu thái tử Ajatasattu. Thế Tôn, vì phải lui tới kinh đô để chữa trị cho hoàng thượng và hoàng gia, con đã cảm thấy các nguy cơ này. Nếu vạn nhất có chuyện gì xảy ra, Bụt và giáo đoàn thế nào cũng bị liên lụy. Xin Thế Tôn lưu ý.

Bụt nói:

- Jivaka, cảm ơn ông đã cho Như Lai biết tình hình. Biết được những gì đang xảy ra, đó là điều quan trọng, nhưng ông đừng quá lo lắng, Như Lai sẽ sắp đặt để giáo đoàn đừng bị vương vấn vào những chuyện không may.

Y sĩ Jivaka lạy Bụt, cáo từ và xuống núi. Bụt dặn thầy Ananda đừng tiết lộ những gì y sĩ nói cho ai biết. Mười hôm sau, trong một buổi pháp thoại lớn tổ chức hàng tháng tại tu viện Trúc Lâm, Bụt giảng về ngũ lực, tức năm loại năng lực cần thiết để nuôi dưỡng hoa trái giác ngộ, ngũ lực là niềm tin (tín), sự chuyên cần (tấn), chánh niệm (niệm), sự chuyên tinh (định), và sự hiểu biết (tuệ).

Buổi pháp thoại rất đông đảo, có trên ba ngàn người tham dự, trong đó có cả quốc vương Bimbisara. Pháp thoại vừa chấm dứt, mọi người chưa có cơ hội để hỏi Bụt những điểm họ chưa thấu triệt thì đại đức Devadatta đã đứng dậy. Đại đức bước lên, chắp tay cung kính làm lễ Bụt, rồi bạch:

- Thế Tôn, năm nay tuổi Thế Tôn đã cao, sức khỏe Thế Tôn đã kém, Thế Tôn cần được nghỉ ngơi an tĩnh để bớt đi những khó nhọc trong những năm chót còn lại trên đời. Công việc lãnh đạo giáo đoàn đã trở nên quá nặng nhọc đối với Thế Tôn. Xin Thế Tôn rút về tịnh xá an nghỉ. Con sẽ xin thay mặt Người mà lãnh đạo giáo đoàn khất sĩ.

Bụt nhìn Devadatta, Người trả lời:

- Devadatta, cảm ơn thầy đã lo lắng cho Như Lai, nhưng Như Lai vẫn còn đủ sức để lãnh đạo giáo đoàn khất sĩ.

Đại đức quay lại nhìn đại chúng. Có khoảng ba trăm vị khất sĩ đứng dậy và chắp tay. Đại đức nói:

- Ở đây có nhiều vị cũng nhận thấy như con. Xin Thế Tôn đừng e ngại, con đủ sức lãnh đạo giáo đoàn để đỡ mệt cho Người.

Bụt nói:

- Thôi, Devadatta, đừng nên nói nữa. Trong số các đệ tử lớn của ta có những vị xuất sắc và xứng đáng hơn thầy nhiều mà ta cũng chưa giao cho họ trách nhiệm lãnh đạo giáo đoàn khất sĩ, huống hồ là giao cho thầy. Thầy chưa có đủ tư cách lãnh đạo giáo đoàn khất sĩ đâu.

Bị Bụt chê giữa đám đông người, trong đó có cả vua Bimbisara, đại đức Devadatta lấy làm xấu hổ, mặt thầy đỏ lên vì giận. Thầy đi xuống, không nói thêm một lời nào nữa. Ngày hôm sau, tại tịnh thất trên núi Linh Thứu, đại đức Ananda tâm tình với Bụt:

- Thế Tôn, con rất đau khổ vì anh ruột của con là đại đức Devadatta. Thế Tôn đã chê anh ấy trước đám đông, anh ấy sẽ tìm mọi cách để trả thù, con nghĩ là sẽ có chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn, nếu Thế Tôn thấy con cần đi nói chuyện riêng với anh ấy để khuyên nhủ thì con xin đi.

- Ananda, sở dĩ Như Lai phải nói nặng với Devadatta ngay giữa đám đông và trước mặt quốc vương là vì Như Lai có ý muốn cho mọi người thấy rằng Devadatta không phải là người chủ chốt trong giáo đoàn, và những hành vi của Devadatta sau này chỉ có một mình Devadatta chịu trách nhiệm, chúng ta không phải gánh chịu trách nhiệm ấy. Ananda, nếu thầy thấy nói chuyện với Devadatta có thể làm cho Devadatta hồi tâm thì thầy cũng nên đi gặp Devadatta.

Mấy hôm sau đó, y sĩ Jivaka lại lên thăm Bụt. Ông trình với Bụt rằng ông biết Devadatta đang chuẩn bị một kế hoạch nào đó để tách rời khỏi giáo đoàn, nhưng ông không biết rõ được kế hoạch đó là kế hoạch gì.

Thiền là nhận biết

(Sưu tầm)



Một vị thiền sư đã giảng về Thiền như sau:

“Thiền có nghĩa là NHẬN BIẾT. Bất kỳ bạn làm điều gì có “nhận biết” thì đó nghĩa là Thiền. Hành động không phải là vấn đề, mà BẢN CHẤT bạn mang vào hành động đó mới là cốt lõi …”

Đi bộ có thể là Thiền nếu bạn bước đi trong Tỉnh Giác.

Ngồi có thể là Thiền nếu bạn ngồi với sự Tỉnh Giác.

Nghe tiếng chim hót có thể là Thiền nếu bạn nghe với Nhận Biết.

Lắng nghe tiếng ồn bên trong Tâm Trí bạn có thể là Thiền nếu bạn luôn Tỉnh Giác và Nhận Biết.

Toàn bộ giá trị là ở chỗ con người không nên hoạt động trong mơ ngủ.

Thế thì bất cứ điều gì bạn làm đi đôi với Tỉnh Giác và Nhận Biết đều được gọi là Thiền.

Lí do nên học cách kiềm chế cảm xúc

(Sưu tầm)

Nhiều người trong chúng ta không kiểm soát được cảm xúc của mình đã hành động một cách thiếu suy nghĩ, dẫn đến những hậu quả không lường hết được. Dưới đây là những lí do để bạn kiềm bớt mình lại.

Ai cũng biết cảm xúc của bản thân là điều khó kiềm chế nhất. Điều này không sai, tuy nhiên, trong cuộc sống không phải lúc nào bạn cũng nên để cảm xúc dẫn dắt. Bởi những cảm xúc bốc đồng, khó cưỡng lại ham muốn nhất thời cũng như sự chấp nhặt, giận dữ … có tác động rất lớn đến cuộc sống của bạn.

LÍ DO BẠN NÊN HỌC CÁCH KIỀM CHẾ CẢM XÚC

➀ Không thể vừa xấu, vừa lùn lại còn xấu tính đúng không ? IQ đã thấp thì không thể khiến EQ cũng thấp theo được.

➁ Nổi giận là bản năng, khống chế cảm xúc là bản lĩnh.

➂ Hai năm học nói, cả đời học im lặng.

➃ Nếu bạn không làm chủ được cảm xúc của mình, bạn sẽ trở thành nô lệ của cảm xúc.

➄ Bố tôi vừa mua một cái smartphone, hỏi tôi cách mở wifi, tôi nói mà ông mãi không hiểu, tôi nhắc lại ông vẫn nói là ông không biết. Lúc ấy tôi ức chế, gào lên: “thôi, Bố đừng hỏi nữa, con không biết đâu !”. Không biết khi ấy bố tôi đau lòng như thế nào. Ngày nhỏ, khi tôi chưa biết thứ gì, bố tôi đã kiên nhẫn dạy tôi bước đi, dạy tôi học nói, dạy tôi ăn cơm … Giờ mỗi lần nghĩ lại đều thấy hối hận.

➅ Tất cả những cảm xúc của con người đều là sự phẫn nộ dành cho sự bất lực của bản thân.

➆ Nếu bạn đúng, bạn không cần phải nổi giận. Nếu bạn sai, bạn không có tư cách nổi giận.

➇ Đừng để những cảm xúc tiêu cực hiển hiện trên khuôn mặt, vì đó là một loại biểu tình khiến người khác chán ghét.

➈ Sai lầm lớn nhất của chúng ta chính là lưu lại tất cả những tật xấu, những cảm xúc tiêu cực nhất cho những người thân yêu.

➉ Nếu ngay cả cảm xúc của bản thân mà còn không khống chế được thì dù cho bạn cả thế giới, sớm hay muộn bạn cũng sẽ phá hủy tất cả.

⑪ Tính tốt là do cọ xát nhiều mà thành, tính xấu là do bị chìu mà ra. Người sửa được tính cách của bạn là người bạn yêu, người chịu được tính cách của bạn là người yêu bạn.

⑫ Bạn có thể sẽ không bao giờ biết được những lúc không khống chế được tâm trạng, bạn đã nói ra những lời nói làm tổn thương người khác nhiều như thế nào.

⑬ Vì tôi biết sau này tôi nhất định sẽ hối hận.

⑭ Vấn đề có thể mang đến rất nhiều cảm xúc, nhưng cảm xúc cũng không giải quyết được vấn đề.

⑮ Bạn sẽ không biết được một lời buột miệng lúc nóng giận có thể tổn thương người khác như thế nào, kể cả đó là những người thân thiết nhất. Càng trưởng thành càng phải học được cách bao dung, học được cách khống chế cảm xúc.

⑯ Có ít cảm xúc tiêu cực hơn, bạn sẽ thấy cuộc sống của bạn tốt đẹp hơn.

⑰ Sống trên đời chỉ cần một chữ “Nhẫn”. Hồi bé cần nhịn đi chơi, cố gắng học hành. Lớn rồi nhịn thói lười biếng, cố gắng làm việc … Con gái nhịn ăn để giữ dáng. Con trai nhịn ham muốn, không để biến thành dung tục … Những người ngay cả cảm xúc của bản thân còn không khống chế được, thì làm sao mà khống chế được cuộc đời mình.

⑱ Cãi nhau với em trai, tôi tức giận đưa tay đánh nó, nó khóc: “sau này chị lên trường, em không bao giờ mong chị về nữa”. Nghe xong mà không thể giận nổi nữa. Bản thân tôi cứ hay làm quá tâm trạng mình, vậy nên thường xuyên làm tổn thương những người thân yêu nhất, gần gũi nhất.

⑲ Cái gì cũng nói toạc ra, cái gì cũng bộc phát hết không phải là thẳng tính, mà là thiếu giáo dục.

⑳ Nổi giận là bản năng, khống chế cảm xúc là bản lĩnh.

NĂM CÁCH ĐƠN GIẢN GIÚP KIỀM CHẾ CẢM XÚC

❶ Thường xuyên chia sẻ những cảm xúc của bạn với người bạn thực sự tin tưởng, đó có thể là gia đình, bạn thân, người yêu …

❷ Tập thể dục thường xuyên làm tăng sức lực cho cơ thể và hỗ trợ bộ não tập trung, giúp bạn kiểm soát được cơn nóng giận. Ngoài ra còn làm giảm nguy cơ hành động, lời nói, cử chỉ quá mức bình thường.

❸ Nếu bạn là người mau nước mắt hay để bộc lộ cảm xúc, hãy nghĩ đến những câu chuyện hài hước, nghĩ đến chuyện vui bạn đã từng trải qua, hãy uống một cái gì đó thật lạnh … Nó sẽ giúp bạn kiềm chế cảm xúc của mình tốt hơn.

❹ Thiền định. Stress và lo lắng là nguyên nhân của sự tức giận, thiền định có thể giúp bạn giảm bớt những điều này một cách tối đa.

❺ Viết nhật kí. Nếu bạn chưa thực sự tin tưởng ai, hãy tập cho mình thói quen viết nhật ký. Nhật ký là một hình thức khác lành mạnh để kiềm chế cảm xúc của bạn. Đây là nơi tuyệt vời để giải thoát các ý tưởng, cảm xúc tiêu cực mà không làm tổn thương bất cứ ai. Bạn có thể học cách tự “viết ra” trong tâm trí của mình những cảm xúc … và “đọc” nó, nghĩa là “dõi theo” nó. Đó chính là lắng nghe tiếng nói bên trong để nhận biết và hiểu rõ cảm xúc bản thân.

Đừng giữ những cảm xúc trong lòng nhưng hãy biết thể hiện đúng nơi, đúng người để không gây nên những tai hại nghiêm trọng. Không phải người nào cũng rộng lượng lắng nghe mà không để lại những ấn tượng xấu về bạn khi bạn cố xả hết những cảm xúc của mình với họ. Kiềm chế cảm xúc và bộc lộ nó đúng cách sẽ giúp cho bạn giao tiếp và quan hệ với những người xung quanh tốt hơn rất nhiều.

Kiếp hư vân

(Thích Tánh Tuệ)



Mới đó đà sang đến tháng Mười
Thời gian cứ thế lẹ làng trôi
Ngày đi, đêm tới không dừng nghỉ
Lưu dấu tàn phai trên mắt môi

Mới đó màu hoa đã úa rồi
Tiếng cười tao ngộ chợt xa xôi
Hân hoan, phiền muộn ... cùng theo gió
Quyện với mây thu dạt cuối trời

Ta đến nơi đây ắt vạn lần
Mộng gì rồi cũng hóa hư vân
Nằm mơ quán trọ thành quê cũ
Nên trót vương mang lắm nợ nần

Sáng nay sờ sững nghe tin bạn
Đi vội chưa chào giã biệt nhau
Hôm qua mới gặp lời chưa cạn
Tháng Mười ... sao rớt giọt mưa Ngâu

Mới đó, người đi giấc mộng tàn
Vô thường hoài gõ nhịp nhân gian
Bôn ba, tất bật ... rồi sương khói
Vạn sự vùi quên dưới mộ vàng

Mới đó nhìn gương tóc đã phai
Thôi chừ buông xuống nhẹ hai vai
Ta về kẻo chậm, hoàng hôn xuống
Lỡ chuyến đò ngang, khóc hận hoài

Cốt cách của người tu hành

(Hoà Thượng Thích Trí Tịnh)



Nhiều người TU lâu năm, thường đi chùa, ăn chay, ngồi thiền, niệm Phật, làm Công-Quả, theo học Giáo-Lý với nhiều thầy nổi tiếng ... Nhưng bấy nhiêu đó có đủ để Chứng-Minh là người này tu khá, tu đúng và đưa đến GIẢI-THOÁT hay không ?

Cũng có những người tu chỉ thích đến chùa làm công quả, hoặc thích tạo chùa to, tượng lớn. Có người thích nhiều chùa, đông đệ tử. Có người thích học lấy nhiều bằng cấp thế gian. Có người thích nổi tiếng, .v.v.v... Những cái đó có phải là tu không ?

Sau đây là những tiêu chuẩn tối thiểu và căn bản để nhận xét một người tu đúng hay không:

⒈ Còn ham thích tài sản, danh lợi và sắc dục hay không ?

⒉ Còn dễ nổi sân hay không ? Khi gặp chuyện trái ý thì có giận dữ, bực tức hay không ?

⒊ Còn kiêu căng ngã mạn hay không ? Còn thích khoe khoang, điều khiển kẻ khác không ? Còn thích được khen ngợi, được tâng bốc hay không ?

⒋ Còn chấp vào đạo của tôi, thầy tôi hay pháp môn của tôi là hay hơn hết ? Còn có cái tâm hẹp hòi, ưa chia rẽ, bè phái, chỉ trích vu khống, chụp mũ người khác không ?

Nếu còn bốn điều trên thì dù đã tu 30, 40 năm, ngồi thiền nhập định 6, 7 tháng, tu đủ loại pháp môn Thiền, Tịnh, Mật, tụng làu làu đủ loại kinh chú, có hàng ngàn đệ tử, viết hàng trăm cuốn sách, người này vẫn chưa tu đúng theo đạo Phật. Ngoài ra, một người tu còn cần phải có ít nhất những đức tính sau đây:

⒈ Biết làm Phước, Bố Thí:
Có những người học (đọc) nhiều kinh sách, hiểu biết giáo lý, nói đạo rất hay, nhưng không biết làm phước, bố thí, mà lại keo kiệt, bỏn sẻn, bo bo bám chặt vào tài sản, tiền bạc của mình.

⒉ Nói lời Ái Ngữ:
Có người theo học đạo lâu năm mà không biết nói lời ái ngữ, không giữ gìn khẩu nghiệp, ăn nói xả láng, chê bai, chỉ trích, vu khống, bịa đặt, phỉ báng kẻ khác.

⒊ Từ, Bi, Hỷ, Xả:
Thiếu bốn đức tính này thì không phải là kẻ tu hành.

⒋ Khiêm Cung và Lễ Độ:
Càng tu thì cái ngã phải nhỏ dần và biết cung kính tôn trọng kẻ khác, nhất là các bậc trưởng thượng. Hãy nhìn vào các phiên họp Đạo, các giao tế cộng đồng thì thấy rõ nhất.

Nếu chưa có những đức tính này thì cũng gọi là chưa biết tu hoặc tu chưa đủ để sửa đổi tâm tánh. Hãy tự xét lại, nhìn lại mình xem, mình đạt đến đâu để dừng lại sửa ngay sơ sót, kẻo uổng phí một kiếp người may mắn có Đạo.

Làm gì cũng nhớ mình là người con Phật.

D.P.A (52)

• • •

… Đêm tịch lặng
thức trắng ...
Tiếng hèn sang
ai hoang mang
xây mộng vàng
vụt tan …



Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|34|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường



Người về, ghé qua Phố Hương, “con về để ngồi với Gautama một lát”.

Người ngồi dưới hiên chùa, nghe tiếng chuông gió, mỉm cười: “như thiên nhạc”. Những ngày tháng đầy biến cố đó, trên người con, chỉ còn chỗ này là không đau.

Người mỉm cười, bình thản, chỉ chiếc chân giả của mình. Nó không biết đau, không chảy máu vì nó không “sống”, đúng không ?

Nỗi đau là một phần của cuộc sống. Nên, chỉ những gì không “sống” mới không bị cuộc sống làm đau, mới không bị cuộc đời làm chảy máu. Trên đời này, làm gì có người có được đôi tay đủ nhanh đủ khỏe để tóm lấy những bất an khi nó còn chưa kịp chạm vào mình, ném thật xa, khỏi cuộc đời, rồi bình yên. Nhưng sẽ có người đủ sâu sắc, đủ can đảm để bình thản cầm lấy nỗi đau của mình, xem thử có dùng được chúng vào việc gì có ích hay không.

Thời gian dùng để tiếc nuối xót xa cho những dở dang đã qua, nếu không phải là thời gian dùng để hoàn thiện bản thân mình, thì cũng chỉ là thời gian bị lãng phí vô ích mà thôi. Những bất an trong cuộc sống ấy mà, nhiều lắm, nếu không dùng được vào việc gì hữu ích thì quả là phí phạm.

Người an.