V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Hạnh phúc đến từ cách nghĩ của mình

(Sưu tầm)



⒈ Học cách tự cười vào bản thân sẽ giúp bạn thoải mái hơn

Chúng ta không thể tránh khỏi việc bị người khác phán xét và chế nhạo những khuyết điểm của mình vào một lúc nào đó. Thay vì rước lấy khó chịu vào người, bạn có thể học cách tự cười vào những điểm không hoàn hảo của mình. Đó là một cách thể hiện việc bạn tự tin với sự không hoàn hảo một cách hoàn hảo của mình. Biết thừa nhận mình thì mới dễ dàng tiến bộ.

⒉ Mỗi người có một quan điểm riêng

Việc bạn và người khác không đồng quan điểm là một việc bình thường. Bạn không cần phải thay đổi nếu như quan điểm của mình không giống với bất kì ai. Chỉ cần bạn sống không hại mình, hại người, sống không hổ thẹn với lương tâm là được.

⒊ Cuộc sống vốn dĩ không công bằng

Sẽ có người được cuộc đời ưu ái về nhiều mặt hơn một số người khác. Việc này không phải lỗi của bất kì ai cả. Chúng ta buộc phải chấp nhận việc này dù không dễ dàng một chút nào. Bạn cứ cố gắng phấn đấu hàng ngày để hoàn thiện bản thân, nếu không đạt được đến đích mình muốn thì ít nhất cũng tiến đến điểm xa hơn chỗ bạn đã từng đứng.

⒋ Bạn sẽ không bao giờ có được mọi thứ mình muốn

Bạn sẽ luôn muốn một thứ mình không có trong mọi giai đoạn của cuộc đời. Ngay cả khi bạn đã có cái mình muốn, bạn sẽ lại muốn có thêm cái khác. Quan trọng là bạn nên cảm thấy hài lòng với những gì mình có để bớt cảm thấy căng thẳng. Mỗi ngày chúng ta đều phải lựa chọn những việc nào nên làm và không nên làm. Hãy cân nhắc trước khi đưa ra lựa chọn để thời gian của bạn không lãng phí cho những việc không đáng.

⒌ Cái gì cũng có hai mặt

Đừng vội tin những câu chuyện chỉ được kể từ một phía. Đừng để những hình ảnh hào nhoáng trên mạng xã hội dắt mũi bạn. Hãy tìm hiểu mọi thứ thật kĩ càng trước khi đặt niềm tin.

⒍ Làm người tốt không bao giờ thiệt thòi

Có thể những người chọn cách sống lươn lẹo sẽ đạt được nhiều thành tựu nhanh chóng, nhưng những ai chọn làm người tốt mới có thể đi đường dài. Hãy là một người tốt cho dù bạn có bị cuộc đời đối xử tệ bạc đến đâu đi chăng nữa. Đơn giản là vì làm người tốt trước hết giúp bạn có giấc ngủ ngon vì không phải lo lắng bất kì chuyện xấu nào của mình chẳng may bị phát giác.

⒎ Chỉ có bạn mới khiến bản thân hạnh phúc

Nếu bạn trông chờ người khác đem đến hạnh phúc cho mình thì hãy yên tâm là bạn sẽ phải thất vọng dài dài. Hãy yêu thương cuộc đời và con người mà lòng không chờ đợi sự gì cả, như thế bạn sẽ luôn được thanh thản.

“Hãy sống sao không thẹn với lòng
Dẫu người cô phụ bước sang sông
Dù hoa kia chẳng vì ta nở
Chờ mong chi … suối chảy ngược dòng

Hãy sống cho tròn vẹn kiếp người
Vui buồn, thành bại … cũng qua thôi
Xuân xôn xao lá chờ Thu rụng
Sống để thương cùng, sống thảnh thơi …

Thơ Thích Tánh Tuệ

Pháp ngữ (50)

- Hòa Thượng Tuyên Hóa



Nổi nóng, bực dọc trong lòng mà không dám nói ra, là một biểu hiện của sự sân giận.

Mọi chuyện trên đời đều đã có đáp án, quan trọng là bạn phải kiên nhẫn

(Theo Đại Kỷ Nguyên)



“Bất luận bạn gặp ai, người đó đều là người cần xuất hiện trong cuộc đời của bạn, tuyệt đối chẳng phải ngẫu nhiên, người đó sẽ dạy cho bạn một thứ gì đó”. Tục ngữ Ấn Độ nói rằng:

- Bất luận bạn gặp ai, đó đều là gặp đúng người.

- Bất luận phát sinh vấn đề gì, nó đều là việc duy nhất phát sinh.

- Bất kể sự việc phát sinh lúc nào, đều là đúng thời khắc.

Mấy câu thành ngữ này khiến tôi liên tưởng tới điều Phật Thích Ca nói: “bất luận bạn gặp ai, người đó đều là người cần xuất hiện trong cuộc đời của bạn, tuyệt đối chẳng phải ngẫu nhiên, người đó sẽ dạy cho bạn một thứ gì đó”. Mỗi một vấn đề, một câu hỏi, cuộc sống luôn cho bạn đáp án, tuy nhiên, điều bạn cần là chờ đợi.

Chuyện kể rằng có một người lữ hành đi ngang qua bờ sông, gặp một người phụ nữ trung tuổi đang lo lắng vì không tìm được cách qua sông. Người lữ hành này dùng toàn bộ sức cùng, lực tận của mình giúp người phụ nữ đó qua sông, khi qua được sông, người phụ nữ này liền vội vàng bước đi mà không nói một lời nào.

Người lữ hành cảm thấy hối hận và cảm giác người phụ nữ này không đáng để mình giúp đỡ, bởi ngay cả một câu “cám ơn” bà ấy ấy cũng không biết. Ai ngờ, khoảng hơn một tiếng sau, có một chàng thanh niên trẻ đuổi theo người lữ hành và nói: “cám ơn anh đã giúp mẹ tôi qua sông, mẹ tôi kêu tôi mang cho anh thứ này”. Nói xong chàng thanh niên đưa cho người lữ hành một ít lương khô, và cả con ngựa mình đang cưỡi cũng tặng cho người lữ hành này luôn.

Mọi việc trên đời đều có đáp án, quan trọng, là bạn cần chờ đợi, chỉ cần bạn chờ đợi, nhẫn nại, tâm thái an hòa, tất cả mọi thứ bạn cần, đều sẽ có.

Đợi chờ cũng là cảnh giới của trí huệ, bởi tất cả những gì tốt đẹp và thú vị nhất của cuộc sống này đều được vun bồi từ sự chờ đợi mà ra. Và cuộc đời cũng lại như vậy, tất cả mọi việc ta gặp, đó đều là sự sắp đạt hoàn hảo nhất.

Núi có đỉnh, biển có bờ, chiều dài sinh mệnh cũng có ngày chuyển thế, khổ tận thì ắt có cam lai, mọi thứ đều là an bài, không gì bỏ sót. Ai đó đã từng nói: “cái khổ mà hôm nay ta chịu, trách nhiệm mà hôm nay ta phải gánh, nỗi đau mà hôm nay ta trải, sau cùng, tất cả sẽ biến thành ánh sáng, thành bình minh chiếu rọi bước chân ta”.

Trời không tuyệt đường của ai bao giờ. Cuộc đời chúng ta, đôi khi gặp phải khó khăn, gặp phải hoàn cảnh thật khó mà dung nhẫn, khó mà tha thứ. Nhưng sau khi sự việc qua đi, chúng ta đột nhiên nhận ra rằng, mọi sự trên đời đều là an bài tốt nhất. Vậy cần gì phải đau buồn, tự trách bản thân mỗi khi gặp nạn, bởi biết đâu đây lại chính là sự an bài hoàn hảo nhất.

Cổ nhân nói: “trong họa được phúc, mà trong phúc có họa” cũng chính là ý này. Khi chúng ta gặp khó khăn, gặp trở ngại, không cần phải bi thương, hãy học cách nhìn xa hơn, nhìn rộng hơn, và đặc biệt không nên oán trời, trách đất. Sau cơn mưa trời lại sáng, cầu vồng rực rỡ phía chân trời.

Cuộc sống muôn màu, cuộc đời muôn sắc, sướng khổ, buồn vui chính bởi tại tâm, hãy dùng tâm thái vui vẻ mà đối diện với mọi việc, trời cao không vô duyên vô cớ mà an bài bất cứ việc gì đó.

Cuộc sống, bất luận chúng ta gặp phải điều gì đó, thì đó cũng là điều ta phải gặp, là chuyện ta phải làm, ung dung tự tại, an lạc tự thân, hữu cầu mất công, vô cầu tự đắc.

Chưa

(Thích Tánh Tuệ)



Chưa đi thì chẳng có về
Chưa đến thì cũng chẳng hề ở đây
Chưa vui vì cuộc sum vầy
Thì đâu buồn ... sẽ một ngày chia xa

Chưa lại thì đâu có qua
Chưa bình minh ... chẳng bóng tà huy phai
Chưa thức, đâu biết đêm dài
Chưa chờ, đâu thấy tháng ngày lê thê

Chưa yêu, ai biết não nề
Lạy dài “ba chữ” ê chề nhân sinh
Chưa cô độc kiếp một mình
Thì đâu đoái những tâm tình tái tê

Chưa lạnh lẽo lúc Đông về
Nào thương ... cơ nhỡ bên hè phố đêm
Chưa một lần biết lặng im
Sao ta nghe được nhịp tim mọi người

Chưa hề khóc, chẳng biết cười
Chưa cho ... sao tận lòng ngời nỗi vui
Chưa nhìn xuống ... để ngậm ngùi
Thì chưa biết “Tạ ơn đời” một phen

Chưa tha thứ được nhỏ nhen
Làm răng ... xóa bỏ thói quen giận hờn
Chưa hay kiếp sống chập chờn
Nhọc nhằn thương, ghét, thua, hơn ... còn dài

Chưa lần đến trước Phật đài
Rầu rầu sáu nẻo gọi hoài ... chạy quanh
Chưa lặng thầm ngắm mộ xanh
Bôn ba, tất bật ... để thành hư vô

Và chưa biết tiếng “Nam Mô …”
Tình trần chưa cạn, chưa khô nặng nề
Chưa đi thì chẳng có về
Chưa sinh thì tử chẳng hề gọi tên

Sau mưa, trời vẫn nắng lên
Cửa Vô Sinh vẫn rộng thênh đợi người
Thiên thu có dáng Phật cười
Còn ta, thấp thoáng bên đời này thôi

99% thiện lương là diễn ra ở những nơi không nhìn thấy

(Sưu tầm)

Có họa sĩ từng vẽ bức tranh như thế này: người dưới giếng giơ tay lên xin được giúp đỡ, người trên giếng đưa tay xuống tương cứu, nhưng vẫn không thể với tới được. Trong khi đó, ngay bên cạnh anh ta là một cái thang đang nằm ngay ngắn trên mặt đất.

Có những lúc, người đưa tay ra giúp bạn lại không phải là bạn bè thật sự, trong khi người ngoảnh mặt với bạn, lại chính là tri kỷ tri âm.

Có một loại thiện lương gọi là “lặng lẽ”: không danh tính, không lời nói, cũng không bao giờ nguyện ý khoe khoang, không thấy rõ trước mắt, không sôi nổi ồn ào, cũng không miễn cưỡng bản thân. Trong sự điềm tĩnh thản nhiên kia mà thấu tỏ lòng người.

Cơn mưa cam lồ tưới mát cho cả người tốt lẫn kẻ xấu, ánh nắng mặt trời cũng sưởi ấm và soi sáng cho cả người tốt và kẻ xấu. Đối với mỗi chúng ta, ai ai cũng có quyền lựa chọn, có thể làm người cao thượng, cũng có thể làm kẻ đê hèn. Mỗi người chúng ta đều góp phần vào thời đại này, trải qua thời đại này, và để lại dấu ấn trong thời đại này. Mỗi một sự việc diễn ra trên thế giới, chúng ta không chỉ là khán thính giả, mà còn có thể góp phần vào trong đó nữa.

Thiện lương, dẫu phát sinh ở những nơi mà người khác không nhìn thấy, thì nói cho cùng vẫn chỉ là sự lựa chọn của nhân tính. Vậy nên, xin được gửi lời cảm ơn đến mọi sự thiện lương âm thầm lặng lẽ nơi thế gian này …



Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|44|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

Phải trải qua nhiều biến cố, để những biến cố bào mòn hết những gai góc trong lòng, người ta mới bắt đầu sống bình thản được.

Phải đi qua những con đường phố thị tấp nập, mới thấy lòng bình thản khi được ngồi nhìn con đường mòn nhỏ chạy quanh đồi, chỉ vài hôm vắng bước chân người qua, lũ cỏ dại đã tràn ra che kín lối.

Phải bao năm bôn ba giữa chốn phù hoa, mới thấy lòng bình thản khi được ngồi ăn một đĩa rau rừng.

Phải lắng nghe bao chuyện thị phi của cuộc đời, mới thấy lòng bình thản khi nghe tiếng con suối nhỏ trước nhà, nước đã về tràn bờ.

Phải đi qua những cơn mưa nơi đường trần, ướt áo, mới thấy lòng bình thản giữa một ngày mưa về mờ núi, đốt một thỏi trầm, đọc một trang Kinh.

Ta đã về đây, làm một ngôi nhà nhỏ cuối thôn, bên cạnh những dãy núi nghìn năm bình thản, giữa những mùa trăng, giữa những hoa dại.

Chọn cho mình hạnh phúc bé nhỏ, như một câu Kinh, vừa vặn trong lòng một bàn tay.



Christmas Eve

- Bess Streeter Aldrich

Christmas Eve was a night of song wrapped itself about you like a shawl. But it warmed more than your body. It warmed your heart … filled it, too, with melody that would last forever.

╰▶ Đêm Giáng Sinh là một đêm mà ca khúc chính nó cuộn lấy bạn, quấn lấy bạn như chiếc khăn choàng. Nhưng nó ấm hơn cơ thể bạn. Nó cũng sưởi ấm trái tim của bạn lấp đầy nó, với giai điệu sẽ kéo dài.



Những điều cấm kỵ khi ăn gừng

(Sưu tầm)



Người Việt Nam thường có thói quen sử dụng nhiều gia vị trong đó có gừng. Gừng không chỉ là gia vị được yêu thích mà còn là một vị thuốc trong Đông y. Gừng đem lại rất nhiều công dụng cho sức khỏe. Tuy nhiên, sử dụng gừng đúng cách không dễ và rất nhiều người đã mắc sai lầm khi sử dụng gừng trong ăn uống cũng như làm thuốc chữa bệnh.

Công dụng của gừng với sức khỏe

- Phòng và chữa ngộ độc thực phẩm. Gừng có tính sát trùng nên có thể sử dụng để phòng và chữa ngộ độc thực phẩm. Nên ướp gừng với thực phẩm, hoặc khi nấu thêm vài lát gừng vào những món ăn ưa gừng như thịt bò, hải sản … để hạn chế những nguy cơ nhiễm bệnh do thực phẩm đem lại. Nếu bị nhiễm trùng đường ruột và kiết lỵ do vi khuẩn, cũng có thể dùng gừng để điều trị.

- Khắc phục chứng rối loạn dạ dày. Gừng được sử dụng để điều trị các chứng rối loạn dạ dày rất hữu hiệu. Nếu bạn gặp các chứng như đau bụng, khó tiêu, tiêu chảy, đầy hơi … thì dùng gừng là cách khắc phục tốt nhất.

- Chống buồn nôn và nôn. Gừng có thể sử dụng trong các trường hợp say tàu xe gây buồn nôn và nôn hoặc khi phụ nữ mang thai gặp tình trạng nôn mửa dữ dội.

- Tốt cho tim mạch. Gừng giúp làm giảm cholesterol, ngăn ngừa chứng đông máu, nhờ thế có thể làm giảm nguy cơ tắc nghẽn mạch máu và giảm tỷ lệ đột quỵ do bệnh tim.

- Hỗ trợ điều trị bệnh đường hô hấp. Tinh dầu trong củ gừng có tác dụng tiêu đờm và giải quyết các vấn đề về đường hô hấp khác như lạnh, ho, cảm cúm, hen suyễn, khó thở … Bởi vậy sử dụng gừng để điều trị các bệnh về đường hô hấp rất hiệu quả.

- Giảm đau và chống viêm hiệu quả. Gừng có chứa chất men zingibain có tác dụng giảm đau tự nhiên, giảm các cơn đau cơ, viêm khớp, thấp khớp, đau đầu … Có thể dùng gừng xoa vào vùng bị đau giúp giảm đau đầu, đau cơ, căng cơ. Dùng gừng thường xuyên có thể làm giảm lượng prostaglandin, do đó làm giảm các cơn đau thường diễn ra trong cơ thể.

- Hỗ trợ điều trị liệt dương. Gừng có công dụng kích thích sinh dục nên rất hiệu quả trong việc hỗ trợ điều trị bệnh liệt dương, xuất tinh sớm và hiệu quả trong việc điều trị bệnh viêm tinh hoàn ở nam giới.

Những lưu ý khi ăn gừng

- Không gọt vỏ. Gừng chỉ giữ được đầy đủ dược tính khi có cả vỏ, vì thế nếu gọt vỏ gừng trước khi sử dụng sẽ khiến gia vị này không phát huy hết tác dụng. Bạn chỉ cần rửa sạch gừng là đã có thể sử dụng.

- Không ăn nhiều gừng. Gừng thuộc tính nhiệt ăn nhiều có thể gây khô miệng, khát nước, phát nhiệt trong người.

- Không dùng gừng cho người bị say nắng. Gừng tính nóng nên thích hợp dùng cho người cảm mạo, phong hàn, vị hàn phát nhiệt sau khi dầm mưa … Chống chỉ định dùng gừng cho người bị cảm mạo thử nhiệt hoặc cảm mạo phong nhiệt. Trong trường hợp đi nắng về bị say nắng, say nóng tuyệt đối không được dùng gừng.

- Không ăn gừng bị dập. Gừng tươi đã bị dập dễ sinh ra một loại chất độc cực mạnh, nó có thể làm biến tính, hoại tử tế bào gan, từ đó dẫn đến bệnh ung thư gan, ung thư thực quản.

- Sốt cao không được ăn gừng. Khi có dấu hiệu sốt cao tuyệt đối không ăn gừng vì gừng có tính nhiệt càng làm cho thân nhiệt của người bệnh cao lên gây tổn thương các mạch máu, thậm chí xuất huyết.

- Đau dạ dày, đại tràng không ăn gừng. Thành phần của gừng bao gồm các chất chủ yếu hoạt động trên niêm mạch dạ dày, ruột và đại tràng, vì thế có thể gây kích thích niêm mạc dạ dày, nếu dạ dày yếu có thể bào mòn và gây ra những vết loét. Vì thế người đau dạ dày, đại tràng nên tuyệt đối tránh xa thực phẩm này.

- Bệnh về gan không nên ăn gừng. Gừng có tác dụng kích thích sự bài tiết của các tế bào gan khiến cho những tế bào này bị hoại tử trong tình trạng được kích thích. Vì thế người bị bệnh viêm gan cấp và mãn tính, xơ gan không nên ăn gừng. Ngoài ra người bị bệnh sỏi mật cũng không nên ăn gừng vì gừng có thể khiến cho các viên sỏi kết tụ trong mật không bài tiết ra ngoài được.

- Người bị bệnh trĩ, xuất huyết không nên ăn gừng. Gừng rất nóng có thể làm vỡ các mạch máu bị yếu nên những người có tiền sử rối loạn chảy máu như chảy máu cam, chảy máu tử cung, bệnh trĩ, không nên ăn gừng để tránh tình trạng bệnh thêm nghiêm trọng.

- Phụ nữ có thai hạn chế ăn gừng. Dù gừng rất tốt để giải quyết các tình trạng thai nghén như buồn nôn và nôn, nhưng trong thời kỳ cuối của thai kỳ nên hạn chế ăn gừng vì gừng làm tăng huyết áp gây nguy hiểm cho thai phụ.

Đông Chí

(Sưu tầm)

冬至
年 年 至 日 長 為 客
忽 忽 窮 愁 泥 殺 人
江 上 形 容 吾 獨 老
天 邊 風 俗 自 相 親
杖 藜 雪 後 臨 丹 壑
鳴 玉 朝 來 散 紫 宸
心 折 此 時 無 一 寸
路 迷 何 處 見 三 秦

ĐÔNG CHÍ
Niên niên chí nhật trường vi khách
Hốt hốt cùng sầu nê sát nhân
Giang thượng hình dung ngô độc lão
Thiên biên phong tục tự tương thân
Trượng lê tuyết hậu lâm đơn hác
Minh ngọc triêu lai tán tử thần
Tâm chiết thử thì vô nhất thốn
Lộ mê hà xứ kiến Tam Tần

Dịch:
Năm lại năm ta còn đất khách
Bỗng năm nay buồn rách cả lòng
Là người già nhất trên sông
Xó trời phong tục cũng thông thạo rồi
Tuyết tan chống gậy chơi hang đỏ
Như xưa kia cung tía bước vào
Tâm tư tan nát còn đâu
Lạc đường không biết phương nào Trường An



Pháp ngữ (49)

- Hòa Thượng Tuyên Hóa



Muốn phát tâm bồ đề thì bạn phải nghe giảng Kinh cho nhiều, một khi hiểu Phật pháp thì tự nhiên bạn sẽ biết cách phát tâm bồ đề.

Sinh tử là hoa đốm giữa hư không

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương LXXVII, Thích Nhất Hạnh

Mùa an cư hoàn mãn, Bụt cùng Ananda đi hành hóa khắp nơi ở trong xứ Magadha. Những chốn non xanh nước biếc Bụt đều có tới, nhưng không có nơi nào Người không dừng lại để thăm viếng các trung tâm tu học để dạy dỗ và khích lệ các vị khất sĩ và nói pháp thoại cho giới cư sĩ.

Đại đức Ananda thường được Bụt chỉ cho thấy những cảnh tượng đẹp đẽ. Đại đức vốn ít để ý đến phong cảnh vì tâm trí mải lo cho Bụt, Bụt biết như thế nên thường nhắc thầy. Đại đức nhớ lại trong suốt gần hai mươi năm làm thị giả cho Bụt, Bụt đã chỉ cho thầy xem biết bao nhiêu là cảnh đẹp. Người hay nói: “nhìn đi, Ananda, núi Thứu đẹp biết bao, khả ái biết bao !”, “này Ananda, động Saptapanni đẹp quá !”, “này Ananda, Trúc Lâm tu viện dễ thương biết bao !”.

Có một lần đứng trên đồi, Bụt đã chỉ cho Ananda thấy những thửa ruộng chín vàng bao bọc những bờ cỏ xanh. Người khen cảnh ấy đẹp và bảo đại đức nên phỏng theo mô thức ấy để may áo phước điền sanghati cho các vị khất sĩ. Ananda qua đó thấy rõ rằng Bụt là người tu biết thưởng thức những gì hay và đẹp, nhưng không vướng mắc vào bất cứ một cái đẹp hay cái xấu nào.

Mùa mưa năm sau, Bụt về tu viện Jetavana an cư. Vua Pasenadi đi du hành mãi tới giữa mùa an cư mới về. Về tới kinh đô, biết Bụt hiện đang an cư, vua liền đến thăm Bụt. Vua nói với Bụt là vì tuổi đã lớn, vua không ưa ở hoài trong cung điện. Vua ưa đi đây đi đó để thấy được những cảnh đẹp của thiên nhiên. Giao công việc cho các quan đại thần, vua đi rong chơi, đem theo một đoàn tùy tùng nhỏ.

Không những vua đi du ngoạn ở những nơi trong nước, vua còn đi rong chơi ở các nước ngoài, không phải với tư cách một vị quốc vương cần phải được tiếp đón quốc lễ mà với tư cách một kẻ hành hương. Vua đi dạo chơi mà cũng như để thực tập thiền hành. Bỏ ra ngoài mọi ưu tư, vua bước từng bước thanh thản và chú ý đến cảnh vật. Vua nói những cuộc du ngoạn như vậy làm ấm lòng vua.

- Thế Tôn, trẫm năm nay đã bảy mươi tám tuổi. Thế Tôn cũng vậy. Trẫm nghe nói Thế Tôn gần đây cũng ưa đi du sơn ngoạn thủy. Trẫm cũng lớn tuổi như Thế Tôn nhưng trẫm không làm được lợi gì cho ai, còn Thế Tôn, thì đi đâu cũng dạy dỗ và hướng dẫn cho mọi người tu học. Thế Tôn đến đâu là như mặt trời chiếu sáng đến đó.

Rồi vua tâm sự với Bụt về một nỗi đau thầm kín của vua. Số là trong một cuộc âm mưu đảo chánh xảy ra tại kinh đô bảy năm về trước, vua đã kết tội lầm vị tổng tư lệnh quân đội hoàng gia là tướng Bandhula và đã xử tử ông. Mấy năm sau vua mới biết là mình lầm. Vua hối hận lắm. Vua đã tìm mọi cách để phục hồi danh dự cho tướng Bandhula và đã bồi thường cho gia đình ông, vua cũng đã cất nhắc cháu của ông là tướng Karayana lên chức tổng tư lệnh quân đội hoàng gia.

Có Bụt an cư tại thủ đô, vua đến tu viện Jetavana hầu như mỗi ngày để hoặc nghe thuyết pháp, hoặc tham dự vào những cuộc pháp đàm, hoặc được ngồi im lặng với Bụt. Mãn mùa an cư, Bụt lại lên đường du hóa và vua cũng cùng đoàn tùy tùng của vua đi rong chơi khắp chốn, gọi là đi tuần thú. Năm sau, cuối mùa an cư, Bụt đi lên xứ Kuru. Sau khi ở đó hai tháng, Bụt lại theo bờ sông đi xuống Kosali, về Banarasi, ghé Vesali, rồi lại đi lên miền Bắc. Một hôm nọ, đang cư trú hành đạo tại quận lỵ Medalumpa, một quận lỵ nhỏ trong vương quốc Sakya quê hương của mình, Bụt tình cờ gặp vua Pasenadi. Lần này vua đi du hành có đem theo thái tử Vedudabha và tướng Karayana. Vua muốn làm vui lòng vị cận thần mà ngày xưa vì lỗi lầm vua đã kết tội một cách oan uổng người bác của ông ta.

Đang đi du sơn ngoạn thủy vua chợt nhớ Bụt, và hỏi thăm không biết Bụt hiện giờ ở đâu. Người ta cho vua biết là Bụt dang hành đạo ở quận Medalumpa, Medalumpa chỉ cách Nagaraka nơi vua đang du ngoạn chỉ chừng nửa ngày đường. Mừng quá, vua bảo Karayana thắng xe đưa vua tới thăm Bụt. Đoàn tùy tùng của vua chỉ đem theo có bốn chiếc xe. Tới Medalumpa, vua hỏi thăm, và biết được Bụt đang cư trú trong công viên quận lỵ. Xa giá của vua đậu lại ngoài cổng. Để đoàn tùy tùng ở lại bên ngoài, vua bảo tướng Karayana cùng đi với vua vào công viên. Thấy bóng các vị khất sĩ áo vàng qua lại, vua tìm tới một vị gần nhất và hỏi thăm Bụt ở đâu, vị khất sĩ chỉ cho vua một ngôi nhà ẩn dưới bóng cây bóng lá và nói:

- Tâu hoàng thượng, Bụt đang ở trong ngôi nhà đó, cửa đóng, hoàng thượng cứ thong thả đi tới đấy, rồi hoàng thượng ho lên một tiếng, và gõ hai tiếng, thế nào đức Thế Tôn cũng mở cửa rước hoàng thượng vào.

Vua cởi thanh gươm và tháo vương miện xuống trao cho vị tướng lãnh, bảo ông ta trở lại với đoàn tùy tùng để đợi mình. Rồi vua một mình tiến về ngôi nhà nơi Bụt ở. Tới trước cửa, vua đằng hắng và ho lên một tiếng. Chưa kịp gõ cửa thì cửa đã mở. Bụt mừng rỡ khi thấy vua. Người cầm tay dắt vua vào trong nhà. Hai đại đức Ananda và Sariputta hiện có mặt để hầu chuyện với Bụt trong tịnh thất cũng đứng dậy chào vua.

Bụt mời vua ngồi trên một chiếc ghế, rồi tự mình ngồi xuống trên chiếc ghế đối diện. Hai vị đại đức đứng hầu sau lưng Bụt. Vừa ngồi xuống vua đã đứng dậy. Vua lạy xuống dưới đất và ôm hôn hai bàn chân của Bụt. Vua quỳ trong tư thế ấy thật lâu, hai tay vuốt ve bàn chân của Bụt, miệng nói:

- Thế Tôn, trẫm là Pasenadi vua nước Kosala, trẫm xin kính làm lễ Thế Tôn. Trẫm là Pasenadi vua nước Kosala, trẫm kính xin làm lễ Thế Tôn.

Bụt đỡ vua dậy. Người mời vua ngồi lại một lần nữa xuống ghế, rồi người nói:

- Đại vương, sao hôm nay đại vương lại lễ lạy cung kính quá đáng như thế ? Chúng ta không phải là một đôi bạn thân thiết hay sao ?

Vua nói:

- Thế Tôn, con có một vài điều mà con muốn tự miệng con nói ra để Thế Tôn nghe, con sợ không có dịp.

Bụt dịu dàng:

- Điều gì, xin đại vương cứ nói.

- Thế Tôn, con hoàn toàn tin tưởng nơi Thế Tôn, bậc toàn giác, con hoàn toàn tin tưởng nơi giáo pháp của Bụt và nơi giáo đoàn khất sĩ của Người. Con đã từng thấy và gặp những tu sĩ Bà-la-môn và các đạo sĩ các giáo phái: họ có thể tu hành đứng đắn, có khi được mười, hai mươi, ba mươi hay bốn mươi năm, nhưng sau đó con lại thấy họ bỏ cuộc và đi vào nếp sống ngũ dục. Ở trong đạo pháp của Thế Tôn, con thấy các vị khất sĩ hầu hết đều tu phạm hạnh cho đến trọn đời.

Thế Tôn, con từng thấy vua chống đối vua chúa, tướng sĩ âm mưu chống tướng sĩ, Bà-la-môn chống Bà-la-môn, vợ cãi cọ với chồng, con cãi cọ với cha, anh cãi cọ với em, bè bạn cãi cọ với bè bạn. Ở đây con thấy các vị khất sĩ sống trong hòa kính, an vui, hợp nhau như nước với sữa. Con không thấy ở đâu có được cái thương yêu và hòa điệu như trong giáo đoàn của Người.

Thế Tôn, khắp nơi con đã từng thấy giới đạo sĩ dáng điệu khắc khổ, mặt mày ủ rũ, âu sầu và lo lắng, nhưng ở đây, các vị khất sĩ luôn luôn tỉnh táo, tươi cười, vui vẻ, thong dong và tươi mát. Thế Tôn, điều đó khiến con càng tin tưởng nơi Thế Tôn và giáo pháp của Người. Thế Tôn, con là vua thuộc dòng dõi chiến sĩ: con có quyền ra lệnh chém đầu hoặc giam cầm hoặc trừng phạt bất cứ ai nếu con muốn, vậy mà khi con ngồi trong một buổi họp, thiên hạ vẫn dám cướp lời con, dù con có nói: “quý vị không được cướp lời trẫm”, họ cũng vẫn quên và cướp lời con như thường, không đợi đến khi con phát biểu hết ý kiến. Vậy mà con thấy ở đây, trong giáo đoàn Người, có khi có cả ngàn vị khất sĩ ngồi nghe Bụt nói mà con không nghe lấy một tiếng động nhỏ, dù là tiếng đằng hắng hay tiếng sột soạt của y áo, đừng nói có ai dám cướp lời Bụt.

Thế Tôn, con nghĩ: thật là mầu nhiệm, Bụt chẳng cần quyền uy, chẳng cần gươm giáo, chẳng cần trừng phạt gì mà người ta kính yêu Bụt một cách tuyệt đối. Thế Tôn, điều này cũng làm cho con càng tin tưởng ở Thế Tôn và giáo pháp của người. Thế Tôn, con đã từng thấy và nghe giới trí thức và giới học giả lừng danh bàn bạc với nhau để soạn sẵn những câu hỏi bí hiểm có thể làm cho Bụt lúng túng, nhưng khi đến gặp Thế Tôn và nghe Thế Tôn thuyết pháp, họ cứ há miệng ra nghe để rồi tất cả đều bị Thế Tôn chinh phục, đến nỗi không có cơ hội và thì giờ để hỏi những câu hỏi hóc búa của họ, những câu hỏi mà sau cuộc gặp gỡ với Thế Tôn họ thấy là ngây thơ. Thế Tôn, điều này cũng là điều làm cho con có thêm tin tưởng nơi Thế Tôn và giáo pháp của Người.

Thế Tôn, con nhớ là con từng có hai thợ mộc rất khéo tay tên là Isidata và Purana, họ thường làm việc trong cung điện, và con là người cung cấp lương bổng cho họ, thế mà họ đâu có thương kính con bằng thương kính Thế Tôn. Có lần con đem họ đi theo trong một chuyến hành tẩu phương xa, và đêm đó vì mưa gió mà cả vua cả tôi đều phải ngủ trong một chiếc lều tranh nhỏ bé. Gần suốt đêm, hai người thợ mộc của con ngồi trao đổi với nhau về giáo pháp học được của Thế Tôn và khi họ mỏi mệt, họ nằm xuống ngủ, đầu hướng về phía núi Linh Thứu và chân họ lại xoay về phía con. Thế Tôn có cho họ lương bổng gì đâu, thế mà họ quý kính Thế Tôn hơn con nhiều lắm lắm. Thế Tôn, điều này khiến con lại càng tin tưởng nơi Thế Tôn và giáo pháp của Người.

Thế Tôn ! Người thuộc về giai cấp vua chúa, con cũng thuộc về giai cấp vua chúa. Người năm nay đã bảy mươi chín, con năm nay cũng đã bảy mươi chín, vì vậy con nghĩ đây là cơ hội quý báu để con tỏ lòng quy kính Bụt hết mức và để con bày tỏ niềm tri kỷ giữa con và Bụt, bây giờ con xin từ tạ Bụt để con đi.

Bụt nói:

- Đại vương, đại vương hãy trân trọng giữ gìn sức khỏe.

Và Bụt đứng dậy đưa tiễn vua ra cửa. Lúc Bụt trở vào, hai đại đức Ananda và Sariputta đứng dậy chắp tay im lặng. Hai đại đức đã chứng kiến từ đầu đến cuối buổi gặp gỡ này giữa Bụt và vua, Bụt nói:

- Sariputta và Ananda ! Quốc vương Pasenadi đã nói những lời chân thành nhất của quốc vương đối với Tam Bảo. Các thầy nên ghi nhớ lấy để làm vững mạnh thêm đức tin của những người hậu học.

Tháng sau, Bụt lên đường về miền Nam. Đi chừng nửa tháng, Người về đến núi Linh Thứu, về tới núi Linh Thứu, Bụt nhận được hai tin buồn cùng một lúc: vua Pasenadi đã băng và đại đức Moggallana đã bị những người thuộc giáo phái lõa hình ám sát ngay tại cổng tu viện Trúc Lâm.

Quốc vương Pasenadi đã băng, không ở thủ đô Savatthi mà ở Rajagaha, trong một tình trạng không được xứng đáng lắm đối với một người như vua. Theo tin tức nhận được thì sau cuộc viếng thăm Bụt ở quận lỵ Medalumpa, vua đã trở ra với đoàn tùy tùng, nhưng khi ra tới cổng vua chỉ còn thấy có một chiếc xe và một người cung phi ở lại. Hỏi ra thì ba chiếc xe kia đã trở về Savatthi dưới sự cưỡng ép của tướng Karayana, đem theo vương miện, ấn tín và thanh gươm báu của vua. Karayana bảo thái tử Vidudabha phải trở về ngay Savatthi để lên ngôi vua, đừng để một người quá già yếu ngồi trên ngai mãi mãi. Thái tử dùng dằng chưa chịu thì Karayana dọa rằng nếu thái tử không chịu về làm vua, ông ta sẽ về kinh tuyên bố đảo chánh và tự xưng vương. Dưới áp lực ấy, thái tử Vidudabha đã phải vâng lệnh.

Vua quyết định đi về thành Rajagaha để cầu viện với cháu là quốc vương Ajatasattu. Suốt quãng đường dài, vua chỉ uống nước mà không ăn gì được. Về tới Rajagaha thì trời đã khuya và cửa thành đã đóng, vua phải vào nghỉ đêm trong một trạm nghỉ công cộng. Đêm ấy vua lên cơn bạo bệnh và chết trong tay vị cung phi. Người cung phi này than khóc như mưa như gió cho số phận của vị hoàng đế. Sáng ngày, sau khi hay tin, vua Ajatasattu vội vã cho rước long thể vào cung và ra lệnh tổ chức một lễ quốc táng long trọng cho người bác của mình. Tang lễ hoàn mãn, vua định cử binh trị tội quốc vương Vidudabha, nhưng vua đã bị y sĩ Jivaka can gián. Jivaka nói rằng dù sao quốc vương Pasenadi cũng đã băng hà và vua mới bên nước Kosala cũng là anh em cô cậu của vua, có cử binh chinh phạt cũng không đưa đến được một giải pháp nào khác. Nghe lời Jivaka, vua đã cử sứ thần qua Savatthi để thừa nhận quốc vương mới.

Đại đức Moggallana là vị đại đệ tử thứ ba của Bụt đứng sau Kondanna và Sariputta. Đệ tử lớn của Bụt có nhiều nhưng nhiều vị đã tịch trước Bụt. Đại đức Kondanna, thủ lĩnh của năm vị khất sĩ đầu tiên được nghe Bụt thuyết pháp tại vườn Lộc Uyển đã tịch. Đại đức Uruvela Kassapa và hai người em cũng đã tịch. Ni trưởng Mahapajapati cũng đã viên tịch từ lâu. Ni sư Yasodhara và đại đức Rahula cũng đã nối tiếp nhau viên tịch. Đại đức Rahula viên tịch năm đại đức được năm mươi mốt tuổi. Đại đức Moggallana là một vị đại khất sĩ có rất nhiều dũng khí. Người là kẻ phát ngôn bạo dạn và cương trực nhất của giáo đoàn khất sĩ. Khi cần phải tuyên bố lập trường của giáo đoàn hoặc của giáo pháp, đại đức bao giờ cũng nói thẳng, không khi nào chấp nhận sự thỏa hợp. Cũng vì lý do này mà trong giới ngoại đạo có nhiều kẻ thù ghét đại đức.

Hôm ấy đại đức cùng ra đi với hai vị đệ tử, lên đường rất sớm. Bọn sát nhân có dự tính trước cho nên đã mai phục bên ngoài tu viện. Họ xông ra tấn công khi thấy đại đức. Họ tấn công bằng gậy gộc. Ba thầy trò tay không, không thể nào chống lại được họ, vì họ quá đông, và cũng vì họ có khí giới trong tay. Hai vị đệ tử bị đánh văng ra ngoài. Họ la lên kêu cứu, nhưng không kịp nữa, đại đức đã bị bọn bất lương hạ sát, đại đức hét lên một tiếng vang động cả rừng cây trước khi bị bọn chúng đập xuống những hèo cuối cùng. Khi các thầy trong tu viện chạy ra thì bọn sát nhân đã tẩu thoát hết. Hai vị đệ tử bị đả thương khá nặng.

Khi Bụt về tới thì nhục thân của đại đức đã được trà tỳ. Tro xương của đại đức đã được thu góp trong một chiếc bình và đặt sẵn bên ngoài tịnh xá của Bụt. Bụt hỏi thăm đại đức Sariputta, các thầy cho biết là đại đức Sariputta đã đóng cửa am thất từ ngày đại đức Moggallana bị ám sát. Ai cũng biết hai vị đại đức này thân với nhau còn hơn anh em ruột, đối với nhau luôn luôn như hình với bóng, Bụt chưa kịp nghỉ ngơi đã phải đi tìm đến am thất của Sariputta để an ủi đại đức. Đại đức Ananda đi theo Người, đại đức nghĩ chắc thế nào Bụt cũng đang buồn. Không buồn sao được khi mất một lần hai vị đệ tử lớn: vua Pasenadi và đại đức Moggallana. Bụt đi an ủi đại đức Sariputta, nhưng ai sẽ an ủi Bụt ? Như để trả lời câu hỏi thầm kín của đại đức Ananda, Bụt quay lại nhìn thầy rồi lên tiếng:

- Ananda, ai cũng nói thầy học nhiều và ghi nhớ nhiều về chánh pháp. Thầy không nên lấy sự học nhiều và nhớ nhiều làm đủ. Chăm sóc cho Như Lai và lo lắng cho giáo đoàn, điều đó tuy cần thiết nhưng cũng không đủ, thì giờ còn lại có là bao lăm, thầy phải nỗ lực để vượt thoát sinh tử. Thầy phải bình thản trước sinh tử, thấy sinh tử như những hoa đốm giữa hư không.

Đại đức Ananda cúi đầu, đi im lặng. Ngày hôm sau, Bụt xuống núi, đến tu viện Trúc Lâm. Người đề nghị vị trí để xây tháp kỷ niệm đại đức Moggallana và để an trí xá lợi của đại đức này.

Việc nhỏ - Tâm lớn

(Sưu tầm)

Ước gì trái tim của chúng mình thuần khiết như đứa trẻ thơ !
(If our hearts were as pure as the hearts of children ❤)

… sống có tấm lòng không nhất thiết phải làm những việc to tát. Nhiều người, làm những việc rất lớn nhưng với cái tâm rất nhỏ. Và có người làm những việc rất nhỏ mà với tâm rất lớn, tràn trề, chan chứa yêu thương.

“Cứ sống và thương trọn một một ngày
Ánh nhìn độ lượng khắp quanh đây
Những điều to tát chưa ... mần được
Việc nhỏ, hết lòng cũng quý thay …”
- Thơ Thích Tánh Tuệ

Keep smiling

- Marilyn Monroe

Keep smiling, because life is a beautiful thing and there’s so much to smile about.

╰▶ Hãy mỉm cười, bởi cuộc đời vốn đã là một điều đẹp đẽ và ở đó có thật nhiều thật nhiều những cái để vui.



Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|43|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

“Một người khi cột đời mình vào những điều phù hoa hư ảo, bao nhiêu bất an âu lo bắt đầu tràn về như lũ. Một ngày quá mệt mỏi, kẻ đó bỏ đi, rồi lại quay về nơi đã làm họ tổn thương, tiếp tục tìm kiếm cất giữ, như một kẻ mộng du không giữ nổi đôi chân mình …”

Có lẽ, ai cũng từng mang cả tuổi trẻ của mình để theo đuổi điều gì đó, để thương một điều gì đó, rồi có khi phải mất nửa đời còn lại để lãng quên, bình yên.

Có lẽ, ai cũng từng quay trở lại nơi đã từng làm mình tổn thương, có người quay lại để tiếp tục giành giật cất giữ, có người quay lại chỉ để lấy lại trái tim của mình mà ngày xưa đã lỡ đặt vào đó, rồi bình thản quay đi …

Đường trần tấp nập, cuối cùng cũng chỉ là những đôi chân xuôi ngược đi tìm một nơi để gởi trái tim của mình chứa trong đó giấc mơ bình yên, và những đôi chân tìm về lại nơi đã gởi nhầm trái tim để lấy lại, cả đời ngược xuôi đường trần.

Có người gởi trái tim vào nơi hư ảo để tìm bình yên chân thật.

Có người gởi trái tim vào nơi bão giông để tìm một hơi thở bình yên.

Có người gởi trái tim vào chốn phù phiếm mong manh để chờ một ngày bình yên bền vững.

Có người lại tự cầm lấy trái tim trong bàn tay từ bi của mình mà đi qua thế gian.

Hãy cẩn thận với một nơi mà chúng ta chọn lựa để đặt trái tim mình vào đó …



D.P.A (58)

(Phan Duy Nhân)

Điều chí thiện, long lanh cùng cái đẹp
Mỗi ngày đời lắng đọng cả trăm năm



Thân phận con người, hơn kém nhau chỉ bởi cái tâm

(Sưu tầm)



Có ba người công nhân đang xây một bức tường, một người đi ngang qua hỏi: “các anh đang làm gì vậy ?”.

- Người thứ nhất trả lời: “anh không nhìn thấy sao, xây tường chứ làm gì nữa !”

- Người thứ hai trả lời: “chúng tôi đang xây dựng một cao ốc”.

- Người thứ ba trả lời: “chúng tôi đang xây dựng một thành phố mới”.

Kết quả mười năm sau: người thứ nhất đang xây dựng một bức tường khác ở một công trình mới, người thứ hai làm kỹ sư xây dựng đang ngồi ở văn phòng thiết kế công trình, người thứ ba chính là ông chủ của hai người kia.

SUY GẪM:

Đều là ba người làm chung một công việc, nhưng tâm thái khác nhau sẽ quyết định vị trí của mình khác nhau. Người mà không ngừng chiến thắng chính bản thân mình thì sẽ không ngừng vươn lên. Duy trì tâm thái lạc quan sẽ quyết định được chất lượng cuộc sống tương lai của bạn. Người càng lạc quan thì thân thể càng khỏe mạnh, tinh thần càng sảng khoái, chất lượng cuộc sống cũng nhờ vậy mà càng nâng cao.

Cũng là một con đường nhưng xe đạp, xe gắn máy, xe hơi đều có tốc độ khác nhau … Cuộc đời tu hành và phụng sự của một hành giả Phật giáo cũng vậy, tu với cái tâm nào, làm việc với cái tâm nào, thì quả vị và thành tựu tương xứng với cái tâm đó.

Mỗi người chúng ta trong mỗi ngày đều có 24 tiếng như nhau, nhưng người thành công là người an bài tốt thời gian mình cần, người thất bại là những người luôn miệng kêu “không có thời gian”. Thế giới này luôn công bằng, thành hay bại do chính mình lựa chọn.

Đời người, có được ắt có mất, hà cớ chi so bì ?

(Theo Phật Đệ Tử Văn Khố|Thuận An dịch)

Mọi chuyện trên đời luôn tuân theo quy luật “có được ắt có mất”. Tình yêu có thể mang lại niềm vui, nhưng cũng mang đến không ít đau khổ. Tiền tài có thể mang lại giàu sang, nhưng cũng kèm theo không ít phiền não. Thành công có thể khiến bạn vui vẻ, nhưng đến khi thất bại nỗi thống khổ lại càng mạnh mẽ hơn.

Nếu đạt được mục đích mà bạn vẫn hằng mong đợi, đó thật là niềm vui. Tuy nhiên, khi mất đi, bạn cũng sẽ cảm thấy bi thương ngang bằng như vậy. Khi bạn nhận được, đó là tám phần hạnh phúc, còn khi mất đi, cũng là tám phần đau khổ. Có người vì làm giàu mà phải đánh đổi sức khỏe, gia đình hay tình cảm.

Có người trong sự nghiệp và thành tựu mất đi ba phần, nhưng chất lượng cuộc sống, sức khỏe hoặc thời gian lại nhiều hơn ba phần. Có những thứ nhìn vào thì thấy như bất công, nhưng nếu nghĩ kỹ một chút, bạn sẽ cảm thấy mọi thứ thật ra đều công bằng.

Có người nghĩ rằng người giàu thường sẽ hạnh phúc hơn, đây thật là nhận thức sai lầm. Một người nghèo chỉ cần có vài trăm đồng liền thấy vui, nhưng người giàu phải bỏ ra hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu mới có được niềm vui như vậy.

Tiền của càng tăng lên, thì giá trị đồng tiền lại càng giảm xuống. Khẩu vị càng nặng thì khả năng cảm nhận hương vị lại càng kém đi. Khi bụng rất đói, một chiếc bánh bao bỗng trở nên thơm ngon hấp dẫn. Nhưng khi đã thưởng thức năm sáu chiếc bánh rồi, cảm nhận lúc này không còn như ban đầu.

Chuyện đời là vậy: có quá nhiều tiền thì sợ bị cướp giật, nhà quá lớn lại sợ phải quét dọn, ăn quá nhiều lại sợ sẽ phát phì .v.v.v. Bạn có biết, tỷ phú đại gia nay ăn gì ? Họ đều đang ăn trái cây, rau củ, ngô khoai, và ngũ cốc, lại uống nước rau má, bí đao, lúa mạch, hết thảy đều từng là thức ăn của hộ nghèo. Điều này khiến tôi nhớ đến câu chuyện cổ …

Một con cáo nhìn thấy giàn nho bên trong bức tường rào, những chùm chín mọng lúc lỉu trên cây khiến con cáo thèm nhỏ dãi muốn ăn. Nó đi vòng quanh vòng quanh, cố tìm kiếm một lối vào, cuối cùng nó thấy một kẽ hở, nhưng kẽ hở quá nhỏ nên nó không cách nào chui lọt được. Thế là, nó chờ ở bên ngoài tường rào, nhịn đói suốt sáu ngày, đến lúc thân mình nó gầy khô lại, nó mới chui vào được hàng rào. Tuy nhiên, sau bữa đánh chén no nê nó phát hiện cái bụng no căng kia khiến nó không cách nào chui ra ngoài được nữa. Vì vậy, nó lại nhịn ăn sáu ngày, khiến thân thể gầy khô lần nữa, nó mới có thể chui ra qua kẽ hở nhỏ ban đầu.

Vì vậy, có được thì phải mất, khi mất thì sẽ được, tổng số luôn là như nhau, chẳng phải vậy sao ? Điểm kết thúc lại quay trở về điểm bắt đầu, điểm bắt đầu nguyên vốn đã là điểm kết thúc. Cho dù có trong tay cả thế giới, chúng ta cũng chỉ có thể ngày ăn ba bữa, đêm ngủ một chiếc giường. Thậm chí có hàng trăm biệt thự, thì vẫn chỉ cần đến một mà thôi. Ngay cả khi bạn có một nghìn đôi giày, cuối cùng vẫn chỉ có thể diện một đôi. Đứng trước bữa tiệc thịnh soạn trăm nghìn món, thì cũng chỉ có thể ăn đủ một khẩu phần. Người ta đến thế gian này là để trải nghiệm, tài sản địa vị của mỗi một người dẫu cao hay thấp, nhưng cảm nhận về niềm vui và hạnh phúc lại không phân biệt cao thấp sang hèn. Chỉ là, niềm vui của những người giàu khá phức tạp, còn niềm vui của người nghèo thì đơn giản hơn, sự khác biệt chỉ ở một điểm này.

Khi bạn vui vẻ, phiền muộn cũng liền kề bên cạnh, và khi bạn đau buồn, đi kèm cũng chính là niềm vui. Cuối cùng, bạn sẽ nhận thấy rằng mọi sự phối hợp rất nhịp nhàng. Mỗi một lần đau khổ và hạnh phúc, mọi thứ bạn có được và mất đi, cái tốt và cái xấu, đến cuối cùng, tất cả là như nhau.

Có người đạt được sớm một chút, có người thì đạt được muộn một chút, nhưng tổng số mất và được sẽ là như nhau. Bạn được bao nhiêu niềm vui, khi mất đi thì sẽ có bấy nhiêu nỗi buồn. Đến khi rời bỏ thế gian này, mỗi một sự việc đều sẽ trở thành hư không cả. Cái chết sẽ làm cho mọi thứ đều trở nên công bằng. Đến lúc nhắm mắt xuôi tay, sẽ không phân biệt người sang kẻ hèn, không phải người giàu sẽ chết dễ chịu hơn, và người nghèo thì đau đớn hơn. Cái chết sẽ tiết lộ tất cả. Có người được mười phần, đến lúc anh ta rời đi thì sẽ phải mất đi mười phần. Có người được ba, lại có người được bảy. Người có được ba, chỉ cần ba phần hạnh phúc, nhưng có được bảy phần niềm vui. Người có được bảy, là bảy phần hạnh phúc, nhưng lại chỉ có được ba phần niềm vui.

Người có được trước thì phải mất trước, người có được sau thì sẽ mất sau. Vì vậy, đời người vốn dĩ không cần phải quá so đo, không phải quá tính toán, chỉ cần tự mình trải nghiệm là được rồi.

Pháp ngữ (48)

- Hòa Thượng Tuyên Hóa



Nếu như bạn chẳng chịu tu hành thì dù Đức Thích Ca Mâu Ni Phật có làm sư phụ của bạn thì cũng chẳng có ích lợi gì.

Hoa và Rác

- Thơ Diệu Linh
- Nhạc: Miên Du Đà Lạt



Ta thấy, ta thấy trong hoa có rác
Ta thấy, ta thấy trong rác có hoa
Ta thấy, ta thấy trong ta vẫn còn ngụp lặn trong biển mê

Ngày trôi qua mong manh
Vòng nhân duyên bất tận
Ta thấy đời lẩn quẩn
Ra vào cửa tử sanh

Ngày trôi qua mong manh
Hoa tàn lại thành rác
Ta rời xa bến Giác
Ta ngụp lặn biển mê

Ta thấy, ta thấy trong hoa có rác
Ta thấy, ta thấy trong rác có hoa
Ta thấy … ta thấy rác - hoa - người và ta là một

Ngày trôi qua mong manh
Ta quay về chánh niệm
Bây giờ không tìm kiếm
Không thấy người, thấy ta
Không thấy rác, thấy hoa

Ngày mai xa vời vợi
Ngày hôm qua xa rồi
Hiện tại - TỈNH THỨC thôi !

Vua Lê Hiến Tông và bát canh của người thầy

(Sưu tầm)

Lê Hiến Tông (1461 – 1504) là một vị vua thông minh, nhân từ và ôn hoà. Dưới thời của ông, đất nước vẫn duy trì được sự thái bình, thịnh trị có từ thời vua cha Lê Thánh Tông. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí đã ghi lại một câu chuyện cảm động về đạo thầy trò trong một lần vua Lê Hiến Tông về thăm thầy cũ. Nội dung câu chuyện như sau:

Xa giá về đến cổng làng Châu Khê, nhà vua ra lệnh dừng kiệu và bước xuống đầu đường rẽ vào nhà thầy, vua chọn hai ba cận thần cùng một vị quan sở tại tháp tùng vua vào nhà thầy giáo. Vua ôn tồn nói với mọi người đi theo:

- Hôm nay trẫm về đây là để thăm thầy chứ không phải vi hành, công cán, vì vậy cho phép các khanh về nghỉ ở công quán.

Mọi người bái tạ nhà vua rồi đi vào các quán dịch. Ở đó, các quan địa phương chuẩn bị chu đáo, có chăng đèn, kết hoa, có bàn trà nước. Nhà vua đi bộ cùng viên quan trấn và mấy quan hầu cận tiến vào nhà thầy. Không trống phách, không nhạc nhã, không có tiếng hô dẹp đường. Cụ Thượng Thư già cùng các con cháu và giai nhân mũ áo chỉnh tề ra tận đầu thôn bày hương án nghênh tiếp nhà vua. Thấy thầy giáo, vua vội vàng đến gần cụ. Theo nghĩa vua tôi, cụ sụp lạy. Nhà vua hai tay nâng vai thầy lên, ôn tồn:

- Xin lão tiên sinh bình thân để cho đệ tử không bị thất lễ.

Vua nói với những người đang quỳ rạp hai bên đường:

- Cho tất cả các người đứng dậy cùng trẫm về nhà tôn sư.

Vua nhắc lại lời nói với các quân sĩ và với người thân của thầy giáo:

- Hôm nay trẫm đến đây là học trò về thăm thầy, chứ không phải thiên tử đi kinh lý, nghi lễ ở chốn triều đình dùng vào lúc khác.

Ngôi nhà thầy Nguyễn Bảo giản dị, cổ kính và gọn gàng, đúng với phong thái của chủ nhân – một bần nho trong sáng. Vua mời cụ ngồi lên sạp giữa để mình đứng vấn an thầy. Cụ giật mình:

- Tâu bệ hạ, đâu lại có thể như thế được. Đạo thầy là nặng, song phép nước cao hơn, xin hoàng thượng cho lão phu này được đứng hầu. Người ngoài trông vào sao tiện ạ.

Nhà vua nhẹ nhàng:

- Thưa tôn sư, họ đã biết mục đích của trẫm hôm nay rồi. Tôn sư cho phép đệ tử ngồi chung là đã quá lắm rồi.

Nói xong, nhà vua đỡ cụ xuống cùng ngồi đàm đạo. Vua hỏi thăm sức khoẻ và đời sống của thầy cùng gia đình, xin xem những bài thơ của thầy làm khi nhàn rỗi ở chốn thôn dã. Khi người nhà của cụ giáo dâng trầu nước chỉ đứng ở sân dưới thềm, chuyển qua các thị vệ dâng lên cụ giáo và nhà vua. Vua Hiến Tông lại khoát tay:

- Thôi để họ mang thẳng lên đây, chắc họ cũng muốn gần vua một chút. u cũng là cái lộc của lão tiên sinh đây.

Thưởng thức chén trà ngát hương sen đồng nội, nhà vua nói với các quan theo hầu:

- Trẫm cho các ngươi lui. Chiều nay trẫm không dùng “ngự thiện”, trẫm xin với lão tiên sinh cùng gia đình ăn bữa cơm quê. Trẫm muốn được ngồi chung mâm với thầy cũ cho thoả tình thầy trò, chắc lão tiên sinh cho phép.

Cụ giáo nghẹn ngào:

- Xin bái tạ đức vua. Thánh chỉ đã truyền, thần xin vâng mệnh.

Bữa cơm thầy trò chiều hôm đó diễn ra thân mật. Các con cụ đứng hầu từ xa ngắm thầy trò nhà vua đối ẩm với thứ rượu nếp quý quê nhà hương thơm sực nức, nghe thầy trò nhà vua vừa ăn vừa ngâm nga thơ phú. Cụ Châu Khê có lẽ còn vui hơn cả nhà vua, bởi lẽ là ông có học trò ở ngôi tôn quý nhất nước vẫn mực thước thủy chung giữ đạo nghĩa thầy trò. Ông càng hài lòng vì học trò cũ của ông dẫu ngồi trên ngai vàng vẫn không quên gốc. Nhà vua đặc biệt thưởng thức món canh cua quê kiểng, bất giác nói với cụ Châu Khê:

- Thầy cho con ăn một bát canh này thật là một niềm hạnh phúc. Hương vị cua đồng quê nhà ít có thức ăn nào sánh tày, quả là ngon.

Theo dân gian lưu truyền lại, về sau, vua nhớ món canh cua đồng đến nỗi dân phải tiến cua đồng về kinh để vua ngự thiện. Cũng vì thế dân gian ở đây mới có câu ca:

“Canh cua nấu cải thêm gừng
Xưa nay vua chúa đã từng khen ngon”

You ~ solo

- William W. Purkey

You’ve gotta dance like there’s nobody watching, love like you’ll never be hurt, sing like there’s nobody listening, and live like it’s heaven on earth.

╰▶ Bạn có thể nhảy như thể không ai xem, yêu như bạn sẽ không bao giờ bị tổn thương, hát như ở đó không ai nghe, và sống như thiên đường ở ngay mặt đất.



Hoa trái của ngày hôm nay

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương LXXVI, Thích Nhất Hạnh

Mùa an cư chấm dứt, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ còn chưa kịp lên đường hành hóa thì nghe chiến tranh bùng nổ giữa hai vương quốc Kosala và Magadha. Đại binh của nước Magadha đã vượt sông Hằng đi vào xứ Kasi, thuộc lãnh thổ Kosala. Quốc vương Ajatasattu Videhyputta tự tay thống lãnh binh tướng qua chinh phạt nước Kosala. Tướng lãnh thống suốt cả voi, ngựa, xe và pháo, đang hướng về phía thành Baranasi, thủ phủ xứ Kasi.

Bên phía vương quốc Kosala sau khi được thám tử thông báo, cũng đã chuẩn bị quân đội gồm đủ voi, ngựa, xe và pháo nhắm xứ Kasi tiến tới. Việc binh quá cấp thúc, vua không kịp đến thông báo và từ giã Bụt, vua nhờ thái tử Jeta tới trình mọi sự với Bụt thay vua. Bụt đã từng được thông báo rằng sau khi nghe tin Ajatasattu mưu sát cha để lên ngôi, quốc vương Pasenadi đã tỏ ý phản kháng bằng cách lấy lại lãnh thổ của thục ấp vùng Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng đã tặng cho vua Bimbisara như vật hồi môn của công chúa Kosaladevi, khi công chúa về nhà chồng. Thục ấp này từ gần bảy mươi năm nay đã đem lại cho vương quốc Magadha mỗi năm một số tiền thuế trị giá một trăm ngàn đồng vàng. Vua Ajatasattu không chịu đựng được hành động phản kháng này cho nên đã cất binh sang đánh.

Đại đức Sariputta thông báo cho các vị nam nữ khất sĩ ở đâu thì nên hành đạo ngay tại đó, đừng di chuyển nhiều trong thời buổi chiến tranh. Đại đức cũng xin Bụt ở lại Savatthi cho đến khi tình hình yên tĩnh.

Hai tháng sau dân chúng kinh hoàng nghe tin binh tướng Kosala đã thất trận tại Kasi. Vua Pasenadi và các tướng phải rút tàn binh chạy về kinh đô. Tình hình rất khẩn trương. May thay, hệ thống phòng thủ tại Savatthi rất là kiên cố. Binh tướng của vua Ajatasattu đã đuổi theo và công kích ngày đêm mà cũng không hạ được nổi thành.

Sau đó, nhờ kế hoạch của tướng Bandhula, vua Pasenadi phối hợp được quân trong thành và quân từ các địa phương kéo tới để mở một cuộc tổng phản công. Lần này vua thắng lớn, vua Ajatasattu cùng các vị tướng soái dưới quyền đều bị bắt sống. Quân Kosala bắt được trên một vạn tù binh. Số binh lính còn lại, hoặc chết hoặc bỏ chạy tán loạn, có đến trên một vạn. Ngoài ra, quân đội Kosala lại chiếm được rất nhiều voi, ngựa, xe và pháo của bên địch.

Chiến tranh đã kéo dài hơn sáu tháng, dân chúng Savatthi được lệnh tổ chức và ăn mừng thắng trận. Sau khi thu xếp công việc triều đình và binh đội, vua Pasenadi đến thăm Bụt tại tu viện Trúc Lâm. Vua kể cho Bụt nghe những gian nan của cuộc chiến. Vua nói rằng quốc vương Ajatasattu đã tỏ ý gây hấn, vua chỉ chiến đấu tự vệ thôi chứ không hề chịu trách nhiệm về việc châm lửa chiến tranh. Vua trình với Bụt là có lẽ quốc vương Ajatasattu đã nghe lời những vị mưu thần nhiều quá.

- Bạch Thế Tôn, quốc vương Magadha dù sao cũng là cháu của trẫm, trẫm không nỡ giết, cũng không nỡ bỏ nó vào chốn lao tù, xin Bụt chỉ dạy cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương, xung quanh đại vương có biết bao nhiêu người thần tử và bạn hữu trung thành. Đại vương thắng trận này không có gì là lạ, nhưng xung quanh quốc vương Ajatasattu có nhiều phần tử xấu, và vì vậy vua ấy đã đi lầm đường lạc nẻo. Như Lai xin đề nghị là đại vương nên lấy lý lẽ để tiếp đãi quốc vương Magadha cho đúng cung cách của một ông vua đối xử với một ông vua, nhưng đại vương cũng phải có thì giờ để dạy quốc vương Magadha như dạy một người cháu ruột. Đại vương hãy nhấn mạnh đến sự cần thiết của những người bạn hữu tốt và những kẻ thần tử trung kiên, và cuối cùng đại vương có thể đặt tiệc và đưa vua xứ Magadha về nước, nền an bình của trăm họ tùy thuộc nơi sự khéo léo của đại vương.

Rồi Bụt cho gọi một vị khất sĩ trẻ tên là Silavat lên và giới thiệu vị này với vua Pasenadi. Khất sĩ Silavat vốn là một vị thái tử, con vua Bimbisara, em cùng cha nhưng khác mẹ với vua Ajatasattu. Silavat là một người con trai khá thông tuệ, từ mười sáu tuổi, chàng dã được theo học với đại đức Moggallana và đã là một người đệ tử tại gia xuất sắc của đại đức.

Sau cuộc chính biến xảy ra tại thủ đô Rajagaha, chàng đã xin đại đức cho chàng xuất gia. Sau lễ xuất gia, khất sĩ Silavat đã được gởi về tu viện Jetavana ở thủ đô Savatthi để tu học. Đại đức Moggallana nghĩ rằng dù Silavat không có ý tranh giành quyền hành với vua Ajatasattu, nhưng gởi vị khất sĩ này qua tu học ở nước Kosala vẫn là có an ninh hơn.

Vua Pasenadi hỏi thăm đại đức Silavat về tình trạng hoàng gia bên Rajagaha và thầy đã cung kính nói hết cho vua nghe tất cả những gì thầy tai nghe mắt thấy. Đại đức cho vua biết là năm ngoái đã có một người từ thủ đô xứ Magadha tới với sứ mạng ám sát đại đức, nhưng đại đức đã cải hóa được người ấy và độ cho người ấy được xuất gia. Hiện vị khất sĩ kia đang được tu học ở một trung tâm không xa thành phố.

Quốc vương Pasenadi cung kính lạy tạ Bụt và trở về cung điện. Vua Ajatasattu sau đó được trả tự do và đưa về nước. Lấy tình thương để xóa bỏ hận thù, vua Pasenadi lại đem công chúa Vajira mà gả cho vua Ajatasattu nữa. Quốc vương Ajatasattu đã là cháu nay lại trở nên con rể của vua. Vua còn hứa sẽ trả lại thục ấp ở Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng Maha Kosala đã tặng cho xứ Magadha. Quốc vướng xứ Kosala đã nghe lời Bụt một cách đúng mức.

Chiến tranh đã kết thúc, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ lại được phép lên đường hoằng hóa. Vua Pasenadi truyền xây dựng một tu viện mới cho giáo đoàn khất sĩ tại ven thủ đô. Tu viện này lấy tên là Rajakarama.

Bụt ở lại vương quốc Kosala liên tiếp trong hai năm, an cư mùa mưa tại tu viện Jetavana và đi giáo hóa ở nội địa trong những thời gian còn lại. Thỉnh thoảng có tin tức từ vương quốc Magadha do các vị khất sĩ du hành đem về cho Bụt. Các vị ấy kể sau khi Bụt rời vương quốc, đại đức Devadatta không còn được vua Ajatasattu kính nể nữa.

Trong số hơn một trăm vị khất sĩ còn ở lại với đại đức, tám mươi vị đã bỏ đại đức để trở về với giáo đoàn của Bụt và đều được đón nhận trở lại tại tu viện Trúc Lâm. Đại đức càng ngày càng bị cô lập. Gần đây đại đức bị ốm nằm liệt trên núi Gayasisa, không đi đâu được cả. Từ ngày chấm dứt chiến tranh giữa hai nước Kosala và Magadha, vua Ajatasattu cũng không còn gặp gỡ đại đức Devadatta. Vua cũng không có liên lạc nào với giáo đoàn khất sĩ của Bụt. Vua chỉ thân cận với các vị lãnh đạo của những giáo phái khác. Tuy vậy giáo đoàn khất sĩ vẫn được tiếp tục hành đạo một cách yên ổn. Dân chúng cũng như các vị khất sĩ rất mong ước được Bụt trở về. Núi Linh Thứu và tu viện Trúc Lâm vẫn còn chờ đợi Bụt. Y sĩ Jivaka cũng rất tha thiết mong Bụt trở về.

Mùa lạnh năm ấy hoàng hậu Mallika băng hà. Vua Pasenadi buồn quá, tìm tới Bụt để được an ủi. Hoàng hậu là một người bạn đời rất xứng đáng của vua và đã được vua thương yêu hết lòng. Hoàng hậu là một người theo Bụt thuần kính, thông minh, sáng suốt, thông hiểu giáo pháp một cách sâu xa. Ngay trước khi vua được gặp Bụt và tin Bụt, bà đã khuyên vua hành động cho phù hợp chánh pháp. Có lần vì nằm mộng thấy những điều quái gở, vua Pasenadi nghĩ rằng sẽ có những việc rủi ro xảy đến cho mình. Tin vào các vị Bà-la-môn và đạo sĩ ngoại đạo, vua đã cho chuẩn bị tổ chức tế đàn, sát hại trâu bò để cầu thần linh phù hộ. Chính hoàng hậu đã can gián vua, thuyết phục vua hủy bỏ dự án thiết lập tế đàn. Hoàng hậu còn tham dự và bàn bạc về cả chính sự và soi sáng cho vua rất nhiều trong lúc vua đi tìm những quyết định có liên hệ tới vận mạng của đất nước. Hoàng hậu là một trong những nữ đệ tử tại gia xuất sắc của Bụt. Bà rất ham học hỏi về giáo lý. Bà có thành lập một công viên với một hàng rào cây tinduka bao quanh, có hội trường để tham cứu về giáo pháp. Bà đã có mời Bụt và các cao đức tới hội trường này để thuyết pháp và hướng dẫn những cuộc thảo luận. Công viên này cũng mở cửa cho những vị lãnh đạo các giáo phái khác.

Đau khổ vì bị mất người bạn đời đã bốn mươi mấy năm sống chung, vua tìm đến Bụt. Ngồi yên lặng thật lâu bên Bụt, vua cảm thấy tâm hồn an tịnh trở lại. Vua nghe lời Bụt để thêm thì giờ vào việc tu tập thiền quán. Bụt nhắc lại lời vua nói trước đây là khi tuổi về già, mình phải tinh cần sống đúng theo chánh pháp và tạo hạnh phúc cho mọi người. Bụt khuyên vua tìm cách cải thiện guồng máy tư pháp và kinh tế. Người nói những hình phạt như đánh đập, tra tấn, giam cầm và tử hình không phải là biện pháp có hiệu lực nhất để ngăn chận trộm cướp. Gặp thời đói kém và loạn lạc, những vụ trộm cướp và bạo động tự nhiên tăng lên bội phần, vì vậy chánh sách an dân và giúp dân xây dựng lại kinh tế là chánh sách căn bản. Những biện pháp cần làm là cấp thực phẩm, lúa giống và phân bón cho nông dân nghèo để họ có thể sinh sống và sản xuất, cấp vốn cho nhà buôn, tăng lương bổng cho công tư chức, miễn thuế cho dân nghèo, phế bỏ phương pháp đe dọa, bắt buộc và đàn áp người lao công, cho họ chọn làm những nghề mà họ thật sự ưa thích, tạo cơ hội và phương tiện cho họ được hành những nghề ấy. Bụt nói chánh sách kinh tế phải là một chánh sách tự nguyện.

Những lời dạy về chính trị này, nhờ ngồi bên Bụt, hôm ấy đại đức Ananda đã được nghe. Đại đức đã trùng tuyên lại những ý này trong kinh Kutadanta. Một buổi chiều tại tu viện Lộc Mẫu, đại đức Ananda thấy Bụt xoay lưng về phía mặt trời, đại đức không hiểu tại sao, bởi vì Thế Tôn thường ưa nhìn cảnh mặt trời khuất bóng, đại đức tới gần và hỏi Bụt. Bụt nói Bụt đứng như thế để cho ánh sáng mặt trời sưởi ấm lưng Người. Đại đức lấy tay xoa lưng Bụt một hồi lâu cho ấm, rồi đại đức mời Bụt ngồi xuống ghế tre và xoa bóp hai chân cho Bụt. Vừa xoa bóp, đại đức vừa nói:

- Thế Tôn, con đã được làm thị giả cho Thế Tôn mười lăm năm nay, con nhớ những năm trước, nước da của người còn vàng ánh và óng mướt, nay da Thế Tôn đã nhăn và những bắp thịt nơi chân Thế Tôn đã teo lại rất nhiều, những lóng xương lộ ra rất rõ.

Bụt cười:

- Sống lâu thì già, có sao đâu Ananda ! Mắt và tai của Như Lai cũng không còn được tinh nhuệ như trước. Ananda ! Thầy có nhớ núi Thứu và những khóm tre ở tu viện Trúc Lâm không ? Thầy có muốn về leo lên núi Thứu để nhìn cảnh mặt trời khuất bóng không ?

- Lạy Bụt, nếu Bụt muốn về Linh Thứu, con xin đi theo hầu Người.

Mùa nóng năm ấy Bụt lên đường trở về thủ đô nước Magadha. Người đi thong thả: lộ trình được chia ra nhiều chặng. Người ghé thăm những trung tâm tu học, dạy dỗ giới xuất gia, thuyết pháp và nhắc nhở giới tại gia. Người đi qua nội địa các vương quốc Sakya, Malla, Videha, Vajji, và cuối cùng vượt sông Hằng qua nước Magadha. Trước khi về thủ đô, người ghé thăm trung tâm tu học tại Nalanda.

Tu viện Trúc Lâm và núi Linh Thứu vui như ngày hội khi Bụt về tới. Dân chúng thủ đô và các miền lân cận đổ xô về thăm Bụt rất đông. Cả một tháng sau khi Bụt về tới, y sĩ Jivaka mới có dịp mời được Bụt về vườn xoài của ông. Tại vườn xoài xanh mát này, y sĩ đã dựng được một giảng đường lớn đủ chỗ cho Bụt nói chuyện với khoảng một ngàn vị khất sĩ.

Ngồi trước tịnh thất của Người tại vườn xoài, Bụt nghe Jivaka kể lại những chuyện đã xảy ra trong triều đình và vương quốc. Ông nói hiện thái hậu Videhi đã tìm lại được nếp sống an tĩnh. Bà ăn chay, tập thiền, quán niệm về Tam Bảo một cách thường xuyên. Vua Ajatasattu đang bị khủng hoảng tâm lý trầm trọng, bị ám ảnh bởi cái chết của thượng hoàng, bị lương tâm cắn rứt ngày đêm, vua sinh ra mất ngủ. Thần kinh của vua suy nhược, vua hay mất bình tĩnh và thường nằm mơ thấy những ác mộng, tỉnh dậy mồ hôi tháo chảy đầm đìa. Y sĩ đã đến chữa trị cho vua gần nửa năm nay, nhưng tâm bệnh của vua vẫn còn là nguồn gốc của nhiều biến chứng khác.

Vua đã vời những vị đạo sĩ thuộc các giáo phái tới để tham vấn và chữa trị tâm bệnh cho vua, nhưng không có vị nào đã giúp được gì. Những vị này thuộc về các giáo phái Makkali Gosala, Ajita Kosakambali, Pakudha Kaccayana, Nigantha Nataputta và cả Sanjaya Belatthiputa nữa. Vị nào cũng muốn làm vừa lòng vua để giáo phái mình được thừa hưởng ân huệ nhưng không vị nào thành công. Có một hôm, vua vời thái hậu vào ăn cơm chung với hoàng hậu và thái tử Udayibhadda. Thái tử Udayibhadda chưa đầy ba tuổi, nhưng tính tình đã khó khăn và không điềm đạm chút nào. Vua thương yêu thái tử rất mực, thái tử đòi gì được nấy. Hôm đó thái tử đòi đem con chó vào bàn ăn chung. Đây là một điều cấm kỵ, nhưng vì chìu con, vua đã cho phép thái tử đem chó vào. Trong bữa ăn, hơi ngượng với thái hậu, vua nói:

- Đem chó vào bàn ăn thật không dễ chịu tí nào.

Thái hậu nói:

- Con thương con của con, cho nên con để nó đem chó vào ngồi chung, điều này có gì là lạ. Con nhớ ngày xưa cha con vì thương con mà hút máu mủ trong tay của con không ?

- Con không nhớ, xin thái hậu kể lại cho con nghe.

- Một hôm, ngón tay trỏ của con bị đau và sưng vù lên. Một cái nhọt đã mọc ngay dưới móng tay, làm nhức nhối khiến con khóc suốt ngày đêm. Không có đêm nào con ngủ được, cha và mẹ của con cũng không tài nào nhắm mắt. Cha con ẵm con để lên đầu gối, ngậm ngón tay đau của con trong miệng để chuyền hơi ấm qua, một mặt để con đỡ đau, một mặt để cái nhọt nhờ sức ấm mà cương mủ sớm. Như thế trong suốt bốn ngày đêm, khi cái nhọt đã cương mủ, và mủ đã chín, cha con mới bắt đầu mút cho mủ thoát ra khỏi ngón tay. Nhờ vậy mà con lành bệnh, cha con mút hết mủ và máu độc rồi, nhưng không dám rút tay con ra sợ con bị rát. Cha con cứ giữ mủ và máu trong miệng như thế cho đến khi không chịu nổi thì cha con nuốt máu và mủ cho con đỡ rát. Mẹ nói như vậy để con biết ngày xưa cha con thương con như thế nào. Bây giờ con thương con của con, cho nó đem chó vào bàn ăn, điều đó mẹ hiểu, mẹ có trách gì con đâu.

Nghe thái hậu kể, vua ôm đầu chạy vào cung, bỏ cả bữa ăn. Từ đó tâm bệnh càng ngày càng nặng. Jivaka tới chữa trị cho vua, nghe vua kể đủ mọi thứ chuyện, kể cả chuyện tham vấn với các vị Bà-la-môn và đạo sĩ, nhưng Jivaka vẫn không nói gì. Vua hỏi:

- Jivaka, tại sao anh không nói gì hết ?

Jivaka tâu:

- Tôi chỉ muốn nói với bệ hạ một điều mà thôi, tôi nghĩ chỉ có sa môn Gotama mới giúp được bệ hạ cởi bỏ được những khổ đau ẩn ức trong tâm. Bệ hạ nên tìm tới Bụt để được Người chỉ dạy.

Vua im lặng, một lát sau, vua nói:

- Trẫm sợ sa môn Gotama còn thù ghét trẫm.

- Bệ hạ đừng nói thế, sa môn Gotama không hề thù ghét ai cả, Bụt là thầy của thượng hoàng, và cũng là người bạn thân thiết nhất của thượng hoàng, bệ hạ tới với Bụt thì cũng như tới với thượng hoàng vậy. Bệ hạ tới với Bụt để tìm lại sự an ổn trong tâm hồn và cũng là để hàn gắn lại những gì đã đổ vỡ trong quá khứ, tài y khoa của tôi không bằng được một phần triệu tài chữa trị của Bụt, Bụt không phải là một ông thầy thuốc mà là vua của những ông thầy thuốc. Có người đã gọi Bụt là y vương.

Sau cuộc đàm đạo đó, vua đã chấp nhận việc đi thăm Bụt. Y sĩ Jivaka xin Bụt nghỉ ngơi trên núi ít tháng và đi thăm hỏi các trung tâm tu học trong vùng. Y sĩ mong ước sẽ được thỉnh Bụt về vườn xoài an trú một tháng trong mùa nóng. Chính trong vườn xoài của ông mà y sĩ Jivaka đã sắp đặt cuộc gặp gỡ giữa vua và Bụt. Lần đầu vua ngự giá tới Bụt là vào một đêm trăng. Vua cùng đi với hoàng gia và các cung phi mỹ nữ, có quân lính đi hộ tống. Đi gần tới chỗ Bụt, bỗng nhiên vua phát ra sợ hãi, tóc gáy dựng ngược, vua cảm thấy cảnh tượng an tĩnh quá, Jivaka đã nói Bụt ở chung với gần một ngàn vị khất sĩ, vậy mà tại sao khung cảnh quá im lặng như thế này ? Vua sợ bị người ta lừa vua tới để đánh úp. Vua hỏi Jivaka có phải là y sĩ đang lừa vua đi vào chỗ hiểm địa của kẻ thù không ? Jivaka cười ngất. Ông chỉ cho vua một ngôi nhà có cửa sổ tròn, từ đó có ánh sáng phát ra. Ông nói: Bụt hiện đang ngồi trong giảng đường với các vị khất sĩ.

Vua xuống voi, đi với Jivaka và những người hộ vệ, đuốc thắp sáng trưng, vào tới cổng giảng đường, Jivaka chỉ cho vua thấy một người đang ngồi trên pháp tòa, dựa lưng vào cột nhà chính giữa, trước mặt pháp tòa các vị khất sĩ đang trang nghiêm ngồi. Jivaka nói: Bụt là người ngồi chính giữa đó. Vua rất lấy làm cảm phục. Gần một ngàn người ngồi mà im lặng không có một tiếng động nào, cảnh tượng trang nghiêm quá đỗi. Ngày xưa vua đã từng thấy Bụt trong cung, nhưng đã có bao giờ vua tới tu viện để gặp Bụt và nghe thuyết pháp đâu ?

Bụt mời vua và hoàng gia ngồi. Thái hậu Videhi cũng có mặt đêm ấy. Vua lên tiếng hỏi Bụt:

- Trẫm chỉ được nghe Thế Tôn giảng đạo có một lần ở hoàng cung hồi trẫm còn nhỏ. Thế Tôn, hôm nay trẫm muốn hỏi Thế Tôn câu hỏi này: tu hành không biết có kết quả gì không mà trẫm thấy hàng ngàn, hàng chục ngàn, có khi cả hàng vạn người bỏ nhà đi tu như thế ?

Bụt hỏi vua đã hỏi ai câu ấy chưa. Vua trả lời là vua đã hỏi nhiều vị chức sắc lớn trong các giáo phái, nhưng chưa có câu trả lời nào làm vua vừa ý cả, kể cả câu trả lời của đại đức Devadatta. Bụt nói:

- Đại vương, hôm nay Như Lai sẽ nói cho đại vương nghe về những hoa trái của sự tu học trong đạo pháp này, những hoa trái có thể thấy được trong hiện tại và những hoa trái sẽ hái gặt được trong tương lai. Đại vương sẽ không cần đi vào các ngõ ngách của lý luận: đại vương chỉ cần nhận xét cho tinh tường thì đã có thể thấy được những hoa trái ấy của sự tu học, rõ ràng như thấy trái xoài để trên một bàn tay. Đại vương, ví dụ một người nọ đang làm tôi tớ cho người ta, thức khuya dậy sớm hầu hạ và làm theo mệnh lệnh của chủ, một hôm bỗng có tư tưởng như sau: “Chủ là người, mình cũng là người, tại sao mình phải đày đọa mình như thế này ?”. Nghĩ như thế, người ấy từ bỏ thân phận tôi đòi, xin được xuất gia tu đạo, đi vào chánh pháp, sống theo nếp sống phạm hạnh, tinh cần, tỉnh thức, ăn ngày một bữa, tập thiền hành, thiền tọa, đi đứng trang nghiêm, trở nên một vị khất sĩ có uy nghi, có dung hạnh, có đạo đức. Đại vương nghĩ sao? Biết được vị khất sĩ ấy ngày xưa vốn là thân phận tôi đòi, đại vương có gọi người ấy tới và nói: “Này người kia, hãy lại đây, hãy làm nô bộc cho ta, hãy thức khuya, dậy sớm và thi hành mọi mệnh lệnh của ta” hay không ?

Vua nói:

- Thế Tôn, trẫm sẽ không làm như vậy, sẽ không nói như vậy, trái lại trẫm sẽ cung kính làm lễ người ấy, mời người ấy xuống để cúng dường, và sẽ ra lệnh bảo vệ cho người ấy đúng theo luật pháp.

Bụt nói:

- Đại vương, đó là hoa trái đầu tiên mà người sa môn khất sĩ gặt hái, người ấy thoát được sự kỳ thị giai cấp, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giàu nghèo, và khôi phục được phẩm cách của một con người.

Vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn ! Xin Người dạy thêm.

Bụt nói:

- Đại vương, nhân phẩm tuy vậy chỉ là những hoa trái đầu. Vị khất sĩ nhờ hành trì hai trăm mươi giới mà được an trú trong một trạng thái vô ưu và thanh tịnh. Những người không giữ giới có thể phạm vào các tội lỗi như giết người, trộm cắp, tà dâm, dối gạt, say sưa và tự đưa mình tới những hình phạt đớn đau về thân thể cũng như về tâm thần. Vị sa môn khất sĩ không những hành trì năm giới, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không dối gạt, không say sưa, mà còn hành trì trên hai trăm giới khác, vì vậy vị ấy sống trong một trạng thái thật an ninh, thật nhẹ nhõm, trạng thái mà những người không giữ giới không thể nào có được. Giới luật ngăn ngừa không để cho ta rơi rớt vào lỗi lầm, đem lại cho ta một trạng thái an ninh và nhẹ nhõm. Đó là một loại hoa trái khác của sự tu học, có thể gặt hái ngay trong thời gian hiện tại.

Vua nói:

- Hay lắm ! Thế Tôn, xin Người dạy tiếp cho !

Bụt nói:

- Đại vương, vị sa môn khất sĩ không có gì ngoài ba chiếc áo cà sa và một chiếc bình bát. Người ấy không gây thù oán, không sợ ai ban đêm tới hành thích mình. Vị ấy có thể ngủ một mình trong rừng, dưới một gốc cây, thanh thản, vô ưu, lặng lẽ. Không sợ hãi là một niềm hạnh phúc lớn. Đó là một loại hoa trái khác của sự tu học, có thể gặt hái ngay trong thời gian hiện tại.

Vua rùng mình, rồi vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn ! Xin Người dạy tiếp cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương, vị sa môn khất sĩ sống đơn giản tới mức tối đa, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, bình bát một chiếc nhưng cơm ngàn nhà, không nghĩ đến chuyện làm giàu, không chạy theo danh vọng, không tích trữ, không gom góp, sống đúng theo phép tri túc, và không chạy theo một tham vọng hay một ước muốn nào. Sự thảnh thơi là một niềm hạnh phúc lớn. Đó là cũng là một loại hoa trái của sự tu học, có thể gặt hái ngay trong giờ phút hiện tại.

Vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn ! Kính xin Người dạy tiếp cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương ! Nếu đại vương biết quán niệm hơi thở, biết thực tập thiền quán thì đại vương mới có được ý niệm về hạnh phúc của người tu. Hạnh phúc đó là thiền duyệt. Vị sa môn khất sĩ biết giữ gìn sáu căn của cảm giác, biết đối trị lại năm loại trở lực của tâm ý là tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử và nghi ngờ. Trong khi sử dụng phép quán niệm hơi thở để thực tập thiền quán, vị ấy làm phát sinh những trạng thái hỷ và lạc trong thân tâm mình để nuôi dưỡng thân tâm và đi tới trên con đường ngộ đạo, những cảm giác dễ chịu do ngũ dục đem đến không thể nào bì kịp với thứ hỷ lạc do thiền định thực hiện. Hỷ và lạc này thấm nhuần thân tâm, trị lành tất cả những âu lo, sầu khổ, thất vọng, đưa người hành giả tiếp xúc với những gì mầu nhiệm nhất của thực tại. Đại vương, đây là một loại hoa trái quan trọng của sự tu học, loại hoa trái này cũng có thể gặt hái được ngay trong giờ phút hiện tại.

Vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn ! Xin Người cứ dạy tiếp cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương ! Vị sa môn khất sĩ nhờ an trú tinh cần trong giới luật và chánh niệm mà có định tâm, lấy định tâm ấy mà quán chiếu vạn pháp trên thế gian. Nhờ quán chiếu mà vị sa môn khất sĩ thấy được tính cách vô thường và vô ngã của vạn pháp. Nhờ thấy được tự tính vô thường và vô ngã của vạn pháp nên vị sa môn khất sĩ không bị tham đắm vào bất cứ pháp nào, và không bị bất cứ pháp nào trói buộc. Vị sa môn khất sĩ nhờ đó cắt đứt được những sợi dây phiền não thường trói buộc con người, đó là những sợi dây tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến. Cắt đứt được những sợi dây phiền não ấy rồi, vị sa môn khất sĩ đạt tới trạng thái giải thoát, thảnh thơi. Đại vương ! Giải thoát là một hạnh phúc lớn, một loại hoa trái lớn nhất của sự tu học. Đại vương ! Trong số những vị khất sĩ ngồi ngay trong thính chúng đây, có vị đã chứng đắc được thứ hoa trái đó. Hoa trái này, đại vương, cũng có thể gặt hái được ngay trong kiếp hiện tại.

Vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn ! Xin Người tiếp tục dạy dỗ cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương ! Vị sa môn khất sĩ nhờ quán chiếu về tự tính của vạn pháp, thấy sâu vào trong tự tính ấy và biết rằng các pháp là không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, không một, không nhiều, không đến, không đi. Vị sa môn khất sĩ do đó đạt được cái thấy thanh tịnh, không phân biệt, nhìn vạn pháp trong thế gian bằng con mắt tuyệt đối bình tĩnh, không sợ hãi, không lo lắng, cưỡi trên sóng sinh tử mà đi vào cuộc đời để cứu độ cho chúng sanh, chỉ bày cho chúng sanh con đường chánh pháp để chúng sanh cũng được nếm hương vị của giải thoát, của vô ưu và của hỷ lạc. Đại vương ! Được giúp đỡ người khác, được dắt dẫn người khác ra khỏi vũng lầy của tham vọng, hận thù và si mê, đó là một niềm vui lớn. Niềm vui này là một loại hoa trái rất đẹp đẽ của sự tu học, có thể thực hiện ít ra là một phần nào đó trong hiện tại và sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai. Đại vương ! Các vị khất sĩ trong những tiếp xúc hàng ngày với dân chúng, có nhiệm vụ hướng dẫn dân chúng đi trên con đường đạo đức và giải thoát. Đại vương ! Các vị khất sĩ tuy không làm chánh trị nhưng cũng đóng góp vào công trình xây dựng an lạc và đạo đức cho xã hội. Hoa trái của sự tu học không phải là để riêng cho người sa môn tu sĩ hưởng thụ mà là gia tài của cả quốc gia và nhân loại.

Vua đứng dậy, chắp hai tay lại một cách cung kính, vua bạch:

- Vi diệu thay, Thế Tôn ! Bằng những lời đơn giản, Thế Tôn đã soi sáng cho trẫm, đã giúp trẫm thấy được giá trị chân thật của chánh pháp. Thế Tôn đã dựng lại những gì đã ngã xuống, phơi bày ra những gì đã bị che kín, chỉ đường cho những kẻ lạc hướng, đem ánh sáng rọi vào nơi tối tăm. Xin Thế Tôn nhận cho con làm đệ tử của Người, cũng như ngày xưa Thế Tôn đã nhận phụ hoàng và mẫu hậu con làm đệ tử của Thế Tôn.

Và vua lạy xuống. Bụt mỉm cười, chấp nhận lời thỉnh cầu của vua. Người bảo đại đức Sariputta dạy cho vua và hoàng hậu đọc ba lời quay về nương tựa. Lễ quy y xong, vua nói:

- Bây giờ trời đã khuya, chúng con xin phép Thế Tôn để trở về cung an nghỉ. Sáng mai chúng con sẽ phải có buổi chầu rất sớm.

Bụt dạy:

- Đại vương hãy làm những gì đại vương nghĩ là phải làm.

Tuy buổi gặp gỡ này giữa vua và Bụt không phải là một buổi gặp gỡ riêng tư, và Bụt giảng kinh Sa Môn quả không phải chỉ để cho vua nghe mà cũng là để cho tất cả các vị khất sĩ có mặt đêm ấy, sau buổi đó, bệnh tình của vua đã thuyên giảm đi quá nửa. Đêm ấy vua nằm mơ thấy thượng hoàng nhìn vua mỉm cười, vua có cảm tưởng đã nối lại được một cái gì đã gãy, dựng lên được một cái gì đã ngã xuống. Buổi gặp gỡ đã làm đẹp lòng vua mà cũng làm đẹp lòng dân chúng.

Sau lần gặp gỡ đó, vua thường đến thăm Bụt mà không cần qua sự sắp đặt của y sĩ Jivaka nữa. Vua cũng không đem theo voi ngựa và binh sĩ hộ tống. Vua cũng đã trèo những bậc đá để lên núi Linh Thứu như vua Bimbisara ngày xưa.

Trong những buổi gặp gỡ riêng với Bụt, vua đã có dịp thổ lộ tâm tình và sám hối với Bụt về những tội lỗi của vua trong quá khứ. Bụt đối với vua ngọt ngào như đối với một đứa con của Người. Bụt khuyên vua nên dùng người có đạo đức trong giới quần thần và cố vấn.

Cuối mùa an cư năm ấy, y sĩ Jivaka xin Bụt được xuất gia. Ông được Bụt ban cho pháp danh là Vimala Kondanna.

Cuộc sống nhìn từ ô cửa thiền|42|

- Lời kinh trong lòng bàn tay
- Vô Thường

“Cả ngày chỉ đuổi theo những điều phù phiếm. Chỉ nhớ những điều không thiện. Chỉ nói những lời không hay. Chỉ làm những việc không tốt. Luôn tránh né những việc cần làm. Luôn thiếu một chút can đảm để có thể bắt tay vào những việc làm thiện lành ý nghĩa. Ngày ngày, quay lưng lại với những điều thiện lành rồi mải miết đuổi theo giông gió. Những người như vậy, dù luôn nói: cần bình yên, sợ khổ đau, thì cũng chỉ là lời nói suông vậy thôi”.

Cỏ cây vẫn phải chết khát khi những cơn sấm rung cả đỉnh trời nhưng chẳng mang mưa về. Mặt đất vẫn khô cằn khi những đám mây đen kéo nhau về tụ rồi tan. Người vẫn không thể bình yên khi chỉ nói “muốn bình yên” rồi thôi, chẳng làm gì cả, vẫn nói những lời, vẫn làm những việc, vẫn nhớ những điều để cuộc đời không được an như ngày hôm qua.

Muốn nhẹ nhưng không chịu đặt xuống, muốn thoát ra nhưng lại cột thêm vào, “muốn nhẹ lòng”, “muốn giải thoát”, cũng chỉ là lời nói suông vậy thôi.

Càng nói những lời bất thiện, cuộc sống càng trả về những lời khó nghe. Càng làm những việc bất thiện, cuộc sống càng trả về nhiều điều để tổn thương. Càng nghĩ những điều bất thiện, cuộc sống càng trả về nhiều điều để lòng không thể an.

Người đời thường vậy, luôn nhớ nghĩ đến cánh đồng hoa dại ở một nơi nào đó rất xa mà quên đi đóa hoa dại giản dị vừa nở ngoài hiên nhà sáng nay.



Thoáng trầm tư

(Thích Tánh Tuệ)



Ngồi ngắm trần gian thấy cũng vui
Một chân bước tới, một chân lui
Lắm khi hạnh phúc mà rơi lệ ...
Giữa tiếng cười in bóng ngậm ngùi

Nhiều lúc cõi ni thấy cũng buồn
Mà sao không muốn bỏ đi luôn
Mải mê ... đời kiến bò quanh quẩn
Để nắng mưa phong kín cội nguồn

Có dạo đời nghiêng ... ngỡ chết rồi
Ai dè chưa dứt nợ lôi thôi
Đường trần lại cuốn theo dòng chảy
Cơm áo, vui đùa ... nhưng lẻ loi

Vài kiếp sau còn trở lại đây
Rong rêu đời sống ... có chi hay
Khóc, cười, được, mất vờn như mộng
Trả tiếp niềm vui giá đọa đày

Ngồi đếm trăm năm thấy cũng dài
Thế rồi ... không quá một tầm tay
Nghìn thu gói trọn trong vài phút
Thoảng đến rồi đi như gió bay …

Cảm ơn họ đã nhắc cho tôi

(Sưu tầm)



Một người nọ mỗi khi cầm tờ báo là mở xem những trang cáo phó chia buồn trước nhất. Anh ta chăm chú đọc từng dòng trên trang cáo phó dù không hề quen biết với người đã mất. Có người bạn thấy thế bèn hỏi nguyên do. Anh ta trả lời:

- À, tôi chỉ gửi lời cám ơn đến những người này đó thôi.

Người bạn của anh ta trợn mắt ngạc nhiên nói:

- Anh nói điều gì mà tôi chẳng hiểu gì cả. Anh cảm ơn những người đã chết mà toàn là người anh chưa hề quen biết ! Cái đầu của anh có vấn đề gì không vậy ?

Người nọ thong thả trả lời:

- Đúng vậy. Tôi trân trọng cảm ơn họ. Vì sự ra đi của họ đã nhắc nhở cho tôi đừng quên rằng kiếp người vốn là vô thường. Cái chết đến bất chợt nào ai hề hay biết. Lúc còn sống những người này cũng có những ước mơ toan tính, những tranh giành hơn thua, những vui buồn ganh ghét. Để rồi bỗng dưng trở thành những cái xác vô tri chờ đem hỏa táng hoặc vùi sâu trong lòng đất lạnh. Họ đem chính sinh mạng của mình để nhắc nhở cho tôi bài học lớn trong cuộc đời, như vậy chẳng lẽ không xứng đáng được nhận một lời cảm ơn hay sao anh bạn ?

“Ngồi đếm trăm năm thấy cũng dài
Thế rồi ... không quá một tầm tay
Nghìn thu gói trọn trong vài phút
Thoảng đến rồi đi như gió bay …”
(Thơ Thích Tánh Tuệ)