V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Nguyện xưa một vẹn phải tìm nhau

- Thầy Minh Hy

Sáng hôm trước, tôi may mắn được ăn sáng trong cốc Ngồi Yên và được thầy nói cho nghe ý nghĩa của câu kệ “Nguyện xưa một vẹn phải tìm nhau”, đây là một câu rất hay trong bài kệ truyền đăng của thầy Pháp Cầu. Chỉ may mắn thôi, tôi vào nhờ các anh em thị giả thưa với thầy là sáng nay thầy sẽ cho pháp thoại hay vấn đáp để tôi biết chắc mà chuẩn bị – đó là ngày thứ tư trong khóa tu tiếng Pháp. Theo kinh nghiệm của tôi, việc gì mình làm mà có sự chuẩn bị tốt thì đỡ phải “chạy”, “không lo xa thì sẽ buồn gần”. Tôi không nghĩ là tôi lại được ăn sáng chung với thầy hôm đó. Mới ngồi xuống, sau khi chắp tay quán niệm, rồi mời Thầy và các anh em thị giả, tôi liền lấy một mẩu bánh mì, bỏ một ít đậu hủ và bắt đầu thưởng thức một bữa sáng hạnh phúc.
Tự nhiên, có một câu hỏi đi lên trong tôi: “Tại sao mình không thưởng thức những bữa ăn sáng khác như là sáng hôm nay ?” Một bữa ăn sáng như sáng hôm nay cho tôi nhiều bình an và hạnh phúc quá ! Tôi có mặt đó cho thầy và các huynh đệ thị giả rất là trọn vẹn. Tôi bẻ từng miếng bánh mì, bỏ đậu hủ lên, rồi nhai và thưởng thức với tất cả sự bình an và hạnh phúc của tôi. Thật là hạnh phúc khi thầy đang có mặt đó cho mình. Tôi thấy rất là lạ, cứ mỗi lần có sự có mặt của thầy thì sự thực tập chánh niệm của tôi rất dễ dàng. Thầy trò chúng tôi ăn sáng trong im lặng một lúc thì thầy bắt đầu kể chuyện cho chúng tôi nghe. Thầy nói:

- Câu “Nguyện xưa một vẹn phải tìm nhau” trong bài kệ truyền đăng của thầy Pháp Cầu rất là hay. Nó có nghĩa là nếu mình muốn cho cái tâm nguyện ngày xưa của mình được trọn vẹn thì mình phải tìm đến với nhau, mình phải xây dựng tăng thân. Bụt ngày xưa cũng vậy, sau khi Ngài tìm thấy được con đường thì lập tức Bụt đi kiếm năm người bạn tu lúc trước.

Nghĩ một chút Thầy nói tiếp:

- Chữ “Cầu” có nghĩa là tìm cầu
( Pháp môn chuyển hóa hãy tìm cầu
Gươm báu Văn Thù trí lực cao
Chí lớn làm nên trang hảo hán
Nguyền xưa một vẹn phải tìm nhau )

Đầu tiên thì mình tìm kiếm pháp môn, rồi sau đó thì mình tìm kiếm tăng thân để nương tựa và thực tập.

Vậy là đầy đủ lắm rồi, phải không ? Vừa nhẹ nhàng, thâm sâu và đầy ý nghĩa. Với lại nếu mình là người trong cuộc thì mình hiểu rõ hơn ai hết. Rồi, thầy gắp cho mỗi anh em tôi mỗi người một lát táo. Ngoài kia, đằng đông, mặt trời đã ló dạng. Đẹp và rất ấm áp. Sương mai vẫn còn phủ kín cả núi đồi và những con chim đã cất tiếng hót để ăn mừng một ngày mới. Ngừng một chút, tôi thưa với thầy một chuyện mà tôi đã nghe trong khi làm thị giả cho quý Hòa Thượng trong đại giới đàn Lắng Nghe vừa rồi. Trong một bữa ăn chiều, có quý Hòa Thượng N.H, Hòa Thượng M.C, Hòa Thượng M.N, Hòa Thượng T.T cùng với quý thượng tọa khác nữa. Được làm thị giả là một dịp may, là một hạnh phúc cho tôi khi được nghe những câu chuyện thật mà quý vị kể cho nhau nghe.

Hòa Thượng M.C nói:

- Đến cái tuổi này rồi, mình chỉ còn một cái ước mơ cuối cùng nữa thôi. Đó là có thì giờ để ngồi xuống hạ thủ công phu.

Hòa Thượng N.H nói:

- Mình bận bịu nhiều việc quá, đến lúc muốn làm cái việc mình thích mà cũng không có thì giờ để làm.

Câu chuyện chỉ có vậy thôi, không có dài lắm nhưng kỳ thực nó dài bằng cả một đời người. Hai Hòa Thượng là chỗ thâm tình với nhau, nên nói chuyện thật gần gũi. Tôi đứng đó mà thấy lòng tràn ngập sự biết ơn và cảm mến đối với các vị.

Sau khi thưa chuyện xong, thầy chỉ im lặng và bày tỏ một niềm cảm thông sâu xa với những người học trò xưa ấy. Tuy vậy, không khí của bữa ăn sáng không phải vì thế mà đượm buồn, trầm lắng. Thầy trò vẫn sống với giây phút hiện tại, trân quý sự có mặt của nhau. Thầy nói:

- Quả thứ nhất Đã về - Đã tới ở Làng Mai hay hơn quả Dự Lưu trong truyền thống nhiều. “Dự Lưu” thì còn phải đi nữa, còn Đã về - Đã tới thì không cần tìm cầu chi nữa. “Người chẳng tìm cầu chi nữa” - câu này hay lắm, mình phải viết lại, nếu mất thì uổng lắm. Ai chứng được quả này rồi thì mình nhìn mình biết liền, không cần người ấy nói.

Nguyên văn của câu đối trên là như thế này:

“Tịnh Độ nơi đây thích ý rong chơi người chẳng tìm cầu chi nữa
Bản môn bây chừ hé mở phỉ lòng ta há theo đuổi gì thêm”

Nói xong, thầy đi lấy cho chúng tôi xem một bức hình của một anh thiền sinh gửi tặng thầy. Bức hình là một tác phẩm điêu khắc nói về tình huynh đệ. Tác phẩm có nội dung khá đẹp. Nhìn tác phẩm này, tôi liền nhớ đến câu nói của thầy trong lễ truyền đăng cho thầy Pháp Đệ: “Không có một tôn giáo hay chủ thuyết nào có thể đẹp bằng tình huynh đệ”.Thuận dịp, tôi thưa với thầy cho mấy chữ để đặt tên cho nhà ăn và nhà bếp ở Xóm Thượng. Thầy nói rằng, nhà ăn mình có thể lấy chữ Nhà Năm Quán – Ngũ Quán Đường, còn nhà bếp thì là Nhà Thương Nuôi – Ái Nghĩa Đường. Mình làm việc trong nhà bếp là vì tình thương mà làm, chứ không phải vì bị bắt buộc. Mình nuôi tăng thân bằng tình thương của mình. Như vậy là hay lắm rồi. Chữ ấy vừa có nghĩa lại vừa có chiều sâu. Thầy nói đến đây thì tôi được thị giả của thầy cho một ly trà và các thị giả cũng được mỗi người một ly trà.

Hồi còn là một chú điệu, cứ mỗi lần có các Hòa Thượng đến chùa thăm, thì các điệu tôi dù là đang làm công việc gì cũng dừng lại, đi vào mặc áo tràng, rồi cùng nhau lên xin được đảnh lễ quí ôn. Chúng tôi đứng thành một hàng, chú điệu lớn nhất sẽ xin phép quý ôn cho các điệu được đảnh lễ. Có khi chúng tôi được đảnh lễ, có khi thì không được. Chắc các vị cũng mắc cỡ không muốn ai đảnh lễ mình. Kế đến, cái phần hạnh phúc nhất của chúng tôi là được quỳ xuống và lắng nghe những lời giáo huấn của các vị. Thường thường, những lời giáo huấn không dài, chỉ vỏn vẹn không quá mười phút, nhưng rất nuôi dưỡng tuổi thơ của các điệu. Sau đó, các điệu xin phép được đi ra và tiếp tục làm công việc của mình. Giờ đây, tuy là đã quá tuổi làm điệu, nhưng tôi luôn cảm thấy hạnh phúc và được nuôi dưỡng bởi những lời dạy của thầy. Thiệt tình mà nói, thầy luôn tạo ra cái không gian mà ở trong đó thầy trò rất dễ gần, dễ chia sẻ với nhau. Mỗi khi thầy ăn cơm, thầy cũng muốn chúng tôi cùng ngồi ăn cơm chung với thầy. Mỗi khi uống trà, thầy cũng cho chúng tôi một ly trà. Những giây phút như vậy, chúng tôi sẽ không bao giờ quên. Bởi trong những lúc đó, một phần là chúng tôi có mặt hết lòng với sự chánh niệm của mình, mặt khác là tình thương của thầy luôn có mặt đó cho chúng tôi. Những giây phút ấy đã trở thành bất diệt. Rồi dẫu sau này, trên bước đường tu học, có những lúc tâm mềm yếu, ý chí bị bụi trần che lấp, thì những khoảnh khắc ấy sẽ cứu lấy chúng tôi. Sẽ đưa chúng tôi trở về với tăng thân, để cùng nhau đi tới cho vẹn một lời thề xưa.

Hai chiếc bình

- Hàn Long Ẩn



Hai chiếc bình trống rỗng
Một đậy nắp một không
Thả hai bình xuống biển
Một chiếc nổi bềnh bồng

Chiếc bình không đậy nắp
Chứa đầy nước đại dương
Còn chiếc bình đóng kín
Trôi nổi đến ngàn phương

Tâm người chắc cũng thế
Nếu đóng hết lòng mình
Bằng những điều cố chấp
Đời ta mãi điêu linh

Bạn hiền ơi, nhớ nhé !
Sống hãy mở lòng ra
Nhận chân lời Phật dạy
Hạnh phúc sẽ nở hoa

Anh phải sống

- Nhất Linh và Khái Hưng


Trên đê Yên Phụ một buổi chiều mùa hạ.



Nước sông Nhị Hà mới bắt đầu lên to, cuồn cuộn chảy, tưởng muốn lôi phăng cái cù lao ở giữa sông đi. Theo dòng nước đỏ lờ đờ, những thân cây, những cành khô từ rừng về nổi lềnh bềnh, như một dãy thuyền nhỏ liên tiếp chạy thật nhanh tới một nơi không bờ không bến. Ðứng trên đê, bác phó nề Thức đưa mắt trông theo những khúc gỗ ấy tỏ ý thèm muốn, rồi quay lại, đăm đăm nhìn vợ, hỏi thầm ý kiến. Người vợ, ngắm sông, ngắm trời, lắc đầu thở dài, nói:

– Gió to quá, mà đám mây đen kia ở chân trời đùn lên mau lắm. Mưa đến nơi mất, mình ạ !

Người chồng cũng thở dài, đi lững thững. Rồi bỗng dừng lại, hỏi vợ:

– Mình thổi cơm chưa ?

Vợ buồn rầu đáp:

– Ðã. Nhưng chỉ đủ cơm cho hai con ăn bữa chiều hôm nay.

Hai vợ chồng lại im lặng nhìn nhau ... Rồi hình như cùng bị một vật, một định kiến nó thôi miên, nó kiềm áp, hai người đều quay lại phía sông. Những thân cây vẫn phăng phăng trôi giữa dòng nước đỏ. Chồng mỉm cười, cái cười vơ vẩn, bảo vợ:

– Liều !

Vợ lắc đầu không nói. Chồng hỏi:

– Mình đã đến nhà bà Ký chưa ?

– Ðã.

– Thế nào ?

– Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao tiền. Bà ấy không cho vay trước.

– Thế à ?

Hai chữ “thế à” rắn rỏi như hai nhát bay cuối cùng gõ xuống viên gạch đặt trên tường đương xâỵ Thức quả quyết sắp thi hành một việc phi thường, quay lại bảo vợ:

– Này ! Mình về nhà, trông coi thằng Bò.

– Ðã có cái Nhớn, cái Bé chơi với nó rồi.

– Nhưng mình về thì vẫn hơn, cái Nhớn nó mới lên năm, nó trông nom sao nổi hai em nó.

– Vậy thì tôi về ... Nhưng mình cũng về chứ đứng đây làm gì ?

– Ðược, cứ về trước đi, tôi về sau.

Vợ Thức ngoan ngoãn, về làng Yên Phụ. Tới nhà, gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm, chị phó Thức đứng ở ngưỡng cửa, ngắm cái cảnh nghèo khó mà đau lòng. Lúc nhúc trên phản gỗ không chiếu, ba đứa con đang cùng khóc lóc gọi Bu. Thằng Bò kêu gào đòi bú. Từ trưa đến giờ, nó chưa được tí gì vào bụng. Cái Nhớn dỗ em không nín cũng mếu máo, luôn mồm bảo cái Bé:

– Mày đi tìm Bu về để cho em nó bú.

Nhưng cái Bé không chịu đi, nằm lăn ra phản vừa chửi vừa kêu. Chị phó Thức vội chạy lại ẵm con, nói nựng:

– Nao ôi ! Tôi đi mãi để con tôi đói, con tôi khóc.

Rồi chị ngồi xuống phản cho con bú. Song thằng Bò, ý chừng bú mãi không thấy sữa, nên mồm nó lại nhả vú mẹ nó ra mà gào khóc to hơn trước. Chị Thức thở dài, hai giọt lệ long lanh trong cặp mắt đen quầng. Chị đứng dậy, vừa đi vừa hát ru con. Rồi lại nói nựng:

– Nao ôi ! Tôi chả có gì ăn, hết cả sữa cho con tôi bú !

Một lúc thằng bé vì mệt quá, lặng thiếp đi. Hai đứa chị, người mẹ đã đuổi ra đường chơi để được yên tĩnh cho em chúng nó ngủ. Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc chất phát của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn, chị ta nhớ ra một cách rành mạch, là chưa bao giờ được hưởng chút sung sướng thư nhàn như những người giàu có.

Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm … Năm chị mười bảy, một lần cùng anh phó Thức cùng làm một nơi, chị làm phu hồ, anh phó ngõa. Câu nói đùa đi, câu nói đùa lại, rồi hai người yêu nhau, rồi hai người lấy nhau. Năm năm ròng trong gian nhà lụp xụp ẩm thấp, tối tăm ở chân đê Yên Phụ, không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép và hai cái đời trống rỗng của hai con người khốn nạn, càng khốn nạn khi họ đã đẻ luôn ba năm ba đứa con. Lại thêm gặp buổi khó khăn, việc ít, công hạ, khiến hai vợ chồng loay hoay, chật vật suốt ngày này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con.

Bỗng mùa nước mặn năm ngoái, bác phó Thức nghĩ ra được một cách sinh nhai mới. Bác vay tiền mua một chiếc thuyền nan, rồi hai vợ chồng ngày ngày chở ra giữa dòng sông vớt củi. Hai tháng sau, bác trả xong nợ, lại kiếm được tiền ăn tiêu thừa thải. Vì thế năm nay túng đói, vợ chồng bác chỉ mong chóng tới ngày có nước to. Thì hôm qua, cái ăn, trời bắt đầu đưa đến cho gia đình bác. Nghĩ đến đó, Lạc mỉm cười, se sẽ đặt con nằm yên trên cái tã, rồi rón rén bước ra ngoài, lên đê, hình như quả quyết làm một việc gì.

Ra tới đê, Lạc không thấy chồng đâu. Gió vẫn to, vù vù gầm thét dữ dội và nước vẫn mạnh, réo ầm ầm chảy quanh như thác. Lạc ngước mắt nhìn trời, da trời một màu đen sẫm. Chị đứng ngẫm nghĩ, tà áo bay kêu phần phật như tiếng sóng vỗ mạnh vào bờ. Bỗng trong lòng nẩy ra một ý tưởng, khiến chị hoảng hốt chạy vụt xuống phía đê bên sông. Tới chỗ buộc thuyền, một chiếc thuyền nan, Lạc thấy chồng đương ra sức níu lại cái gút lạt. Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm đợi khi chồng làm xong công việc, mới bước vào thuyền hỏi:

– Mình định đi đâu ? Thức trừng mắt nhìn vợ, cất tiếng gắt.

Lạc sợ hãi ấp úng:

– Con ... nó ngủ.

– Nhưng mình ra đây làm gì ?

– Nhưng mình định đem thuyền đi đâu ?

– Mình hỏi làm gì ? Ði về !

Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động:

– Sao mình khóc ?

– Vì anh định đi vớt củi một mình, không cho tôi đi.

Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:

– Mình không đi được ... nguy hiểm lắm.

Lạc cười:

– Nguy hiểm thời nguy hiểm cả ... Nhưng không sợ, em biết bơi.

– Ðược !

Tiếng “được” lạnh lùng, Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh, nước chảy vẫn dữ, trời mỗi lúc một đen. Thức hỏi:

– Mình sợ ?

– Không.

Hai vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái, vợ bơi. Cố chống lại sức nước, chồng cho mũi thuyền quay về phía thượng du, nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô, khi chìm, khi ẩn, khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son. Nhưng nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ ghì lái, vợ vớt củi. Chẳng bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay trở vào bờ thì trời đổ mưa ... Rồi chớp nhoáng như xé mây đen, rồi sấm sét như trời long đất lở. Chiếc thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu. Hai người cố bơi nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi … Bỗng hai tiếng kêu cùng một lúc:

– Trời ơi !

Thuyền đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp ...

Chồng hỏi vợ:

– Mình liệu bơi được đến bờ không ?

Vợ quả quyết:

– Ðược !

– Theo dòng nước mà bơi ... Gối lên sóng !

– Ðược ! Mặc em !

Mưa vẫn to, sấm chớp vẫn dữ. Hai người tưởng mình sống trong vực sâu thẳm. Một lúc sau, Thức thấy vợ đã đuối sức, liền bơi lại gần hỏi:

– Thế nào ?

– Ðược ! Mặc em !

Vợ vừa nói buông lời thì cái đầu chìm lỉm. Cố hết sức bình sinh, nàng mới ngoi lên được mặt nước. Chồng vội vàng đến cứu. Rồi một tay xốc vợ một tay bơi. Vợ mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Chồng cũng mỉm cười. Một lúc, Thức kêu:

– Mỏi lắm rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi ! Tôi không xốc nổi được mình nữa.

Mấy phút sau, chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh ta rã rời. Vợ khẽ hỏi:

– Có bơi được nữa không ?

– Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.

– Em buông ra cho mình vào nhé ?

Chồng cười:

– Không ! Cùng chết cả.

Một lát … Một lát, nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày. Chồng lại hỏi:

– Lạc ơi ? Liệu có cố bơi được nữa không ?

– Không ? ... Sao !

– Không. Thôi đành chết cả đôi.

Bỗng Lạc rung khẽ nói:

– Thằng Bò, Cái Nhớn, Cái Bé ... Không ! ... Anh phải sống !

Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để mình xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.

––––––

Ðèn điện sáng rực xuống bờ sông. Gió đã im, sóng đã lặng. Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh. Ðó là gia đình bác phó Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã hy sinh vì lòng thương con.

Trong cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng.

Có khi nào

- Hàn Long Ẩn



Có khi nào gió hỏi
Gió thổi từ phương nao
Có khi nào đá hỏi
Đá có tự thuở nào

Có khi nào sông hỏi
Nước từ đâu chảy về
Có khi nào trăng hỏi
Đêm sao dài lê thê

Có khi nào cây hỏi
Một mình sao lẻ loi
Có khi nào nắng hỏi
Vì đâu có mặt trời

Có khi nào mưa hỏi
Mưa phải từ biển xa
Có khi nào mây hỏi
Sao bay giữa thiên hà

●●●

Có khi lòng chợt hỏi
Đời ta đến từ đâu
Có khi không cần hỏi
Hát nhạc Thiền mấy câu ...

Danh ngôn (8)

- Mã Phục Ba



Suốt một đời làm điều thiện, điều thiện vẫn không đủ. Một ngày làm điều ác, thì điều ác tự đã dư thừa.

Bước xuống trần gian

- Hàn Long Ẩn



Ta bước xuống trần gian tìm đâu đó
Những ưu tư những ước nguyện thật gần
Bao toan tính bao lụy phiền theo mãi
Ôm kiếp người mà “mỏi gối chồn chân”
Vì ngũ trược nên đời không là thật
Cuộc vui tàn, nước mắt đọng bờ mi
Danh với lợi chỉ “Trời cho” nói ngược
Hóa kiếp rồi tất cả rủ nhau đi
Mùi khổ lụy mà nào ai có biết
Vẫn tranh giành giẫm nát lên nhau
Khi thất thế mới thấy lòng đau nhói
Thời gian trôi, nước đã chảy qua cầu

Xin khép lại những gì trong ảo mộng
Thắp ngọn đèn trí tuệ của Thích Ca
Nương diệu pháp tựa câu kinh giải thoát
Nghe trong lòng … vọng ... Yết-đế-ba-la ...

Chuyện người đánh cọp

- Phạm Thế Định


Vào cuối năm 1975, số người Việt sống tại Paris tuy không nhiều như sau này, nhưng vì có nhiều nhân vật quái kiệt, mang ít nhiều huyền thoại lịch sử, còn sống tại Pháp, nên giới truyền thông Pháp thỉnh thoảng cho đăng tải trên báo chí một vài điều lạ lùng liên quan đến Việt Nam, coi như một thứ “đặc sản” vùng thuộc địa Đông Dương. Nhiều người Pháp còn mê cái loại hương đế quốc ấy lắm, vì nó nhắc nhở đến giai đoạn “vàng son” của họ tại Á Châu. Giai đoạn mà đồng tiền Đông Dương có giá trị ngang với đồng tiền hoa xoè (con cò) tức ngang giá trị với một quan tiền An Nam.

Vào khoảng cuối tháng 12 năm đó, một số bạn của tôi kiếm được một công việc thợ trong một hãng xe hơi Mỹ tại ngoại ô Paris. Lương khá, điều kiện tương đương với thợ “Tây” là một giải pháp tuyệt hảo cho đám cựu sinh viên du học tại Nhật đang đến Pháp tìm nơi định cư. Nhóm anh em trên Paris gọi điện thoại kêu gọi đám “thôn quê” Strasbourg lên gấp, nếu muốn có việc làm “đàng hoàng”. Nhóm thôn quê chia làm hai, một số quyết định vẫn ở lại Strasbourg, hy vọng thành công trong việc xin quay lại học tại đại học, tôi trong số không mấy tin tưởng vào việc này, lại cần tiền, nên đã xoay sở mua vé xe điện lên ngay thủ đô ánh sáng đi làm “thợ chuyên môn” phục vụ ráp xe hơi trong giàn dây chuyền.

Sau khi được nhận vào làm, vấn đề tài chánh tương đối ổn thoả, bọn tôi kiếm được một căn phòng khá tươm tất để 5-7 người sống chung. Đời sống tương đối ổn định, cuối tuần, mạnh ai nấy tìm thú vui cho riêng mình. Không hiểu sao, tôi lại thích lăng quăng mua vé đi lên khu St Michel, rồi lang thang thả bộ dọc con sông Seine, ghé coi ké mấy quầy bán sách, ngắm nghía cây, phố, người, nhà cửa, rồi quay về mua bánh giò chả tại quán Thanh Bình ăn. Vào những năm ấy, quán bán thức ăn Việt Nam cực hiếm, muốn ăn bánh giò chả, phải đến quán Thanh Bình.

Ăn xong, thường tôi không về ngay, mà ghé quán cà phê trong khu Maubert Mutualité uống bia. Chính tại đây, tôi được nghe “hóng” nhiều chuyện thuộc loại “Lĩnh Nam Chích Quái” tân thời. Những khuôn mặt người Việt tới Maubert thường lại từ những khu Quartier Latin- Saint Germain-Sorbonne. Có những người trẻ, có những người trung niên, và thỉnh thoảng có cả những cụ già. Người thì ăn mặc rất nghệ sỹ, nón cát két, cổ buộc phu la, miệng ngậm bíp. Người lại chỉnh tề như một nhà ngoại giao, còm lê, cà vạt, lưng thẳng, giầy đánh bóng. Người lè phè, kẻ kỹ lưỡng. Họ như biết nhau cả, nhưng thân mà không thân. Đủ mọi thứ được họ nói ra bàn cãi, người chừng mực, kẻ báng bổ, người bênh cộng sản, kẻ chửi cộng sản. Người nói, có kẻ nghe và phản bác tại chỗ. Xong một đề tài gay gắt, mạnh ai nấy mắt lườm lườm có vẻ tức tối, nhưng kềm hãm, tìm ra một cái bàn rồi ngồi trầm ngâm trước khi trở lại tranh luận một đề tài khác. Ngày đó, cái cộng đồng người Việt cũng phức tạp như đất nước quê hương xa tít đang tù mù ở cõi hỗn mang thời cuộc, nhưng nhờ có luật pháp xứ người nên ít chuyện bạo lực xảy ra hơn.

Tôi thường chọn cái bàn xa chỗ họ tranh luận, gần vừa đủ để có thể theo dõi những tin tức, nhưng không bị vướng buộc vào câu chuyện. Nhờ đó, vừa nhâm nhi cốc bia sủi bọt lạnh, tôi đã biết được bằng cách nào mà người ta có thể gặp và chiêm ngưỡng cựu hoàng Bảo Đại rất lâu, khoảng một đến hai tiếng, mà chỉ tốn khoảng vài quan, trong khi có nhiều người muốn gặp “Ngài” phải mất cả mấy ngàn quan, chỉ được “Ngài” tiếp khoảng 10 phút, mà đã coi như được diễm phúc, thoả mãn cả đời. Rồi từ chuyện con gái Đề Thám hiện nay ở đâu, lan đến câu chuyện muốn “đi chơi” một đêm với một ca sỹ nổi tiếng mới từ Việt Nam trốn qua, tốn bao nhiêu tiền. Qua tới chuyện từ ga St Michel đi metro nào để đến quận 13, ghé thăm ngôi nhà cũ của luật sư Phan Văn Trường, ở chung với Phan Chu Trinh, và cho Nguyễn Tất Thành ở tạm, tại đường Gobellins …

Hầm bà lằng mọi chuyện như vậy được quán cà phê loại này tại Maubert tung ra, nghe như hổ lốn khó tin, nhiều khi vớ vẩn, nhưng chúng thỏa mãn được cơn buồn nhớ quê hương, sự khát tin, nỗi cô đơn, sự xa lạ … trong cuộc sống xứ người của họ. Có một ông trung niên, nói giọng tiếng Nam, vào khoảng giờ tôi đến đây, thường đẩy chiếc xe lăn chở một vị hòa thượng già lắm, ít nhất là trên dưới 80 tuổi. Ông này lúc nào cũng ngồi uống bia trong khi cụ hòa thượng chỉ ngồi lần tràng hạt. Nhưng không phải ông kia muốn đến quán uống bia, mà chính vị hòa thượng muốn đến để hóng chuyện quê hương như tôi vậy.

Một hôm, tôi nghe ông kia nói với vị hòa thượng:

- Bạch thầy, con cám ơn thầy vẫn không nài tuổi tác cao, tuần nào cũng tới châm cứu cho cha của con. Nhưng sao thầy không chịu cho con đẩy thầy về chùa nghỉ , thầy đang mệt lắm, ra đây nghe toàn mấy chuyện khoác lác, đầu gà đít vịt, làm sao mà tin cho được.

Vị hòa thượng lắc đầu, trả lời:

- Không có đâu, chuyện họ nói, mười phần thật tới bảy tám, có đâu khoác lác. Họ đâu có thì giờ huởn mà ra đây kể bậy, kể bạ. Đó là một cách kể chuyện ngày xưa, nói chuyện đời nay, mà ở quê mình vẫn có đó.

- Trời ơi, chuyện gì chứ mấy cái chuyện “cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” đó ai mà tin được. Ở Việt Nam làm gì mà có chuyện có võ nghệ cao đến nỗi đánh được cọp. Thầy đừng tin, con thấy báo chí đăng, người Việt lên võ đài đấu lần nào thua lần đó. Kiểu như kể chuyện lịch sử vua Quang Trung đánh thắng quân Thanh vậy. Chắc có ít xít ra to, quân Thanh chắc mang chừng vài ngàn quân qua đánh thôi à …

- Chuyện vua Quang Trung thầy không rõ, chứ chuyện đánh cọp thì có thật. Mà là nhà sư đánh cọp nữa. Nhờ đó mới có thầy, rồi tới giờ này vẫn tuần nào cũng tới nhà con mà châm cứu đó. Thầy chắc cũng có duyên ngày hôm nay, muốn kể cho con và cậu nhỏ này nếu muốn, nghe luôn.

Vị hòa thượng chậm rãi nói rồi quay qua tôi. Tôi bối rối vì bị bắt gặp đang nghe trộm, nhưng trả lời:

- Dạ, con xin nghe hòa thượng.

- Vậy thì, các con đẩy ta từ từ ra ga đi. Từ đây đến đó đường đủ dài cho xong câu chuyện.

● ● ●

Cách đây chừng gần 80 năm ở gần núi Ổ Gà (mà bây giờ người ta gọi là Phú Như) gần tỉnh lỵ Nha Trang bây giờ, có một cái làng gồm chừng mấy chục nóc gia. Trong làng có một gia đình họ Đặng chuyên sống bằng nghề mua bán gỗ và trầm hương. Họ có tám người con gái và một người con trai. Người làng gọi người con trai là cậu Tám Hoang. Cậu Tám Hoang nhờ vào sự giàu có của gia đình, nên ăn chơi bặt thiệp. Mấy thanh niên trong làng vì muốn theo đuôi, ăn ké tiền cậu Tám Hoang nên cậu ta bảo gì cũng nghe. Họ thường tụ họp nhau, chạy ngựa lên huyện, lên phủ ăn chơi, nhậu nhẹt.

Cậu Tám Hoang phải lòng một cô gái trong làng tên là Yến, cô này tuy nhỏ con nhưng đẹp lắm, mắt to, mũi cao. Mà cô Yến đặc biệt cái là tính nết kiêu kỳ, thích học và đọc sách. Hai nhà coi như đã đồng ý chuyện cưới hỏi. Chỉ chờ cậu Tám thi xong, đậu rớt gì cũng làm đám cưới. Cậu Tám lên kinh học thi tại một nhà họ với một quan lớn thuộc dòng phụ của hoàng tộc. Chẳng ngờ cậu Tám ham chơi hơn học, cậu thường tuyên bố với các bạn: “Mấy ông học cho lắm, đậu cao thì cũng chỉ làm quan, lương bổng được bao nhiêu, quyền hành còn phải phụ thuộc quan Tây. Như nhà tôi đây, làm việc thẳng với nhà buôn Tây, quen biết rộng, tiền bạc còn với rừng, chỉ khi nào rừng hết cây, nhà mới hết tiền …” Bạn bè ai cũng bực mình, ghét trong lòng, nhưng chỉ để bụng. Cậu Tám thấy vậy càng hách dịch, tự mình coi như là trưởng tràng.

Tới sau cậu Tám Hoang vài tháng, có một thư sinh từ Thanh Hóa vào kinh trọ học. Thư sinh họ Lê này trắng trẻo, thông minh, đẹp trai nhưng phải tội nghèo. Thầy nhận học không lấy tiền ăn, tiền trọ, vì quen với cha của anh ta thuở ông này còn sống làm quan tại kinh. Một buổi nọ, thư sinh này vào lớp, chào hỏi nhiều người, nhưng sót cậu Tám Hoang, vì cậu Tám vắng học nhiều ngày trước nên không nhớ mặt. Cậu Tám Hoang tuy không nói ra, nhưng trong lòng để bụng thù họ Lê.

Cậu Tám ăn chơi quá, tối ngày ngủ đò rồi uống rượu, sinh ra bệnh thương hàn mê man. Thầy đành phải cho người đi cùng để đưa cậu Tám về làng. Người được chọn, chẳng ai khác lại là Lê Sinh. Lê Sinh biết nghề thuốc và có võ nghệ, đi đường chăm sóc cho cậu Tám, nên bệnh tình cậu này thuyên giảm mau. Nhưng cậu Tám, không vì thế đổi lòng thù thành tình bạn. Về đến làng quê cậu Tám, Lê Sinh được nhà cậu này cho ở một túp lều tranh nhỏ, chờ khi cậu Tám khoẻ hẳn sẽ cùng về kinh lại. Lê Sinh chăm đèn sách, và tối nào cũng mang thanh tre của mình ra tập võ nghệ.

Có hai thiếu nữ trong làng có cảm tình với người thư sinh nhưng giỏi võ, mà trắng trẻo đẹp trai này. Đó là cô Yến và cô út em cậu Tám. Cô Yến thường hay qua nhờ Lê Sinh giải nghĩa cho những sách học, và truyện của mình. Cô út em cậu Tám, năm đó 17 tuổi, học võ với nhà sư trụ trì ngôi chùa tên là Thanh Minh Tự, đêm nào cũng lén qua nhìn Lê Sinh luyện võ.

Người dân tại làng hầu hết đều làm việc cho gia đình cậu Tám và gia đình cô Yến. Làm cho nhà cô Yến tuy mệt và chân lấm tay bùn, nhưng ít bị nguy hiểm. Nhóm người làm việc cho gia đình cậu Tám phải vào rừng tìm gỗ quí và trầm hương, công việc gian nan, nguy hiểm, nhưng thù lao lớn. Gặp may, chỉ cần vào rừng vài tháng là đủ sống sung túc cả năm. Lần đó, Lê Sinh nghe tin, toán đi vào rừng đốn củi và tìm trầm hương bị cọp tấn công tại thung lũng Buồng Tầm. Một người thợ bị thương nặng được mang về chùa nằm, sư phụ trụ trì chùa Thanh Minh vì biết Lê Sinh có nghề thuốc cao tay, nên cho người mời Lê Sinh lên cùng chữa cho bệnh nhân.

Trong lúc chung tay chữa bệnh, nhà sư và Lê Sinh trò chuyện rất tâm đắc. Lê Sinh biết được nhà sư họ Trần, chắc phải có một quá khứ đặc biệt, vì mặc dù rất thông bác, võ thuật tuyệt cao, y học cũng vào mức cao thủ, nhưng sư không màng gì chuyện nhân thế. Sự khác biệt giữa Lê Sinh và nhà sư ở chỗ nhà sư đã nhập vào cõi ngoài sự sống người thường. Nhà sư cho rằng: “Cái họa mà con người bị hổ vồ và giết là do từ chính người ta. Vì tham tiền, đã vào rừng sâu, chỗ sinh sống của hổ, nên bị hại, là cái nhân xấu …” Lê Sinh nghĩ khác: “Đành rằng là vậy, nhưng con người vì nghèo quá mà phải chấp nhận nguy hiểm nhằm nuôi sống vợ con. Bảo vệ sinh mạng của người vẫn quan trọng hơn là bảo vệ sinh mạng của hổ.”

Toán người vào rừng tìm gỗ lại lên đường trở lại núi Ô Gà trong vài ngày nữa. Lần này Lê Sinh tình nguyện đi theo để bảo vệ người đi rừng, vì đám cọp đói đã lâu, vừa bắt hụt người, hẳn kỳ này rất hung dữ. Cô Yến nghe tin, không màng lời dị nghị tới tận túp lều của Lê Sinh tìm cách cản ngăn. Cô không ngần ngại tỏ lòng đã yêu thương và kính phục Lê Sinh. Cô khóc lóc, và cho biết nếu Lê Sinh rút lại quyết định không đi theo đoàn, cô sẽ xin với cha mẹ hủy lời hứa hôn nhân với Tám Hoang, và theo Lê Sinh về kinh. Lê Sinh tuy trong lòng đã yêu cô Yến, nhưng khi nghe cô Yến thố lộ rằng hai gia đình bạn mình và cô Yến đã hứa kết thông gia với nhau, chàng đã phải dứt khoát nói với cô Yến rằng, chàng sẽ giữ ý định vào rừng và sau đó sẽ lên đường về kinh cho kịp ngày giờ chuẩn bị kỳ thi. Cô Yến nghe vậy, ngỡ là Lê Sinh khinh rẻ mình, đổi tình thành oán, về nói với cậu Tám Hoang rằng Lê Sinh đã tìm cách tán tỉnh cô ta, và rủ rê cô trốn nhà về kinh. Cậu Tám Hoang nghe kể, máu ghen hòa nổi ghét bốc lên ngùn ngụt. Cậu nghĩ ngay ra độc kế để hại Lê Sinh kỳ này không trọng thương cũng chết mất xác vì hổ. Chiều hôm đó, cậu cho người kêu toán thanh niên tình nguyện đi bảo vệ đoàn với Lê Sinh vào, dặn họ chờ khi vào gần lũng Buồng Tầm, thì bỏ nấm độc liều nhẹ vào thức ăn của Lê Sinh. Rồi khi gặp cọp phải ùa chạy đi, bỏ Lê Sinh lại một mình, đã yếu lại cô thế, kỳ này chắc chắn phải bỏ xác cho cọp ăn. Toán thanh niên trong lòng bất nhẫn nhưng không dám trái lời cậu Tám Hoang. Họ lắc đầu than thở, rồi rủ nhau lên chùa khấn vái, xin thứ cho cái tội bất đắc dĩ mà phải đồng lõa với vụ sát nhân này.

Mọi điều kể trên đều không qua khỏi mắt cô em út của cậu Tám Hoang. Cô này vì yêu thương Lê Sinh, đã theo dõi hành tung cô Yến ngay từ phút đầu. Cô út suy nghĩ rất lâu, phân vân giữa chuyện báo cho anh trai mọi chuyện, hoặc báo cho Lê Sinh biết chuyện. Cách nào rồi thì cũng gây hậu quả nghiêm trọng cho một ai đó, kể cả cô, mà chưa chắc người ta đã tin lời cô kể. Cô út bí quá, đành phải đến chùa, tỏ hết mọi chuyện cho nhà sư, và xin ông giúp cho cách gỡ rối hay nhất. Nhà sư nghe xong, nhắm mắt ngẫm nghĩ, rồi bảo: “Con cứ về thu dọn quần áo, rồi xin với cha mẹ vắng nhà vài hôm để lên chùa luyện võ, thầy trò mình sẽ đi theo đoàn mà bảo vệ cho Lê Sinh.”
Cô út nghe xong, mừng rỡ lắm, cứ theo kế đó mà làm.

Mọi chuyện diễn ra gần như cậu Tám Hoang đã tính và xếp đặt. Chỉ có điều khác biệt là đám thanh niên đã cho rất ít nấm độc vào phần ăn dành cho Lê Sinh. Quả là con hổ đói vẫn còn đó để rình mồi. Khi nó nấp trong rừng xông ra, Lê Sinh vác thanh côn chạy lên thì bị cơn đau bụng đến bất chợt. Mặc dù mồ hôi tuôn ra đầy trán, nhưng Lê Sinh vẫn gắng chạy tới đối đầu với con mãnh thú. Đúng lúc thập tử nhất sinh đó, nhà sư và cô út xuất hiện ngay, vì hai người đã giả trang thành hai người thợ đi theo sau đoàn. Nhà sư thét bảo cô út lo cho Lê Sinh, còn nhà sư tìm cách đánh chận và đưa con hổ ra xa đoàn người. Chẳng ngờ, khi Lê Sinh đã tìm cách nôn thức ăn ra, uống kịp thuốc giải độc, thấy nhà sư vừa đánh vừa dẫn con hổ chạy ra xa, chàng hiểu ngay là nhà sư không muốn ra hết sức đánh hổ. Như vậy thật là nguy hiểm cho nhà sư. Mặc dầu cô út tìm cách ngăn cản, Lê Sinh cũng chạy đuổi theo con hổ và nhà sư. Đến sát bìa rừng, chàng thấy nhà sư đã không còn đánh nữa mà chỉ tìm cách tránh né. Lê Sinh vác thanh côn đến rồi lừa thế đập mấy đòn chí tử vào con cọp. Con mãnh thú đã mệt lả, nay bị thêm vài cú, không còn sức đâu mà đánh đành lùi lại bỏ chạy vào rừng. Lê Sinh, nhà sư cùng cô út về lại chùa, còn đoàn người lại tiếp tục vào sâu trong núi.

● ● ●

Vị sư cụ kể đến đó rồi hơi quay đầu nói với người đàn ông:

- Con và ta đều là cháu chắt của cậu Tám và Lê Sinh hết, con biết không ? Lê Sinh sau này lấy cô út, một thời làm quan rồi dời vào Nam sinh sống và qua Pháp, cha của con chính là con của Lê Sinh. Còn ta là con út của cậu Tám Hoang và cô Yến. Chuyện này là do má ta, tức cô Yến kể lại đầu đuôi cho ta, lúc sắp chết, nên không thể nào sai hay bịa được. Oan nghiệp trùng trùng, có cột phải có gỡ. Như chuyện ngày nay ta kể cho con và cậu nhỏ này nghe cũng chỉ nằm trong dòng duyên nghiệp karma mà thôi.

Tôi chia tay với vị sư cụ và ông họ Lê kia, và lần đó là lần cuối tôi gặp lại họ. Nhưng vài năm sau, đọc báo thấy có hình ông họ Lê với hàng chú thích là một giáo sư đại học khá nổi tiếng trong giới nghiên cứu khoa học.

Hai mặt

- Thích Tánh Tuệ



SỰ THẬT có 6 chữ
GIẢ DỐI cũng 6 luôn
Mặt trái và mặt phải
Trắng đen ôi khó lường

TÌNH YÊU có 7 chữ
PHẢN BỘI cũng thế thôi
Chúng là hình với bóng
Rất dễ dàng đổi ngôi

Chữ YÊU là 3 chữ
HẬN là ba, giống nhau
Người say men hạnh phúc
Kẻ thành Lý Mạc Sầu

BẠN BÈ có 5 chữ
KẺ THÙ đếm cũng năm
Hôm nao lời ngọt mật
Hôm nay chìa ... dao găm

Từ VUI có 3 chữ
Tiếng SẦU cũng đồng như
Quá vui thường mất trí
Mất trí đời đổ hư

Chữ KHÓC có 4 chữ
CƯỜI cũng vậy, giống in
Ai “giòn cười, tươi khóc”
Ấy cảm thọ nhận chìm

Cuộc sống là hai mặt
Giới tuyến một đường tơ
Chấp nhận mà không vướng
Nhẹ bước qua hai bờ

Ăn mày cửa Phật

- Lam Khê


Chùa xây theo lối kiến trúc vừa cổ kính vừa hiện đại, có sân trồng hoa kiểng, có Đông lang Tây lang làm nhà chúng, và có cả tầng hầm làm nhà kho nhà bếp và nơi để xe của quý cô.
Chùa khánh thành xong, mở nhiều khóa tu nên Phật tử lui tới đông đúc. Buổi sáng khi công việc bếp núc thu dọn xong là quý cô rút hết lên lầu. Lúc này khu tầng hầm là nơi vắng vẻ yên tịnh hơn cả.

Chùa to Phật lớn nên bọn trộm vặt thường thừa cơ lẻn vào. Để đối phó, nhà chùa buộc phải nuôi chó. Thế là mấy chú chó ta, chó Nhật có mặt trong tầng hầm đủ để hình thành một đội quân hùng mạnh trấn áp kẻ gian. Lại có cả một đàn mèo ung dung chiếm giữ một góc an toàn nơi xó bếp. Lũ mèo này bị bỏ rơi trước cổng chùa từ lúc mới chào đời, quý cô thương tình đem vào nuôi cho làm bạn với bầy chó. Đáng ngại nhất là lũ chuột cống kéo tới trú ngụ khắp mọi ngóc ngách nơi tầng hầm. Mèo trở thành khắc tinh, là mối đe dọa trực tiếp làm giảm bớt sự sanh sản thái quá của bầy đoàn nhà chuột chuyên nghề phá phách này.

Mấy chú chó cưng được nuôi nấng có phần biệt đãi đàng hoàng hơn hẳn. Bởi lẽ nhiệm vụ giữ chùa coi xe của chúng cũng rất nặng nề. Thường thì bầy chó lui tới ở tầng hầm và được một cô quản gia chăm sóc tận tình chu đáo. Cách vài ngày, bầy chó được tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm. Đêm ngủ có lót chăn, lại được mặc áo khi trời trở lạnh. Thức ăn ngoài cơm rau, còn có thịt cá. Thỉnh thoảng chúng lại được no nê một bữa với xương heo giò chả của Phật tử chùa mang đến. Nhiệm vụ của chó là canh giữ kẻ gian. Nhưng thường thì chúng sủa toáng lên khi nghe tiếng xe máy của quý cô ra vào. Xem ra chúng không phân biệt được người quen kẻ lạ. Mà có lẽ mấy chú cẩu nhà ta cho mình là chủ nhân ở đây, nên thích quấy quá đôi chút cho đỡ phần vắng vẻ cô quạnh.

Quý cô trong chùa thường bảo nhau: “Thong dong như mấy o mèo”, quả là mấy ả mèo nhà ta suốt ngày chỉ quanh quẩn bên bếp lửa hoặc nằm dài trên đống tro tàn hết sức hồn nhiên tự tại. Chúng chẳng bận tâm đến điều gì ngoài việc ăn rồi ngủ, không làm nên tích sự gì, ngay cả việc thị uy với lũ chuột cũng không thể. Mèo vốn là loài bắt chuột. Nhưng đám mèo của chùa quá nhu mì lại gầy ốm. Còn lũ chuột tinh quái thì to béo như gã lực sĩ đang thời sung sức. Mèo không thể làm gì chuột nên lâu ngày nó cũng mất dần bản năng rình mồi. Quý cô bảo mèo ở chùa ăn chay nên không thích sát sanh. Mà quả vậy. Cả ngày mèo cứ nằm lim dim ra chiều tư lự, mặc cho lũ chuột có chạy ngang trước mũi, mèo cũng dửng dưng chẳng thèm để mắt tới.

Tầng hầm trở thành nơi ở lý tưởng và an toàn nhất cho cả bầu đoàn thê tử nhà chuột. Ở đây chúng mặc sức lộng hành quậy phá mà chẳng sợ một thế lực nào đe dọa. Chúng không sợ đánh bả, dính keo, không sợ bẫy… vì nhà chùa từ bi có bao giờ sử dụng những món ấy. Còn mấy chị mèo dù có nhởn nhơ qua lại trong bếp, chuột cũng chỉ xem đó là những hình nộm biết đi, chẳng đáng quan ngại. Ở đây chúng có cả một kho lương thực dồi dào nên không sợ đói khát. Kho gạo và thức ăn rau cải lúc nào cũng đầy ắp. Dù quý cô cất giữ cẩn thận cách nào, chuột cũng đánh hơi đục khoét moi ra cho bằng được. Ngay cả mấy thùng rác to tướng cũng được chúng chiếu cố tha hồ tìm kiếm những món ăn khoái khẩu.

… Có nhà văn tu sĩ thích ngao du đây đó để tìm ý tưởng. Một lần viếng chùa, tình cờ nhà văn nhận ra sự chung sống hòa bình thân thiện của bầy gia súc với lũ chuột cống đã phải ngạc nhiên thốt lên: “Quả là khung cảnh yên bình tịnh lạc !”

Nhà văn thích thú khi trông thấy chú chó Bắc Kinh trắng trẻo đang vuốt ve ả mèo Tam Thể xinh xắn. Xưa nay mèo chó vốn chẳng ưa gì nhau, dù sống chung mái nhà, chúng cũng làm mặt lạnh xa cách, có khi còn ẩu đả loạn xị cả lên. Ấy vậy mà, cả bầy chó mèo ở chùa lại tỏ ra hết sức thân mật. Lũ chuột dù không nhận được sự thịnh tình này, song cũng mặc nhiên chơi đùa rượt đuổi cắn la chí chóe.

Nhưng xem kìa. Nhà văn dỏng hai tai lắng nghe cuộc đấu khẩu giữa ba nhân vật chính đang có mặt tại tầng hầm. Nhà văn vốn có giác quan thứ sáu, nên nghe được cả tiếng nói của loài vật. Mấy chú chó đánh chén no nê những đĩa thức ăn đầy thịt thì ưỡn bụng đi nằm. Một cô mèo từ nhà bếp đi ra. Mèo ta cảm thấy đói bụng. Trong đĩa chỉ còn cơm trộn lẫn với rau xanh. Quý cô vẫn trộn rau vào thức ăn chó để chúng tập quen với việc chay lạt. Mèo vốn ăn chay, nên chẳng lấy gì làm phiền lòng. Cô ả chậm rãi từ tốn ăn vài miếng rồi đi nằm. Lúc này một bầy chuột nối đuôi nhau ra tiếp nhận bàn tiệc. Thật là một lũ háu ăn vô lễ lại mất trật tự. Chúng tranh ăn tranh nói làm cơm vương vãi tứ tung. Chỉ khi nghe bước chân quý cô đi xuống cầu thang, đàn chuột mới giật mình chạy biến vào trong.

Bữa tiệc đã xong. Cơm trắng vãi đầy trên nền gạch. Lũ chuột no nê, nên bắt đầu giở trò ranh mãnh, cắn đuôi rượt đuổi chạy quanh bếp. Cô mèo bị quấy rối liền mở to mắt ra quát tháo:

- Này cái lũ chuột gớm ghiếc kia. Tổ tiên ba đời nhà mi trông thấy ta còn phải sợ chết khiếp, chứ đâu có cái hạng nghênh ngang vô lại chẳng xem trời đất ra gì. Ta đã không thèm đếm xỉa tới mà còn không biết thân biết phận. Coi chừng có ngày ta cũng sẽ tóm cổ tiêu diệt bằng hết cái đồ thối tha phách lối đó.

Gã chuột cống to lớn có vẻ bất ngờ trước mấy lời gay gắt của chị mèo, nhưng hắn ta vốn lém lỉnh già đời, biết mèo chỉ mạnh miệng nói chứ không làm gì nên điềm tĩnh trả lời:

- Ái chà ! Chúng tôi chỉ đùa chơi chốc lát cho vui thôi, chị mèo ạ. Họ hàng chuột nhà tôi vốn mang tiếng là bọn sống chui rúc, phá phách quen rồi. Bản chất của chuột là vậy, biết làm thế nào. Chúng tôi cũng biết thân biết phận chứ nào dám đâu nghênh ngang xem thường chị.

Mèo càng tức khí:

- Hừ ! Đúng là một lũ lẻo mép láo xược. Hãy cút mau, đừng để ta nổi giận …

Chuột lại chu mỏ:

- Ôi ! Chị làm gì mà dữ thế. Chúng tôi chỉ ăn ít cơm thừa rồi đi ngay, chẳng cần chị phải xua đuổi. Chị bảo tôi là thứ ăn hại. Còn chị suốt ngày cũng chỉ ăn rồi ngủ lì ra đấy thôi.

Mèo vụt đứng lên, vươn móng vuốt ra hăm dọa:

- A, mi còn dám lên giọng với ta nữa hả. Cái lũ chuột già mồm này …

Lũ chuột con bỏ chạy hết vào kho củi. Chỉ còn gã chuột đầu đàn gương mắt nhìn mèo thách thức:

- À, chị đừng cho là tôi ưa lý sự nhé. Tôi cũng đâu muốn chọc giận chị để rồi phải chuốc họa vào thân. Dòng họ chuột tôi với nhà mèo chị vốn có mối thù truyền kiếp, đời thuở nào mèo lại dung thứ cho chuột. Nhưng ở đây, dưới mái chùa từ bi độ lượng, chúng tôi được sống yên ổn, no đủ. Chuột tôi dù là loài vật cũng biết nghĩ đến ân đức hiếu sanh của mấy chị mèo ...

Chú chó xám to lớn vạm vỡ nãy giờ vểnh tai nghe chán thì bực mình vội lên tiếng bảo mèo:

- Này cô mèo, nói làm chi cho nhọc sức. Cứ dạy cho tên nhãi ranh đó một trận là xong chuyện.

Thấy mèo làm thinh, chó lại chướng mắt nói khích:

- Cái lũ mèo nhà cô quả là biếng nhác vô tích sự. Ăn bao nhiêu là cơm chùa mà chẳng bắt nổi một tên chuột nhắt …

Mèo bản tánh hiền lành nên chẳng hứng thú gì ba cái chuyện đấu đá tranh cãi, song chị ta vẫn đáp trả:

- Ơ, thì cũng như bác suốt ngày chỉ biết sủa vang để hù mèo dọa chuột cho có lệ chứ được gì nào.

Chuột lúc này quay sang nhìn chó với cặp mắt láo liên:

- Anh chó xám ăn ngon vô sự bây giờ lại muốn gây chuyện với tui nữa à ?

Chó trợn mắt:

- Ta mà thèm gây chuyện với lũ chuột hôi hám nhà mày. Ở đây ta là chủ. Cút ngay cho rảnh mắt ta, cái đồ súc sanh ăn hại ...

Chuột cười khỉnh:

- Tụi tui và giống nòi nhà anh cùng một loài súc sanh như nhau cả thôi. Mấy anh được ăn trên ngồi trước, cậy thế hống hách ra oai, rốt cuộc cũng chỉ là những con vật, là một bọn ăn mày nơi cửa Phật ...

Chó trợn mắt nạt:

- Cái gì ... là ăn mày cửa Phật. Ta được ăn cơm thịt cá ngon lành, chứ có ăn đồ cặn bã cống rãnh như bọn mày.

Chuột gật gật đầu:

- Là tui nói theo lý nhà Phật. Người nương cửa chùa, ăn cơm chùa được người ta gọi là những kẻ ăn mày cửa Phật. Loài vật cũng vậy thôi. Nhưng xét ra thì chúng tôi vẫn có ích hơn mấy anh nhiều. Chúng tôi chỉ ăn cơm và thức ăn dư thừa. Còn anh, nhà chùa nuôi tốn biết bao cơm thịt của đàn na mà cứ để xảy ra trộm cắp. Mấy anh chỉ ăn lấy phần ngon, cơm thiêu cơm dở thì chừa lại, lũ chuột tui phải lượm ăn cho hết. Như vậy chẳng phải là gánh bớt tội lỗi cho các anh sao ?

Chị mèo nghe vậy thì cười gằn:

- Giống chuột nhà mi thì có lắm trò ma mãnh quỷ quái. Ngay đến bàn Phật, mi cũng dám mò lên cắn phá, ăn sạch trái cây chưng cúng. Vậy mà còn dám nói đến tội lỗi, dạy đời kẻ khác …

Chuột vẫn vênh váo:

- Ậy, chị mèo ơi ! Chị thừa hiểu bọn chuột là giống vật ưa phá bĩnh lại tinh quái vào bậc nhất thiên hạ mà. Đến con người còn kiêng nể không dám gọi tên tục của bọn tui ra nữa đấy. Nhờ đi lại khắp nơi nên tui cũng hiểu biết nhiều điều thú vị. Tôi leo lên tới chánh điện nhà Tổ ở tầng ba, nơi chưng toàn trái cây tươi ngon. Và tôi đâu thể bỏ qua cơ hội được hưởng chút lộc Phật. Tui còn được nghe quý thầy giảng pháp. Còn mấy anh chị tối ngày chỉ quanh quẩn nơi xó bếp tầng hầm thì làm sao thấy được trời đất bao la đến nhường nào …

Chú chó phóc từ bên ngoài chạy vào, nghe chuột đang khua môi múa mỏ với vẻ dương dương đắc ý liền nổi xung nhảy bổ tới. Chuột thất kinh hồn vía vội chạy biến vào nhà kho. Nhiều tiếng chí chóe kêu inh ỏi một hồi rồi mới im bặt.

Nhà văn tu sĩ lúc này như người vừa ra khỏi giấc mơ, ngơ ngẩn nhìn gian nhà bếp vắng lặng trong giờ chỉ tịnh. Thật thú vị. Nhà văn lẩm bẩm:

- Mình sẽ viết lại cuộc đấu khẩu lạ lùng giữa ba con vật khắc tinh này. Chúng chung sống hòa bình dưới mái chùa, dù thỉnh thoảng cũng xảy ra những cuộc cãi vã to tiếng. Ừ ! Chén bát trong chạn còn khua vang nữa là. Mà cái anh chàng Tí thật ranh mãnh, dám múa môi ngay trước miệng mèo. Quả là bọn tếu táo. Hắn ta lại cho mình nằm trong đoàn thể những kẻ ăn mày cửa Phật, có quyền hưởng lộc Phật. Ý tưởng này mới lạ lẫm làm sao.

Tâm tư cảm kích, nguồn cảm hứng dâng trào, nhà văn yên lặng suy nghĩ ra chiều tâm đắc. Ờ ! Ta cũng là kẻ ăn mày nương nhờ cửa Phật. Kẻ ăn mày tự cho mình có thân tướng trượng phu, có đầy đủ phước đức, có niềm tin và tuệ giác hơn người nên có quyền thụ hưởng tài lộc của người mang tới. Và ta trả nợ người bằng những bài thuyết pháp thao thao bất tận, bằng những lời kinh tụng thuộc lòng như ăn cháo, và bằng những bài viết thấm đẫm giáo điển sâu xa. Ta mở tung mọi cánh cửa tu tập giải thoát cho người bước vào, còn mình thì mải mê theo đuổi những chân trời ảo mộng, nắm bắt hư danh.

Đến một lúc nào đó, kẻ ăn mày cửa Phật cũng sẽ sớm nhận ra hạt viên minh châu tỏa sáng nơi tự tâm, chấm dứt một đời cùng tử lang thang vào ra cõi tạm.

Như Phật

- Thích Tánh Tuệ



Em hãy NHÌN NHƯ PHẬT
Ánh mắt Từ mênh mông
Nhìn người và nhìn vật
Với chan hòa, cảm thông

Em hãy NGHE NHƯ PHẬT
Nghe với tình bao la
Khi lòng không biên giới
Hiểu, thương đời sâu xa

Em hãy CƯỜI NHƯ PHẬT
Nét bao dung, hiền hòa
Nụ cười Chân-Thiện-Mỹ
Làm đau thương ... xóa nhòa

Ta hãy NGỒI NHƯ PHẬT
Trầm hùng tựa núi cao
An nhiên và bất động
Giữa cuộc trần lao xao

Rồi ta ĐI NHƯ PHẬT
Bước an lành, thảnh thơi
Muôn lối bừng hoa nở
Làm đẹp thêm cuộc đời

Và ta ... THỞ NHƯ PHẬT
Thở chậm và thở sâu
Để nghe từng mạch sống
Có bình an, nhiệm mầu

Mình là con của Phật
Nhiều, ít nên giống Người
Nơi nào ta có mặt
Có Niết Bàn, an vui

Trích: “XIN CHO GIẤC MƠ CHẮP CÁNH BAY”

- Cư sĩ Liên Hoa

Quán trọ bên dòng đời, chiều buông xuống
Ngồi lặng im giữa gió cát xôn xao
Mảnh tâm phù vân, vo tròn hạt bụi
Nỗi niềm riêng, mây trắng ngả vô tình

Ta vẫn ước gọi ngàn trùng khuya sớm
Dấu chân trần nghe ngày tháng vô tư
Mở cửa sáng để gió lùa thanh thản
Góc chiều về, dạo vườn đón thu sang

Chợt khao khát nằm yên trên cõi vắng
Để sa mù mất dấu vết tầm truy
Nghe lá rơi, nhìn nắng rọi sân vườn
Có tiếng hát vọng vang trời bốn bể

Nhưng em ơi, vai nặng gánh vô thường
Mắt vẫn sáng đếm hồn thơ vũ khúc
Trải lá vàng để giấc ngủ bình yên
Và em cười, hôn nhẹ cõi chân tâm


Con người sống trong xã hội bây giờ chỉ biết lo cho bản thân, tiểu gia đình, ngoài ra ít biết đến ai. Nếu ai đã từng có dịp sống ở Sài Gòn hay một thành phố nào khác cũng sẽ cảm nhận được nỗi bơ vơ của mình và sự lạnh nhạt của mọi người. Có chiều buồn chạy xe dạo phố trên những con đường phồn hoa đô thị người người đông đúc ồ ạt qua lại,
mà ta không biết mình đang đi đâu về đâu và làm gì. Đi giữa hàng triệu người tấp nập như vậy mà ngỡ như mình đang bị lạc vào rừng sâu không một bóng người.

Thời thượng cổ, con người sống dưới sự đe dọa của thiên tai bão tố, thú dữ rừng hoang, nên cảm thấy trong mình luôn mang nỗi khiếp sợ, cô đơn bất an lạ lùng trước những hiện tượng siêu nhiên của vũ trụ. Thay vì sống rải rác khắp đó đây, con người đã biết đoàn kết hợp lại thành những nhóm người để biết bảo vệ và tranh đấu trước sức mạnh của những hiện tượng xung quanh. Từ đó, tư duy dần thay đổi, từ hình thức sinh hoạt hái lượm, săn bắn, con người đã biết chăn nuôi trồng trọt và giao lưu thương mại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều ngôi nhà được cất lên, chợ búa phát triển, cuộc sống được cải thiện về mọi mặt.

Từng là một nhóm bộ lạc lẻ tẻ, con người đã biết lập thành một quần chúng xã hội ở một địa bàn an toàn trên mảnh đất tươi tốt tạo thành một vòng đai ở phạm vi nhất định để sống an hòa với thiên nhiên, thảnh thơi tâm tình, ổn hợp với hoàn cảnh hiền dịu. Tâm hồn ấy biểu hiện ra thành một phong thái nhàn nhã chung. Ấy thế, không biết độ bao giờ những tập tục văn hóa, trò chơi dân gian, lễ nghi, tôn giáo, luật lệ ... hình thành, làm cho trí óc con người mở mang thêm, ý thức được các giá trị văn hóa cội nguồn tương giao cuộc sống giữa tình nghĩa gia đình, đồng bào, làng xóm, láng giềng … càng gắn bó đoàn kết sâu đậm để vui sống cho lãng quên sự cô độc của kiếp người.

Bây giờ, nếu có ai hỏi tại sao lại có xã hội loài người, tất nhiên câu trả lời là từ trước đến nay con người chưa bao giờ muốn sống riêng lẻ, cô độc, mà chỉ muốn sống chung để hiểu thương và bảo vệ nhau. Nhiều lúc con người cứ chạy vòng vo để tìm cho ra người hiểu mình, thương mình để cùng kết giao tri kỷ. Con người quả thật rắc rối làm chi vậy ! Liệu người ta tìm có thật lòng hiểu mình như mình từng nghĩ không ? Hay mỗi người khi gần nhau lại cảm thấy như cách xa muôn ngàn vạn dặm, “gần mặt xa lòng, tri nhân tri diện bất tri tâm”. Chính tâm hồn, thân xác mình mà mình chưa hiểu được thì làm sao mong người khác hiểu ta.

Các nhà khoa học, triết học, sáng chế ra đủ mọi sản phẩm tiên tiến hiện đại, ngồi một chỗ nhấn nút bàn phím là họ có thể thấy biết các chuyện trên trời dưới đất, xa hơn nữa là dạo chơi cung trăng - Sao Kim, Sao Hỏa, rồi dự đoán cái này cái nọ. Có thể nói họ đã làm được nhiều điều mà vượt ra ngoài sức tưởng tượng của con người, nhưng chính những người thân thích sống chung đụng trong gia đình mà họ vẫn chưa hiểu thấu nỗi niềm sâu kín thì làm sao có thể hiểu chính con người thật của mọi người ở xung quanh. Vật chất chỉ là sự sáng tạo của tư duy chứ không phải là cái cứu cánh vĩnh viễn cho văn minh nhân loài. Do đó, gần đây người ta khuyên con người nên trở lại chính nỗi lòng của mình thì tốt hơn truy tìm hiểu sự vận hành ngoài vũ trụ.

“Đừng mong ai cho mình nụ cười, đừng mong ai cho mình hạnh phúc, hãy sống vui phút giây hiện tại, ta quay về an trú trong ta”. Giây phút quay về tìm nụ cười thật của con người sẽ phá tan đi bao sầu muộn, lo âu, tính toán. Nụ cười hé nở trên môi làm tươi trẻ tâm hồn như khi đang ngắm nhìn nụ cười hiền dịu của Đức Phật hay nụ cười quý phái của nàng Mona Lisa.

Ngày nay, xã hội loài người tổ chức rất tinh vi, nên đã làm cho nhiều người buồn chán bất mãn. Thi nhân, hiền triết, du tăng không còn hứng khởi để sáng tác mộng hoàng hôn nữa, mà đành thu hẹp tâm hồn mình vào một cõi trời quên lãng cao rộng để đêm khuya ngồi kể chuyện trăng tàn. Con người sống trong xã hội bây giờ chỉ biết lo cho bản thân, tiểu gia đình, ngoài ra ít biết đến ai. Nếu ai đã từng có dịp sống ở Sài Gòn hay một thành phố nào khác cũng sẽ cảm nhận được nỗi bơ vơ của mình và sự lạnh nhạt của mọi người. Có chiều buồn chạy xe dạo phố trên những con đường phồn hoa đô thị, người người đông đúc ồ ạt qua lại mà ta không biết mình đang đi đâu về đâu và làm gì. Đi giữa hàng triệu người tấp nập như vậy mà ngỡ như mình đang bị lạc vào rừng sâu không một bóng người.

Làm người là để thực hiện lý tưởng sống, và sống là để thực hiện lý tưởng làm người, như ăn để mà sống, không phải sống để mà ăn. Đứng giữa thực tại đau thương bỡ ngỡ phũ phàng, con người đã không còn là con người thật của năm xưa nữa, mà con người bây giờ đã là con người của máy móc, của ích kỷ tham lam, hẹp hòi cá nhân. “Người vinh quang mơ ước địa đàng, người gian nan mơ ước bình thường, làm sao đến gần hy vọng cuộc vui chung”. Chính con người tự thờ ơ xa lánh con người, kẻ giàu xa kẻ nghèo, kẻ có học khinh kẻ vô học …, hình như thế giới con người càng ngày càng thu hẹp lại ở phạm vi gia đình thì phải. Có một nhạc sĩ tài ba đã linh cảm trước điều đó nên anh ước: “Đường tương lai xin nhắc từ đầu, cùng anh em trên khắp địa cầu, hãy gần nhau”. Vâng, nhạc sĩ chỉ ước vậy đấy ! Khó mà nói lên được tâm trạng từ con người. Con người muốn sống bên nhau, nhưng hay so đo hơn thiệt, muốn người ta giúp mình nhiều hơn là mình giúp người, muốn điều lợi cho mình nhiều hơn điều lợi cho người, tạo ra một bản ngã to đùng đi vào cuộc đời. Lấy cớ tổ chức này, tổ chức nọ, quyên góp việc này giúp đỡ chuyện kia hay bày ra các loại giấy tờ đủ loại rắc rối …, cũng chỉ là che đi cái tâm giả dối phỉnh phờ lường gạt nhau mà sống. “Sông sâu còn có thể dò, đố ai lấy thước mà đo lòng người”, hãy ngẫm lại cuộc sống xem, con người không bao giờ muốn cho không mà không nhận lại được gì. Viết một lá thư cho bạn, ngồi chờ mòn mỏi dài cổ không thấy trả lời ta cảm thấy bị thiệt thòi và không dại gì mà lại viết thư nữa, hoặc chơi thân người bạn lại bị người bạn lợi dụng xỏ lá thì chẳng ngu chi mà qua lại. Sống thì đừng ai lợi dụng ai, quân tử không bao giờ dùng trò tiểu nhân hại người.

Đời đôi lúc là thế, nếu con người hiện tại ai cũng biết mở lòng ra, bỏ đi bản ngã tư hữu trong người để đến với nhau cùng xây đắp nhịp cầu truyền thông bằng sợi dây hiểu thương để hàn gắn lại những gì đã mất thì còn gì bằng. Thời gian qua mau, mạng sống giảm dần, chúng ta hãy xem đã bao nhiêu lần thân xác vô giá này bị dở khóc dở cười, trầy vai tróc vảy để bước lên được bục vinh quang. Tài sản, địa vị, con cái, quyền hành … tất cả ở với ta vài chục năm rồi phải chia lìa, tay trắng tay lại về không. Đúng là: “Của trời trời lại lấy đi, giương hai con mắt làm chi được trời”. Có một câu tiêu ngữ: “Cái gì làm cho con người trở thành con người ! Không phải cái mặt mà là cái lòng người ta ăn ở thật với nhau”.

Ta thấy, dù trải qua bao nhiêu sóng gió khổ đau, vui buồn hay xa lìa đến một chân trời nào đó không một bóng người, thì con người vẫn ước muốn ngày sau dẫu có thành sỏi đá cũng cần có nhau. (Ai đã từng đọc qua truyện Trầu cau, An Tiêm … thì sẽ hiểu được tâm tình của con người), ba chữ “CẦN CÓ NHAU” như một câu linh chú mà nghe qua thấy rợn da gà, như tiếng sét lôi kéo thức tỉnh sự trở về cho những ai vì ham quyền quý bỏ tình, bỏ nghĩa, bỏ anh em. Đời vốn là mộng, ai nỡ nào dùng tâm giả mà sống với mộng, há chẳng phải là đang làm trò cười sao !

Với những điều trên ta thấy quả thật trong mỗi con người là một căn nguyên kho tàng tư tưởng luân lý nhân loài, nên mỗi cá nhân sinh ra đều muốn đi tìm cho mình một hướng đi sáng đẹp nhằm giải phóng những thắc mắc tư tưởng mà bấy lâu từ vô lượng kiếp xa xăm tận tiềm thức vẫn còn bế tắc ứ động, dù đã bao lần lột xác thể chất hình hài. Nhìn vào khoảng không gian bao la chiếu rọi tận tâm hồn, con người chợt nhận ra rằng lối sống “chân thật” là điểm khởi đầu cho nền văn minh nhân loài, là tủy sống đưa xã hội loài người xích gần nhau để trao cho nhau nụ cười tình yêu thương đồng loại, khi nước mắt cùng mặn và máu cùng đỏ.

Nhiều trong một

- Thích Tánh Tuệ



Đôi khi tui … rất dễ thương
Đôi khi dở dở, ương ương, khùng khùng
Có khi tui sống bao dung
Đôi khi xét nét không ưng mọi người

Đôi khi tui cũng hay cười
Có khi vẻ mặt như trời mùa đông
Nhiều khi tui cũng có lòng
Mà nhiều khi tiếc ... một đồng chẳng chi

Lắm khi cũng rất sân si
Song cũng lắm lúc ... “Từ bi bất ngờ !”
Đôi khi tui rất dại khờ
Bất chợt, có bữa cao cơ hơn người

Nhiều lần tui thật “dở hơi”
Lắm khi tui cũng một trời nết na
Đôi lúc tui mặc cà sa
Không lâu tui ở với ma một phòng

Nhiều khi ước muốn, đèo bòng
Đôi lúc chỉ thích lông bông một mình
Sớm nào ... thi thoảng kệ kinh
Chiều nào ... la hét thất kinh, động trời

Hôm qua chẳng nói một lời
Bữa nay thì suốt cả thời huyên thuyên
Ít khi tui được bình yên
Nhiều khi bất ổn, trăm niềm âu lo

Có đêm nằm ngáy pho pho
Có khuya trằn trọc, tính so mọi điều
Đôi khi sâu sắc, đăm chiêu
Đôi lần nông cạn, tự kiêu vẫy vùng

Ánh nhìn xa lạ, dửng dưng
Vòng tay thông cảm như từng thương yêu
Lòng tui con nước thủy triều
Vô thường sóng vỗ bao chiều lênh đênh

Tui là hạt bụi không tên
Mà hồn chứa đủ tâm tình thế gian


Danh ngôn (7)

- H.G. Holland



Những cây mạnh nhất, cao nhất, mọc trên những mảnh đất cằn cỗi nhất.

Chuyến tàu cuộc đời

- Tâm Minh Ngô Tằng Giao



Cùng chung tàu trong dòng đời
Khi mình rời bến thốt lời chia ly
Ai cùng tôi đáp tàu kia
Tôi thành tâm chúc: “Chuyến đi an bình !”


---

Cuộc đời xem khác gì đâu
Tựa như đáp một chuyến tàu dạo chơi
Lên tàu rồi lại xuống thôi
Đôi khi tai nạn ít người tránh qua
Ở vài trạm nghỉ diễn ra
Bất ngờ bao chuyện thật là ngạc nhiên
Ở vài trạm khác tiếp liền
Trào dâng một mối muộn phiền khôn nguôi
Khi ta mới sinh ra đời
Coi như vừa bước lên nơi toa tàu
Và ta gặp gỡ cùng nhau
Đôi người kề cận có đâu xa gì
Tưởng rằng trong suốt chuyến đi
Cận kề nhau mãi chẳng lìa nhau ra
Đó là cha mẹ của ta
Nhưng mà sự thật khác xa, thật buồn
Song thân ta sẽ xuống luôn
Xuống nơi ga nọ không còn trở lui
Để ta ở lại ngậm ngùi
Hết còn được sống bên người yêu thương

Mất nguồn tình cảm dịu dàng
Gia đình mái ấm lỡ làng than ôi
Nhưng dù sao tới nhiều nơi
Cũng toa tàu đó bao người bước lên
Với ta quan trọng vô biên
Đó là anh chị hay em của mình
Đó là bạn hữu thân tình
Và bao người khác chân thành khôn vơi
Những con người thật tuyệt vời
Mà ta yêu quý khó rời xa thay
Có người cùng đáp tàu này
Coi như một buổi ngắn ngày dạo chơi
Có người chỉ thấy chán đời
Buồn vương theo gót suốt nơi hành trình
Bao người khác ở cạnh mình
Luôn luôn hiện diện nhiệt tình chứa chan
Tâm từ tỏa rạng ánh vàng
Giúp ai cần đến, sẵn sàng, quản đâu
Có người khi bước xuống tàu
Để niềm nhung nhớ giăng sầu triền miên …

Bao người lên xuống liền liền
Khiến ta thoáng thấy cạnh bên nhất thời
Ta ngỡ ngàng đến nghẹn lời
Có khi hành khách là người thân ta
Ta thương yêu thật thiết tha
Lại ngồi toa khác cách xa với mình
Khiến cho suốt cuộc hành trình
Để ta cô độc, bóng hình đơn côi
Tất nhiên không có một ai
Cản ta kiếm họ khắp nơi trên tàu
Đôi khi ta thấy lòng đau
Muốn ngồi bên họ có đâu dễ dàng
Vì nơi đó thật bẽ bàng
Có người chiếm ngụ và đang tâm tình
Không can chi, chớ bất bình …
Ở đời bao cuộc hành trình giống nhau
Đong đầy thách đố trước sau
Tràn niềm hy vọng, thắm màu mộng mơ
Rồi qua giai đoạn tạ từ
Không quay trở lại kể như mãn đời

Chúng ta phải cố gắng thôi
Hãy làm cho chuyến dạo chơi của mình
Thật êm ả, thật tốt lành
Cố thông cảm khách đồng hành cạnh ta
Trong từng người cố tìm ra
Những điều tốt nhất để ca ngợi người
Nhớ rằng mỗi phút tàu trôi
Đồng hành có thể tâm thời đảo chao
Họ cần giúp đỡ xiết bao
Cần niềm thông cảm dạt dào của ta
Chúng ta nào có khác xa
Tâm chao đảo cũng diễn ra nhiều thời
Và luôn luôn cũng có người
Nói câu an ủi, thốt lời cảm thông
Nhưng điều mầu nhiệm vô cùng
Là ta không biết suốt trong chuyến tàu
Rằng mình sẽ xuống lúc nào
Rời tàu vĩnh viễn, có đâu ngồi hoài
Và ta cũng chẳng được hay
Bạn đồng hành đó ngồi ngay cận kề
Cũng xuống tàu, cũng ra đi
Nào hay biết trước khác gì mình đâu
Dù cho kẻ đáp cùng tàu
Ngồi ngay bên cạnh bao lâu nay rồi

Có điều chắc chắn lòng tôi
Sẽ buồn day dứt khi rời tàu kia
Não lòng thay lúc chia ly
Với bao bạn quý cùng đi chuyến tàu
Thật đau xót biết là bao
Để người thân lại trong bầu cô liêu
Nhưng tôi tin chắc một điều
Cuộc hành trình của tôi theo tàu này
Mãi rồi cũng phải có ngày
Tới nhà ga chính ! Tại đây sẽ ngừng !
Bao hành khách từng đi chung
Giờ tôi lại gặp họ cùng đến ga
Với hành trang lạ vô bờ
Họ chưa từng có khi xưa lên tàu
Lòng tôi trái lại vui sao
Thấy mình đóng góp phần nào trong đây
Khiến hành trang họ giờ này
Đã thêm phong phú lại đầy thăng hoa
Bạn thân thương khắp gần xa
Chúng ta hãy cố tối đa sức mình
Cùng làm cho cuộc hành trình
Muôn phần trọn vẹn, tốt lành, êm xuôi
Và ta cố gắng mãi thôi
Để lưu kỷ niệm đẹp nơi lòng người

Chuyến tàu cuộc đời

『 Đây là bản dịch từ bài tiếng Pháp - LE TRAIN DE LA VIE - nhạc và lời Pháp, do Anthony Richard, nhạc phẩm “J’entends Siffler Le Train” 』

Cuộc đời giống như một chuyến đi xe lửa - người lên người xuống, có những tai nạn ở những trạm này, có những chuyện ngạc nhiên, thích thú …

Khi ta chào đời, ta lên xe lửa, ta gặp những người ta đã tưởng rằng họ sẽ ở lại với ta suốt chuyến đi,
đó là cha mẹ ta. Thật không may, sự thật lại khác hẳn, các Ngài đã xuống một ga nọ, bỏ mặc chúng ta thiếu tình yêu thương và sự trìu mến, thiếu tình âu yếm và sự gần gũi của các Ngài. Dù sao, đã có những người khác lên tàu, họ sẽ trở nên rất quan trọng đối với chúng ta, đó là anh chị em ta, bạn bè ta và tất cả những người yêu mến chúng ta.

- Có những người xem cuộc hành trình như một buổi dạo chơi, có những người lại chỉ thấy buồn trong suốt chuyến đi.

- Có những con người luôn luôn hiện diện và sẵn sàng giúp đỡ những ai cần.

- Có những người khi xuống tàu đã để lại một nỗi nhung nhớ triền miên …

- Có những người vừa lên đã xuống ngay, chúng ta chỉ vừa kịp thấy họ thôi.

Chúng ta ngỡ ngàng vì một vài hành khách mà chúng ta yêu mến lại ngồi trong một toa khác bỏ mặc ta trong quãng hành trình đơn độc. Dĩ nhiên không ai có thể cấm cản chúng ta đi tìm họ khắp nơi trên xe lửa. Đôi khi, thật không may, chúng ta không thể ngồi bên họ bởi vì chỗ đó đã có người. Không can chi, hành trình là như thế, đầy thách đố, lắm giấc mơ, hy vọng, những lần từ biệt mà không bao giờ trở lại.

- Hãy cố gắng thực hiện chuyến đi cho tốt nhất.

- Hãy cố gắng hiểu những người ngồi bên mình và tìm ra điều tốt nhất nơi mỗi người.

- Hãy nhớ rằng mỗi khoảnh khắc của chuyến đi, một bạn đồng hành nào đó có thể chao đảo và cần được chúng ta thông cảm.

Chúng ta cũng thế, chúng ta có thể chao đảo và sẽ luôn có ai đó có thể hiểu chúng ta. Mầu nhiệm lớn lao của cuộc hành trình là chúng ta không biết được khi nào chúng ta sẽ xuống tàu mãi mãi. Chúng ta cũng chẳng biết được khi nào các bạn đồng hành chúng ta xuống lúc nào. Ngay cả người ngồi sát bên ta. Phần tôi, tôi nghĩ rằng sẽ rất buồn khi phải xuống xe. Tôi chắc chắn là thế.

Vĩnh biệt tất cả bạn bè mà tôi từng gặp trên xe, hẳn là một điều đau đớn. Để những người thân của mình ở lại một mình hẳn là rất buồn đau. Nhưng tôi chắc chắn rằng một ngày kia tôi sẽ đến ga trung tâm mà gặp lại tất cả mọi người với một số hành trang mà khi lên xe họ không hề có. Thế là tôi sẽ sung sướng vì đã góp phần làm gia tăng và làm phong phú cho hành trang của họ.

------

Đây là bản dịch từ bài tiếng Pháp - LE TRAIN DE LA VIE - nhạc và lời Pháp, do Anthony Richard, nhạc phẩm “J’entends Siffler Le Train”. Bài viết mang một triết lý rất sâu sắc, thức nhắc con người nhớ đến cuộc đời mình như một hành trình trên một chuyến tàu. Nếu đem áp dụng Phật pháp thì chúng ta sẽ hiểu thế nào ?

Phật đã dạy chúng ta là những khách trọ đến rồi đi. Cõi Ta Bà như một quán trọ, chúng ta là những hành khách, ăn nghỉ rồi lại lên đường. Chỉ có chủ nhân mới không đến không đi. Bản thân mình, những người chung quanh mình đều thế. Vậy thì hãy tìm cho mình một chỗ nương tựa vững chắc. Phật dạy không gì bằng phải tự mình làm hòn đảo cho chính mình.

Hòn đảo đó là gì ? Là niềm tin vào Phật pháp. Có niềm tin này thì không ai có thể lay chuyển được. Niềm tin này từ đâu mà có ? Từ kinh pháp của Phật. Muốn hiểu Kinh, phải tìm những bậc thiện tri thức chỉ dẫn, môi trường có nếp sống lành mạnh, chân chánh. Nhờ đó, ta mới thấy được đường đi, hiểu được nghĩa lý, không lầm đường lạc lối, chịu nỗi khổ trầm luân. Những người có trí cần chọn lựa con đường đi cho mình. Để rồi những người mình đã gặp trong cuộc đời đều sẽ có ngày “cùng gặp ở sân ga trung tâm”, cùng hội ngộ nơi “không già, không chết, không dời đi đâu”, an lạc miên viễn.


Trọn vẹn với hôm nay

- Thích Tánh Tuệ



Bạn hỏi mình: “Có kiếp trước hay không ?”
Sao mỗi con người sanh ra lại khác nhau đến thế ?
Có kẻ đẹp kẻ xấu
Có người khôn người ngu
Có đứa sang đứa hèn ...
Nhưng bạn ơi, xấu - đẹp, khôn - ngu, sang - hèn ... là do bạn nhìn nó như vậy
Chứ bản thân mỗi người đều là mỗi tuyệt tác đấy thôi
Máu ai cũng đỏ
Nước mắt ai cũng trong
Trái tim ai cũng đập
Sự phân biệt đến do bạn nhìn như vậy

Bạn lại hỏi mình: “Có kiếp sau hay không ?”
Mình mới hỏi lại: “Bạn cần kiếp sau để làm gì ?”
Để thấy người sống thiện được đền đáp
Người tội lỗi bị dầu sôi, người tu đạo được giải thoát
Nhưng bạn ơi, đâu cần tới kiếp sau
Nhân quả nhãn tiền
Chỉ do bạn không thấy
Bạn có bao giờ nhìn sâu vào cuộc sống
Người có lòng Từ, khuôn mặt sẽ dịu nhẹ bao dung
Vòng tay sẽ ân cần rộng mở
Kẻ thủ ác, trong tim chứa đầy lửa dữ
Tự đốt mình, đâu cần địa ngục xa xôi
Đôi mắt láo liên, hằn những đường gân máu
Luôn cau mày, luôn nhức nhối thân tâm
Ai xức nước hoa, người sẽ thoang thoảng hương thơm
Trái tim ai đẹp sẽ lung linh như vầng trăng ấy

Và bạn ơi, phút giây này hạnh phúc
Được mỉm cười, được chiêm ngắm đổi thay
Tìm cầu chi nữa quá khứ vị lai
Chẳng nơi nào đẹp như bây giờ hiện tại

Cành sen trắng đang rung rinh trong nắng
Bụt mỉm cười lấp lánh đoá Vô Ưu

Biết sống tùy duyên

- Thích Tánh Tuệ



Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, tạm ngưng tranh đấu và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng tranh đấu và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác. Ta đừng quên khi một việc được thành tựu thì phải hội tụ hàng triệu nhân duyên, nếu chỉ thiếu một duyên thì nó cũng có thể không tựu thành. Nếu ta có hiểu biết sâu sắc hay từng trải nghiệm thì trong vài trường hợp ta có thể đoán biết được mình nên làm gì và không nên làm gì để cho nhân duyên tốt hội tụ đầy đủ trở lại và nhân duyên xấu sớm tan biến đi.

Ta thường gọi nhân duyên tốt là thuận duyên, và nhân duyên xấu là nghịch duyên, tức là những điều kiện có lợi và bất lợi cho ta. Có những duyên thuận với ta, nhưng nghịch với kẻ khác và ngược lại. Đó chỉ là nói trong phạm vi con người, trong khi nhân duyên luôn xảy ra với vạn vật trong khắp vũ trụ. Bản chất của nhân duyên thì không có thuận nghịch, tốt xấu. Nó chỉ hội tụ hay tan rã theo sự thích ứng giữa các tần số năng lượng phát ra từ mọi cá thể mà thôi. Ấy vậy mà thói quen của hầu hết chúng ta khi đón nhận thuận duyên thì luôn cảm thấy sung sướng và rất muốn duy trì mãi nhân duyên ấy, cón khi gặp phải nghịch duyên thì luôn cảm thấy khó chịu và tìm cách tránh né hay loại trừ.

Nhưng chưa hẳn thuận duyên sẽ đem lại giá trị hạnh phúc hay nghịch duyên sẽ mang tới khổ đau, bởi có khi nghịch duyên đưa tới sự trưởng thành, còn thuận duyên dễ khiến ta yếu đuối. Và nhiều khi thuận duyên ban đầu nhưng lại biến thành nghịch duyên sau này, có khi nghịch duyên bây giờ nhưng lại biến thành thuận duyên trong tương lai. Tất cả đều tùy thuộc vào bản lĩnh và thái độ sống của ta.

Do đó, ta không cần phải khẩn trương thay đổi những nhân duyên mà mình không hài lòng, hay cố gắng tìm kiếm những nhân duyên mà mình mong đợi. Khi tâm ta đã vững chãi đủ để tạo ra những nhân duyên an lành thì những nhân duyên tương ứng sẽ tự động kết nối. Mà sự thật khi tìm được sức sống từ nơi chính mình rồi thì ta sẽ không còn coi là quan trọng những giá trị bên ngoài nữa. Nhân duyên nào cũng được cả, thong dong tự tại.

Đức DaLaiLaMa có dạy:

“Hãy nhớ rằng khi không đạt được những gì bạn muốn, đôi lúc, lại là sự may mắn tuyệt vời.”

Khúc Nguyệt Quỳnh

- Thích Tánh Tuệ



Đêm nghiêng một đóa Quỳnh Hương nở
Ngan ngát ru hồn ai lãng quên
Thùy miên trong cõi đời sinh tử
Sực tỉnh, trăng tàn, quá nửa đêm

Khuya nao thiền khách chờ hoa nở
Chén trà chưa nguội đã chiêm bao
Nắng đêm loang loáng cài song cửa
Thức giấc hoa phai tự lúc nào

Nghìn xưa hoa với đời như mộng
Nở đóa vô thường trong cõi mê
Chỉ thoáng trần tâm vừa giao động
Khuất lấp trăm năm một nẻo về

Đêm lắng, hoa vời thiên thu lại
Ai cười vỡ nát mộng hằng sa
Xưa mê ôm cõi đời si dại
Đâu ngờ … muôn kiếp vốn không hoa

Trăng lên soi rạng hồn nhân thế
Bụt ngồi bóng đổ xuống dòng sông
Hiên chùa một nụ Quỳnh Hương hé
Ai vừa … hội ngộ khắp mênh mông

Chửi mắng và lời dạy của Đức Phật

- Ngụ ngôn giữa đời thường


Một lần, Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, các tu sĩ Bà La Môn ra đón đường chửi Phật vì thấy đệ tử theo Phật nhiều. Phật vẫn đi thong thả, họ đi theo sau chửi.



Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức giận, chặn Phật lại hỏi:

- Cù-đàm có điếc không ?

- Ta không điếc.

- Ngài không điếc sao không nghe tôi chửi ?

- Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng họ không nhận thì quà đấy về tay ai ?

- Quà ấy về tôi chứ ai.

- Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.


Người kêu tên Phật chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta, những lời nói bóng, nói gió ở đâu đâu cũng lắng tai nghe, để buồn để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của chúng sanh Ngài không chấp không buồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người, đừng quan tâm, như thế mới được an vui.

Trong Kinh, Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó thì người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống ngay mặt người phun. Thế nên có thọ nhận mới dính mắc đau khổ, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau quí vị có nghe ai nói gì về mình, dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui.

Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết hóa giải, không thọ nhận, đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận vì một vài lí do bất như ý bên ngoài. Đó là tu chưa tiến.

Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai, thứ ba, ... thì tìm phăng cho ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ, không phải người trí.

Chiều tịch liêu

- Thích Tánh Tuệ



Chiều về bước chân chầm chậm
Bóng ngã dài trên con đường
Trước mặt khoảng trời xanh thẳm
Sau lưng đỏ mọng tà dương

Một ngày đã không còn nữa
Bóng đêm đổ xuống cuộc đời
Bầy chim rủ nhau về tổ
Còn ta đứng lại bên trời

Hít vào một hơi thở nhẹ
Đi về trong cõi tịch liêu
Hư không muôn đời lặng lẽ
Cùng ta hò hẹn trong chiều

Vũ trụ này bao la thế
Phận người nhỏ bé liêu xiêu
Mà sao nghe đời nhỏ lệ
Trăm năm ... vui ít khổ nhiều

Thương ai ra đi từ độ
Lưu vong bao kiếp gập ghềnh
Chẳng biết đâu là quang lộ
Kiến bò miệng chén buồn tênh

Chiều nay cũng như thường nhật
Biết, một ngày nữa qua rồi
Lên đồi đốt hương lễ Phật
Nguyện lòng ... Thương khắp nơi nơi

Bình thường Tâm thị đạo

- Diệu Trân

Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàng lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát. Tôi lò dò mua căn nhà ở đây cũng vì cái lọng che lồng lộng giữa không gian, thoảng hương thông ngan ngát này. Có lẽ cũng vì con đường đẹp và râm mát nên rất nhiều người đi bộ chọn đi ngang đây. Tôi nghĩ, 99% người địa phương chịu khó dành một ít thì giờ nào đó trong ngày để đi bộ vì lý do sức khỏe. Không ông bà bác sỹ nào không khuyên thân chủ của mình đi bộ, như hình thức thêm vào một toa thuốc, tùy theo tuổi tác, sức lực mà giới hạn lộ trình dài hay ngắn. Còn 1% kia chỉ đi khi hứng thú, đi hóng gió, hoặc đi để mà ... đi (như tôi chẳng hạn).

Ấy, tuy không có mục đích rõ ràng nhưng tôi cũng đi khá thường xuyên vì cảm thấy một tiếng đồng hồ tản bộ đã cho tôi sự thư giãn tinh thần lúc nào không hay. Trời vừa sắp tắt nắng là tôi xỏ đôi giầy bata vào chân, chụp cái nón nỉ lên đầu, mở cửa sau, chào mấy gốc bưởi, hít hà dăm nụ huệ trắng rồi bước ra đường, cứ theo hai hàng thông cao mà chậm rãi bước. Tôi cũng chẳng đặt cho mình một hình thức cố định nào. Khi thì bỏ một băng giảng vào máy nghe, đeo theo, vừa đi vừa nghe giọng Thầy Phước Tịnh rất nhẹ nhàng, lịch lãm “Thưa đại chúng, hôm nay là ngày … chúng ta sẽ nói chuyện về ...”, hoặc Thầy Trí Siêu giảng Kinh Kim Cang rất súc tích mà lại đơn giản, dễ hiểu vô cùng. (Phật tử vô minh như tôi mà hiểu được chút chút, đủ biết thầy Trí Siêu đã lựa lời, uyển chuyển theo căn cơ chúng sanh chừng nào.)

Nhưng hôm nay hơi khác thường. Trời còn nắng gắt mà tôi đã mở cửa sau, bước ra đường, quên chào gốc bưởi, quên thưởng thức hương huệ và hình như quên cả cái nón nỉ. Nhưng chẳng sao. Tâm tôi đang có điều bất an. Tôi chỉ cần “Làm một cái gì đó” thay vì ngồi trong bốn bức tường, tự gậm nhấm phiền não và để mặc cho phiền não gậm nhấm mình. Và thói quen đi bộ đã vô tình kéo tôi ra đường khi trời còn nắng.

Mấy ngày nay, thời tiết bỗng nóng hực. Rải rác đó đây đã có những đám cháy rừng có cơ nguy lân lan vào đô thị. Mây rất cao, trong vắt, như đành nhường lối cho ông mặt trời giương oai, phà xuống mặt đất sức nóng trên trăm độ. Dưới sức nóng này, dù tôi đang đi giữa những tàng thông cũng vẫn nóng. Có phải thực sự thời tiết đang nóng như vậy không, hay chính từ tôi ? Ba cõi không an giống như nhà lửa mà.

Mặc. Nóng thì nóng, nắng thì nắng, tôi cứ chậm rãi bước. Phải chi tôi đeo theo một băng giảng, và nếu Thầy Phước Tịnh có tha-tâm-thông, tôi chắc Thầy sẽ từ bi mở đầu thế này: “Thưa đại chúng, hôm nay là một ngày rất nóng, chúng ta sẽ nói chuyện về Giòng-Suối-Mát-Tự-Thân ...” Tôi có thể hình dung được nhân dáng Thầy Phước Tịnh, ông thầy tu nhỏ nhắn, hòa ái, nhẹ nhàng mà từ cách di động viên phấn trên bảng đen viết đôi dòng chữ Hán đến cách nâng tách nước, hớp một ngụm nhỏ ... nhất nhất đều biểu lộ chánh niệm. Nhân cách đó như coi nhẹ mọi sự, như chẳng có chi quan trọng mà đồng thời lại là trân quý từng hạt sỏi, giọt sương.
Tôi chưa đủ sức diễn tả gẫy gọn những cảm nghĩ này của mình nhưng rõ ràng là mỗi lần hội đủ duyên đi nghe giảng, tôi đều cảm nhận như thế, từ Thầy.

“Cái gì đây ?” … Tôi dừng vội lại, đến mức suýt ngã chúi về phía trước. Một bông hoa dại vàng rực nở từ khe nứt của lề đường xi măng. Trời đang hừng hực nắng, nền xi măng tưởng như có thể bốc khói. Vậy mà, bông hoa vẫn từ đó vươn lên, nở rộ. Tôi thấy mình quỳ xuống bên hoa, nhìn cho kỹ. Vết xi măng nứt rất nhỏ, có sự tình cờ nào của bụi phấn hoa nhờ gió thoảng đưa qua ? Hay sự vụng về của con chim nào tha hạt, nhả rơi vào đó ? Hay duyên của bông hoa vừa hội đủ, từ kiếp nào ? Hay duyên của chính tôi đã bước tới đúng sát na này ? Thật là kỳ diệu. Quỳ xuống chưa đủ, tôi đưa tay, sờ nhẹ cánh hoa như để chứng nghiệm đây là thật.

Đúng. Đây là thật. Không phải chỉ bông hoa là thật mà tôi sửng sốt vì thông điệp cực kỳ uyên nguyên, cực kỳ hiển lộ, bông hoa đang mang cho tôi cũng là thật. Đó là: THÔNG ĐIỆP CỦA SỰ HIỆN HỮU CH N NHƯ, MẦU NHIỆM.

Thời xưa, có lần ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện:

- Như hà thị đạo ? (Thế nào là đạo ?)

Ngài Nam Tuyền trả lời:

- Bình thường tâm thị đạo. (Tâm bình thường là đạo)

Câu trả lời quá đơn giản đến mức khó tin nhưng khi ngài Nam Tuyền khai triển thêm thì ngài Triệu Châu lãnh hội ngay.

Tâm không bình thường là tâm ở trong hai trạng thái: vọng thức và vô ký. Những tạp nghĩ lao xao quen huân tập không dừng, dẫn đến vọng thức. Sự mơ màng, ngầy ngật dẫn đến vô ký.

Còn tâm bình thường là trí tuệ Bát Nhã, sáng trong, nhận biết rõ ràng nhưng thinh lặng, rỗng rang. Đó là Tâm Đạo.

Dưới ánh nắng chói chang, từ khe nứt nhỏ của nền xi măng cháy bỏng, bông hoa vàng đã nhẹ nhàng nở, rất tự nhiên, thanh thản, như không cần bất cứ một sự cố gắng nào. Chỉ có người đang chiêm ngưỡng hoa mới bàng hoàng vì sức mạnh kỳ diệu của duyên hợp cho hoa có mặt phút giây này, cho tôi chứng nghiệm sự mầu nhiệm của lẽ đạo mà nhận ra mình quá yếu đuối, quá bé nhỏ trước bông hoa bên đường kia. Từ khô cằn đất đá, hoa còn biết nương khe nứt mà nở cho đời, thì sự phiền não trong tôi có đáng gì mà tôi không nở được Đóa Hoa Tâm ? Có phải chăng hoa mang Tâm Bình Thường nên hoa đang là Đạo ?

Chắc chắn, đây không phải lần đầu tôi nhìn thấy bông hoa dại nở từ vết nứt xi măng, nhưng sao chỉ ở ngày hôm nay, phút giây này, tôi mới bắt được thông điệp vô ngôn mầu nhiệm ? Có phải ở một sát na nào nhanh như lằn chớp, tôi cũng mang Tâm Bình Thường trong trạng thái rỗng rang đúng khi nhìn thấy bông hoa, hay bông hoa đã ở đó, chờ bước chân người phiền não để lóe lên một ánh minh quang ? Dù thế nào, những chiêu cảm tuyệt vời này đang cho tôi niềm tin mãnh liệt ở lời Phật dạy, là mọi chúng sanh đều sẵn có Phật tánh như nhau, chỉ khác ở mức độ dầy mỏng của màn vô minh che lấp, ở mức cạn sâu của trí tuệ phản quang tự kỷ, và quan trọng hơn cả là ở thời gian dài ngắn giữ được Phật tánh đó.

Quý đạo hữu hãy thử kiểm lại mà xem, thế nào cũng nhận ra nhiều lúc tâm mình rất an lạc, rỗng rang, cái nhìn của mình trước vạn hữu rất thanh thản mà lại rất sâu sắc nên có thể nhận ra bản chất chân thật mà mình không hay. Nhưng tiếc rằng tâm chúng ta đã huân tập lâu đời, luôn chạy theo cảnh, theo tình bên ngoài nên phút giây chạm vào Chân Như, chưa kịp nhận biết thì cảnh đó tình kia đã cuốn ta trôi lăn vào vọng tưởng.

Nói thế có nghĩa là, trong đời sống bát nháo chập chùng vô minh này, chúng ta từng có phút trở về với cái ta vô sinh bất diệt, tức là có những phút giây ta từng là Phật mà ta không biết, hay chưa kịp biết đã trở lại chúng sanh. Đó chính là câu Đức Phật khẳng định: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành”. Đức Thế Tôn ĐÃ THÀNH Phật vì Ngài giữ được Phật tánh thường xuyên, không từng đứt đoạn. Chúng sanh SẼ THÀNH vì tâm điên đảo luôn làm biến diệt dòng Chân Như. Cái tâm luôn chạy nhảy là thủ phạm ngăn chúng sanh thành Phật, mà câu chuyện ẩn dụ về tâm, thầy Quảng Thanh từng kể trong một buổi thuyết pháp có thể cho chúng ta thấy rõ hơn ở điểm này.

Câu chuyện như vầy:

Một hôm, hai thầy trò mang trà xuống núi đổi gạo, muối. Sư phụ thong dong đi trước, chú tiểu đeo tay nải đi sau. Được một quãng, Thầy bỗng dừng lại, nhìn đệ tử của mình và bảo:

- Con đi trước thầy đi.

Chú tiểu không hiểu sao thầy bảo mình đi trước nhưng cũng phải vâng lời và rụt rè đi trước sư phụ. Được một quãng, thầy lại bảo:

- Này con, bước chậm lại, đi sau thầy đi.

Mới qua rừng sồi, chú tiểu ngạc nhiên thấy thầy dừng lại, nhìn mình rồi điềm đạm:

- Con hãy bước đi trước thầy.

Cứ thế, lúc thầy bảo chú đi trước, lúc lại bảo đi sau, nên khi hai thầy trò nghỉ chân bên bờ suối, chú tiểu không đừng được mà hỏi thầy rằng:

- Bạch sư phụ, chắc là sư phụ đang dạy con điều chi nên suốt chặng đường núi, khi thì bảo con đi trước, lúc lại bảo đi sau ?

Thầy đưa tay khua nhẹ giòng suối mát, dịu dàng nói:

- Có chi đâu con, khi thầy bảo con đi trước thầy, đó là lúc thầy nhìn thấy tâm con, hoặc trong vắt không vẩn một vọng tưởng, hoặc tràn đầy ý thiện lành không mong gì cho mình mà chỉ mong lợi ích cho người. Khi đó, con đang là Phật, thầy phải thỉnh con đi trước thầy. Nhưng tâm Phật ấy, con chẳng giữ được lâu, vọng tưởng buông lung lại dắt con vào những cơn mê, xoay quanh tham sân si hơn thiệt ở đời. Khi đó, con không là Phật nữa mà là chúng sanh nên thầy truyền con đi sau thầy là vậy.

Chú tiểu giật mình, nhớ ra là sư phụ vẫn từng NHÌN thấy tâm mình rõ như đọc chữ trên trang giấy.

● ● ●

Thưa quý đạo hữu, câu chuyện nhỏ này có cho chúng ta niềm hoan hỷ là chúng ta cũng từng có phút giây là Phật mà ta không biết, không nắm bắt kịp, hoặc chợt nhận ra cũng chưa đủ năng lực giữ được lâu dài hay không. Nếu có chút hoan hỷ nào thì sau đó cũng nên băn khoăn “Làm sao giữ được Phật tánh đó ở cùng ta ?”

Để tự kiểm điểm, mỗi tối, trước khi đi ngủ, chúng ta thử nhớ lại trong ngày, xem có phút giây nào ta mang Tâm Bình Thường không ? Nếu có, dù chỉ ngắn ngủi, ta hãy thả vào hồ-tâm một mầm sen. Rồi cũng chính ta sẽ lặng lẽ ngắm hồ, xem có đóa sen nào nhô lên không ?

Bạn muốn thấy hồ-tâm mình thơm ngát hương sen hay chờ mãi chỉ có bùn lầy nước đọng ?

NAM MÔ PHƯƠNG TIỆN THÁNH CƯ ĐỘ, A DI ĐÀ NHƯ LAI, GIẢI THOÁT TƯỚNG NGHIÊM TH N, BIẾN PHÁP GIỚI CHƯ PHẬT.

Danh ngôn (6)

- Newton



Những điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước, còn những điều chúng ta không biết là cả một đại dương.