V
ô

Ư
u




Loài hoa che chở nhân tâm
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng

Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần

Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !


Một niềm tin mới

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương XXXVII, Thích Nhất Hạnh



Nửa tháng sau, vua Suddhodana thỉnh Bụt tới thọ trai trong hoàng cung để vua và hoàng gia lại có cơ duyên được nghe Bụt thuyết pháp. Lần này vua chỉ mời Bụt và đại đức Sariputta chứ không mời tăng đoàn. Vua cũng không mời vị tân khách nào cả. Trong không khí gia đình, Bụt đã giảng dạy về cách theo dõi hơi thở, quán chiếu các cảm thọ, phương pháp đi thiền hành và ngồi thiền tọa. Người dạy dỗ rất kỹ về cách thức quán chiếu để duy trì chánh niệm và an trú trong chánh niệm. Yasodhara, Rahula, Nanda và Sundari Nanda cũng có mặt trong buổi thuyết pháp này. Rahula đặc biệt có cảm tình với thầy Sariputta. Cậu rất ưa đứng gần thầy và nắm lấy tay thầy.

Khi Bụt đứng dậy ra về, mọi người đều muốn đưa người ra tới cổng Nam. Bụt trao bình bát cho em là Nanda cầm và chắp tay búp sen chào mọi người. Nanda ôm bát, đợi Bụt chào xong thì trả bát lại, nhưng Bụt không lấy lại bát. Vì thế Nanda mang bát đi theo Bụt về tới tu viện. Về tới tu viện, Bụt bảo Nanda ở lại chơi và sinh hoạt năm bảy hôm tại đây. Vừa yêu vừa kính Bụt, Nanda vâng lời. Thấy nếp sống ở đây rất thanh tịnh và thoải mái, vị hoàng tử trẻ đem lòng mến mộ. Một hôm, Bụt hỏi Nanda có muốn xuất gia theo Bụt tu học một thời gian không, Nanda đáp có, Bụt bảo thầy Sariputta làm lễ xuất gia cho hoàng tử.

Việc xuất gia của Nanda, Bụt đã có bàn trước với phụ vương. Vua cũng đồng ý với Bụt rằng tuy Nanda đủ thông minh và rất hiền lành, chàng vẫn chưa có đủ nhận thức độc lập và tính cương quyết cần có của một nhà chính trị. Bụt nói với vua có thể cho Nanda đi theo tu học và gần gũi với Bụt một thời gian để Bụt có thể rèn luyện cho chàng những đức tính cần thiết. Vua đã đồng ý với Bụt.

Nanda xuất gia được một tháng thì bắt đầu nhớ vị hôn thê của mình là tiểu thư Yanapada Kalyani. Thầy có thể che giấu nỗi buồn, nhưng Bụt đã thấy hết. Bụt nói với thầy:

- Kẻ nam nhi muốn thực hiện chí nguyện lớn thì phải vượt qua được những tình cảm thông thường. Em phải quyết tâm học đạo và rèn luyện bản thân thì sau này mới có cơ giúp ích được cho đời.

Rồi Bụt dặn đại đức Sariputta sắp đặt để thầy Nanda khỏi đi khất thực về khu phố của tiểu thư Kalyanu. Khi Nanda biết điều này, thầy vừa oán Bụt mà cũng vừa thương Bụt. Thầy thầm bảo là ông anh mình không có cái gì là không biết. Ông ấy nhìn thấu tận đáy tâm can của mình.

Rahula thấy chú được xuất gia ở suốt ngày với Bụt thì ham lắm. Cậu phân bì với mẹ. Yasodhara vuốt đầu con, bảo rằng phải lớn lên ít nhất là bằng chú Nanda thì mới được đi xuất gia. Rahula hỏi mẹ làm sao để có thể lớn mau, Yasodhara bảo cậu phải ăn uống cho đàng hoàng và tập thể dục mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều. Rahula đã được mẹ dạy gọi Bụt bằng thầy. Bà nhớ hôm đầu tiên Rahula được thấy Bụt từ trên lầu cao, bà đã chỉ Bụt và nói với con: “Cái ông thầy tu ấy là cha con đó. Con chạy xuống chào cha con đi và bảo cha con trao gia tài lại cho con”. Từ hôm ấy, Rahula cứ quen gọi Bụt là “Ông thầy tu ơi”, Yasodhara nghe được, bà bật cười, gọi Rahula lại và bảo:

- Con đừng gọi Bụt là “Ông thầy tu ơi”. Con phải gọi Bụt là “Thầy ơi”.

Từ đó, Rahula mới dùng tiếng “Thầy ơi” để gọi Bụt. Có một hôm tăng đoàn đi khất thực rất gần hoàng cung. Yasodhara và Rahula đứng ở trên lầu. Bà trông thấy Bụt giữa đám các vị khất sĩ. Rahula cũng trông thấy người. Yasodhara nói với con:

- Con chạy xuống với Bụt đi, và lần này nhớ xin cho được gia tài của người.

Rahula chạy xuống lầu. Cậu rất thương mẹ nhưng cũng rất thương Bụt. Ngày nào cậu cũng được ở với mẹ suốt ngày, nhưng cậu chưa từng được ở với Bụt suốt một ngày nào. Cậu ao ước được như chú là hoàng thái tử Nanda, hiện đang được sống suốt ngày bên cạnh Bụt. Cậu chạy mau lắm, cậu đã xuống tới sân hoàng cung. Cậu chạy ra cửa Nam và thấy Bụt. Lúc bấy giờ Bụt đã khất thực xong là đang cùng các vị khất sĩ trong nhóm đi thành hàng chậm rãi trở về tu viện. Rahula chạy thẳng tới một bên Bụt. Thấy Rahula, Bụt đưa một ngón tay trái ra, Rahula nắm lấy ngón tay ấy rồi đi theo Bụt. Cậu nói:

- Thầy ơi, đi ở bên thầy mát lắm, và dễ chịu nữa.

Nắng cuối xuân đã bắt đầu gay gắt. Cậu bé đi bên Bụt vừa được hưởng bóng mát của Người vừa được hưởng tình thương của Người. Đứng trên lầu cao, Yasodhara thấy hết. Bà biết Rahula được Bụt cho theo về tu viện.

Một lát sau, Rahula hỏi:

- Thầy ơi, gia tài của con đâu ?

Bụt đáp:

- Về tu viện thầy sẽ trao cho con.

Trưa ấy về tới tu viện, đại đức Sariputta chia phần ăn của mình với Rahula, Rahula được ăn cơm im lặng bên cạnh Bụt và bên cạnh đại đức sa. Rahula lại được gặp chú Nanda để nhõng nhẽo. Bụt bảo Rahula ngủ chung phòng với đại đức Sariputta. Thầy nào cũng cưng quý cậu. Cậu muốn ở luôn tại tu viện. Đại đức Sariputta nói muốn được ở luôn tu viện thì phải đi tu. Rahula nắm tay thầy Sariputta tới xin Bụt cho phép đi tu. Bụt gật đầu. Bụt bảo thầy Sariputta cho Rahula được xuất gia. Đại đức Sariputta ngạc nhiên. Thầy tưởng là Bụt nói đùa, ai dè Bụt lại nói thật. Thầy hỏi:

- Thế Tôn, làm sao mà cho Rahula xuất gia được ?

Bụt dạy:

- Thì cho cháu tập sự xuất gia, thọ giới khu ô-sa-di, và giao cho cháu phận sự đuổi quạ trong giờ các thầy ngồi thiền. Quạ ở đây nhiều quá, chúng đến quấy phá các thầy trong giờ thiền tập khá nhiều.

Thầy Sariputta xuống tóc cho Rahula và cho cậu thọ tam quy và dạy cho chú bốn giới: không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không uống rượu. Thầy lấy bớt một chiếc ca-sa của thầy, cắt ra và may lại thành một chiếc ca-sa nhỏ xíu cho Rahula mặc. Thầy dạy cho Rahula cách khoác y và ôm bát. Khoác y và ôm bát vào, Rahula trông giống một vị khất sĩ con con, ai thấy cũng thương, Rahula được lệnh ngủ chung với thầy Sariputta, đi khất thực và học hỏi với thầy Sariputta. Từ hôm có Rahula bên mình, thầy ít khi vào thành khất thực. Thầy đưa Rahula đi khất thực trong những thôn lạc gần tu viện. Theo phép người xuất gia, ai cũng chỉ được ăn mỗi ngày một bữa trước khi giờ ngọ chấm dứt, nhưng Rahula còn nhỏ quá, sợ chú tiểu mất sức, thầy Sariputta cho phép chú được ăn một lần nữa vào buổi chiều. Các vị thí chủ thường nhớ mang sữa và thức ăn để dành cho chú.

Tin Rahula đã được cạo đầu mặc áo ca-sa làm chú tiểu đã vào tới trong cung điện. Vua Suddhodana buồn lắm. Từ ngày Rahula đi với Bụt về tu viện, ông nội, bà nội, và mẹ chú nhớ chú lắm. Họ tưởng chú đi chơi vài hôm rồi về, ai ngờ chú lại ở trong tu viện và trở thành chú tiểu. Ông bà nội của Rahula không có cháu để cưng, rất lấy làm buồn khổ, nhưng Yasodhara thì buồn vui lẫn lộn. Tuy nhớ con quay quắt, nhưng mỗi khi nghĩ đến con đang được gần gũi Bụt, bà cũng thấy ấm áp trong lòng, bảy năm nay cậu bé đã thiếu cha.

Một buổi chiều, vua truyền lấy xe cho Ngài về tu viện. Hoàng hậu Gotami và bà Yasodhara cũng được đi với Ngài. Vua được Bụt ra đón tiếp. Nanda và Rahula cũng ra đón tiếp hoàng gia. Rahula chạy ra đón mẹ. Thầy Sariputta gọi chú lại, bảo chú chỉ được đi chứ không được chạy. Yasodhara ôm lấy chú tiểu vào lòng. Sau đó, Rahula lại đi đến với ông nội và bà nội. Vua làm lễ Bụt và nói, giọng có vẻ trách móc:

- Thế Tôn, trẫm đã đau xót vô cùng khi Người bỏ nhà đi xuất gia, rồi mới đây, Nanda cũng bỏ trẫm, bây giờ đến Rahula cũng bỏ trẫm. Như vậy là quá đáng. Thế Tôn, đối với một người tại gia như trẫm, tình cha con và ông cháu rất nặng. Niềm đau xa cách cũng như nhát dao cắt vào da. Cắt vào da xong, dao cắt sâu vào da thịt, cắt sâu vào da thịt rồi, dao lại cắt vào xương và vào tủy. Vậy xin Thế Tôn nghĩ lại cho. Xin Thế Tôn và các vị đại đức từ nay đừng nhận cho người còn nhỏ tuổi xuất gia nếu không có sự ưng ý của cha mẹ chúng.

Bụt an ủi vua, Người thuyết pháp cho vua nghe để vua thấy được rõ thêm sự thực về vô thường và vô ngã. Người nói đến công phu tu tập tinh tiến hàng ngày như là cửa ngõ duy nhất thoát ra ngoài khổ nạn. Người nói Nanda và Rahula đang thực sự sống trong chánh đạo, đó là một điều may mắn và người khuyên vua tinh tiến trong sự tu tập đạo giải thoát. Tìm được niềm vui chân thật trong nếp sống tỉnh thức hàng ngày.

Càng nghe Bụt, vua càng cảm thấy nhẹ nhõm, và cuối cùng vua đã vui lên trở lại. Bà Gotami và Yasodhara cũng được nghe Bụt nói. Hai người cũng cảm thấy được an ủi rất nhiều. Nhân có đại đức Sariputta ngồi bên, Bụt quay lại nói với thầy:

- Từ nay trở đi, các vị khất sĩ sẽ không chấp nhận cho trẻ em xuất gia nếu không có sự đồng ý của phụ huynh các em. Xin đại đức ghi vào quy chế như vậy.

Thấm thoát mà Bụt và giáo đoàn đã ở lại vương quốc Sakya hơn nửa năm. Số người đến xin xuất gia với Bụt hoặc với các vị khất sĩ lớn đã lên tới gần năm trăm vị. Số cư sĩ tại gia thì đông quá không thể nào đếm cho xiết. Vua Suddhodana đã dâng cúng cho giáo đoàn một cơ sở mới để làm tu viện. Cơ sở này là cung điện mùa hè ngày xưa của thái tử Siddhatta, có vườn cây rất rộng rãi và rất mát, nằm về phía Bắc kinh đô, đại đức Sariputta sắp đặt để đưa mấy trăm vị khất sĩ về chủ trì tu viện này. Tăng đoàn đạt được cơ sở vững chắc cho sự hành đạo tại vương quốc, Bụt sẽ trở về tu viện Trúc Lâm cho kịp mùa an cư như người đã hứa với vua Bimbisara và với tăng đoàn ở đấy. Vua Suddhodana biết Bụt sắp ra đi nên đã thỉnh người vào cung để cúng dường và xin người thuyết pháp. Vua đã mời hoàng tộc và triều đình đến để nghe Bụt.

Trong buổi thuyết pháp này, Bụt đã nói về đạo đức và chính trị. Người nói đạo đức có thể soi sáng cho chính trị và người làm chính trị có thể nương theo đạo đức để thực hiện công bằng và hạnh phúc trong xã hội. Người nói:

❝Nếu quý vị biết tu dưỡng bản thân, mở rộng tầm hiểu biết và lòng từ bi, thì quý vị sẽ tìm ra được một đường lối giúp nước và trị dân có thể đem lại thái bình và hạnh phúc mà không cần đến những phương thức bạo động. Quý vị không cần chém giết, không cần đến những bản án tử hình, không cần đến những biện pháp tra tấn, tù đày và tịch biên gia sản. Điều này không phải là mộng tưởng mà là một điều có thể thực hiện được.

Khi người làm chính trị có đủ hiểu biết và thương yêu thì họ có thể thấy được sự thật về những người dân đang sống trong nghèo khổ và áp bức. Thấy được như thế, nhà chính trị sẽ tìm cách cải thiện guồng máy cai trị, để làm giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội và để loại trừ sự lạm dụng quyền thế và sự bóc lộ dân nghèo.

Thưa quý vị, người làm chính trị phải sống đời gương mẫu. Đừng sống đời giàu sang thái quá, bởi vì sự giàu sang là bức tường ngăn cách mình với dân chúng. Nên sống thanh bạch, giản dị, và dùng thì giờ của mình vào việc ích nước lợi dân chứ đừng mải mê trong việc hưởng thụ dục lạc. Có như thế, người làm chính trị mới có được niềm tin của dân chúng. Hễ mình thương dân thì dân sẽ thương mình lại, do đó, mình có thể thực hiện được con đường chính trị nhân ái của mình. Con đường chính trị này có thể gọi là con đường đức trị, khác với con đường pháp trị. Đức trị thì dùng đạo đức nhiều hơn sự trừng phạt. Pháp trị thì dùng sự trừng phạt nhiều hơn đạo đức. Theo đạo lý Tỉnh Thức, hạnh phúc chân thật có thể đạt được bằng con đường đức trị.❞


Vua Suddhodana và quần thần lắng nghe Bụt với tất cả sự chú ý. Hoàng thúc Dronodanaja, chú của Bụt, và là thân sinh của Devadatta, nói:

- Con đường đức trị mà Bụt nói thật là một con đường rất đẹp, nhưng có lẽ ở đây chỉ có một mình Bụt là có đủ tư cách và đức độ để thực hiện mà thôi. Tại sao Bụt không ở lại Kapilavatthu, tại sao Bụt không nắm lấy giềng mối chính trị ở vương quốc Sakya này để tạo an lạc và hạnh phúc cho muôn dân ?

Vua Suddhodana cũng nói:

- Tuổi trẫm đã cao rồi. Nếu Bụt chịu ở lại thì trẫm sẽ thoái vị để Bụt ngồi vào vương vị. Với đạo đức của Bụt, với uy tín và sự thông minh của người, trẫm tin chắc là quốc dân sẽ hoàn toàn đứng sau lưng Bụt, và vương quốc sẽ chẳng lao lâu sẽ trở nên giàu sang và lừng lẫy.

Bụt mỉm cười, người lặng thinh cúi đầu. Cuối cùng nhìn vua, Bụt nói:

- Phụ vương, con không còn là người của một gia đình, của một dòng họ hay của một vương quốc nữa. Bây giờ đây gia đình của con là nhân loại, nhà cửa của con là trời đất và địa vị của con là một ông thầy tu sống vào hạt cơm bố thí của mọi người. Con đường mà con đã chọn là con đường của người đạo sĩ chứ không phải là con đường của nhà chính trị. Con nghĩ là con sẽ phụng sự cho nhân loại được bền bĩ hơn với tư cách của một người tu.

Hoàng hậu Gotami và Yasodhara không tiện phát biểu trong một cử tọa như cử tọa hôm nay, nhưng cả hai điều cảm động gần rơi lệ khi nghe Bụt nói. Hai người đều thấy Bụt nói đúng. Bụt tiếp tục thuyết giảng cho vua và cho mọi người nghe về năm giới và cách tổ chức hành trì năm giới trong khung cảnh gia đình và trong xã hội. Người nói năm giới có thể được xem như là những nguyên tắc sống có thể đem lại hạnh phúc trong gia đình và hòa bình trong xã hội. Người giảng cặn kẽ về từng giới một. Cuối cùng người nói:

- Muốn có đoàn kết toàn dân, một niềm tin cần được tạo dựng. Những người làm chính trị nếu thực hành được năm giới thì sẽ tạo được niềm tin lớn trong quốc dân. Với niềm tin ấy không có công trình gì mà không xây dựng được. Niềm tin ấy có thể bảo đảm được hòa bình, hạnh phúc và công bằng xã hội trong vương quốc. Nếp sống tỉnh thức là nền đạo lý mà chúng ta đang cần đến như một đường lối và một niềm tin. Giáo lý truyền thống Bà-la-môn không chứa đựng được đức tự tin và không bảo đảm được quyền bình đẳng giữa mọi con người. Ta hãy dùng đạo lý Tỉnh Thức như một niềm tin mới.

Bụt cho biết người sắp lên đường trở về vương quốc Maghada, nhưng người sẽ còn trở lại Kapilavatthu. Vua, triều thần và hoàng tộc rất vui khi nghe người nói như vậy.

Đoan Ngọ

- Nguyễn Xuân Huy



“Cả đời đục cả, một mình ta trong
Mọi người say cả, một mình ta tỉnh …”


Khuất Nguyên u sầu than vấn
Rồi trầm mình cùng phiến đá xuống dòng Mịch La
Đã mấy ngàn năm sự tích
Phú Hoài Sa
Khoảng trời xa ...
Có đi vào quên lãng ?
Không !
Tinh thần ấy còn đây tập tục
Tắm tiên - nước nguồn đã gạn đục khơi trong
Gầu nước mát khỏa tâm hồn xán lạn
Cho con người tỉnh táo
Tan chảy những làn say

Và đây
Bao loài sâu bọ
Cũng gục bầy
Khi thấm vị thuốc thang
Chát - Chua mong diệt lũ tham tàn
Vọng hồn trong sắc mây lan
Mùa về Đoan Ngọ ngập tràn tâm tư
Ước đời vui mái an cư
ĐỤC - TRONG - SAY - TỈNH ... ngẫm từ cõi xưa

Danh ngôn (104)

- Từ Thần Ông



Khi rảnh rỗi nên kiểm điểm lại những việc làm trong cuộc sống, lúc yên tĩnh nên suy xét việc làm thường ngày của mình. Lúc nào cũng một lòng theo con đường ngay thẳng thì tự nhiên trời đất sẽ không phụ lòng.

Dare to be what you are

- Henri-Frederic Amiel



Dare to be what you are, and learn to resign with a good grace all that you are not and to believe in your own individuality.

╰▶▶▶ Hãy dám là chính mình, và học cách buông bỏ nhẹ nhàng những gì không thuộc về mình, hãy tin vào chính mình.

Có thể quên mình thì đó là phước báo to lớn

- HT. Tịnh Không



PHẢI TU PHƯỚC NHƯ THẾ NÀO ?
● Những gì chúng ta nghĩ và làm đều vì chúng sanh, có thể quên mình, … thì đó là phước báo lớn.

TẠO ÁC LÀ GÌ ?
● Niệm niệm đều vì mình mà tưởng, mà làm, … thì đó là chuyện ác to lớn.

Cuộc chơi vô thường

- Toàn Tâm Hòa



Ước gì dừng lại thời gian
Khỏi lo chuẩn bị hành trang tuổi chiều
Phôi phai dẫu có … ít nhiều
Vẫn bay như những cánh diều … vô tư

Nhìn mình đã lắm hao hư
Bước chân như thể dường như mỏi rồi
Bên đường ngắm ánh chiều trôi
Sao ta lại cứ bồi hồi không yên

Ta về tìm một góc riêng
Lắng lòng cảm nhận định thiền Chơn Tâm
Dù chưa ngộ được thậm thâm
Ngồi yên hít thở khai mầm Chân Như

Câu kinh vang vọng trầm tư
Mà còn sa ngã ảo hư mộng thường
Trầm mê cám dỗ khôn lường
Mình trần mắt thịt khó mường tượng ra

Tìm đường gội rửa trầm kha
Hiểu rằng nợ nghiệp … trải qua cuộc đời
Ta đang sống giữa đất trời
Thôi đành chấp nhận cuộc chơi vô thường

Đi chùa là tìm lại chính mình

- Hoài Chi



Phật giáo là một hệ tư tưởng khoa học và vô thần được truyền vào nước ta rất sớm. Theo sách Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên thì vào khoảng đầu thế kỷ thứ III (TCN) ở nước ta đã có các cao tăng từ Ấn Độ đến truyền giáo và xây tháp.

Có thể nói, đạo Phật đã có mặt ở Việt Nam ngay từ thời điểm đó hoặc muộn hơn. Đến khi đất nước rơi vào hoàn cảnh Bắc thuộc, bị áp đặt hệ tư tưởng Nho - Lão thì ý thức khao khát tự do trong lòng dân chúng trỗi dậy và đạo Phật được xem là một hệ tư tưởng đối trọng. Phật giáo đã song hành cùng vận mệnh của dân tộc ta trải qua suốt mấy ngàn năm thăng trầm cho đến ngày nay.

Phật giáo ở nước ta hiện nay có nhiều tông phái, hệ phái, chùa viện có mặt ở khắp nơi để phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng, tu học, gửi gắm tâm linh, tìm lành lánh dữ của mọi tầng lớp xã hội. Đi chùa coi như một việc rất phổ biến của người dân, đặc biệt là dịp lễ hội. Nhưng đi chùa để làm gì ? Hiểu thế nào là tinh thần chính yếu của Phật giáo để an tâm từ bi giải thoát ? Hay đi chùa để quỳ lạy cầu xin, thậm chí sa vào các tệ nạn mê tín dị đoan ? Những vấn đề này đang và đã xảy ra ở khắp nơi như một chiều hướng tụt hậu của nhu cầu văn hóa tín ngưỡng.

Chúng ta biết, Phật chính là Đạo, là trí tuệ sáng suốt, là triết lý, là con đường dẫn chúng sinh ra khỏi mê lầm dục vọng để đi đến giải thoát. Đức Phật là người nắm được những nguyên lý đó, thực hành rốt ráo và chứng đắc, Ngài làm tấm gương cho chúng sinh noi theo. Chứ Đức Phật không phải là một vị thần linh có quyền năng ban phúc hay giáng tội cho ai cả. Phúc hay tội do chính bản thân mình gây ra và cũng chỉ có chính mình giải trừ nghiệp của mình mà thôi. Đạo Phật là con đường giúp ta ngộ ra bản chất của thiện ác, nguồn gốc của mọi đau khổ và hướng ta đi đến cái đức lành giải thoát. Mà đạo nào thì phải đức ấy, nếu cái tâm đức mà không có đạo làm bệ đỡ thì nó cũng lênh đênh trôi nổi, sa vào dị đoan mê tín, huyễn hoặc cho mình và người một cách hết sức tai hại. Vì lòng tham không đáy, ngã mạn vô chừng, dục vọng miên man truyền kiếp. Sự ngu tối, cố chấp là chỗ dựa lý tưởng cho những sai lầm và tội ác.

Chính vì vậy, đạo Phật chủ trương phá chấp, ta không phải là ta mà ta cũng chẳng là ai cả. Như câu chuyện một nhà sư đến hỏi Thiền sư Vân Môn “Phật là gì ? Trả lời - Cục phân khô (Càn thỉ quyết)”. Triết lý trong câu nói bất hủ kia ta nên hiểu như thế nào ? Bất cứ một vật gì nếu đem chia nhỏ ra nhiều lần đến “tế vi sắc tướng” (không thể chia được nữa) thì lúc ấy nó cũng không còn là nó nữa, nó không mang tính chất của cái gì nữa cả, chính vì thế mà nó lại có tính chất của bản thể vũ trụ. Mà bản thể của vũ trụ là hòa đồng, những cái hạt li ti bé nhỏ vô cùng ấy kết hợp với nhau bởi những lý do, những nguyên nhân khác nhau để trở thành muôn loài muôn vật. Vậy giữa “cục phân khô” và vạn vật có gì khác nhau đâu. Muôn vật muôn loài đều có chung một gốc, nên mọi người phải luôn có ý thức thương yêu, tha thứ, bao dung mênh mông tràn ngập vũ trụ, chứ không chỉ dừng lại ở đồng loại. Đó là một tư tưởng hết sức vĩ đại và rất khoa học tự nhiên, không máy móc hay siêu hình gì cả … Cái tâm bình đẳng của nhà Phật nằm ở chỗ đó. Đó là chủ nghĩa nhân loại trung tâm còn cao cả hơn cả chủ nghĩa nhân văn mà hiện nay một số người đang rầm rộ chủ thuyết. Chính con người vì quá phân biệt mới nảy ra vô số chướng ngại mà chướng ngại là đi đến u tối, sai lầm và tội lỗi mà thôi.

Vào chùa, ta thường thấy hình tượng Phổ Hiền Bồ-tát trong Hoa nghiêm Tam thánh cầm bông sen giơ lên, đó là một biểu tượng triết lý vừa sâu thẳm vừa hết sức gần gũi - thế giới của sự dấn thân và giải thoát. Ý nghĩa đó là một thông điệp với mọi người, vào chùa là đi tìm lại chính mình, đi tìm lại cái tâm thất lạc của mình trong chốn bụi bặm xô bồ ngoài kia. Chứ không phải vào chùa để cầu xin, đễ đạt được điều này điều nọ… Vào chùa là ta đi tìm cái bản thể Chân như, đi tìm cốt lõi của bản chất tốt đẹp sâu xa nhất của chính bản thân mình. Đi tìm cái trí tuệ Bát-nhã để vén đám mây mù u tối che đậy cái thân tâm sáng suốt của mình. Hình tượng Đức Phật mang ý nghĩa bao hàm cho ánh sáng của trí tuệ soi tới chúng sinh. Và nhờ chính trí tuệ tuyệt luân vô nhiễm đó mà xóa đi mọi mầm mống của tội ác. Người đến chùa cốt yếu nhất là để nương nhờ tha lực của Phật mà xây dựng điều thiện trên nền tảng trí tuệ Phật chứ không nên nhằm mục đích khác. Vì triết lý của nhà Phật là dạy cho chúng sinh về vũ trụ quan, nhân sinh quan chứ không hề dạy cho chúng sinh đi cầu xin. Tâm ta cũng là tâm Phật, mà cái tâm đó phải vì người khác chứ không chỉ bo bo vì mình. Đạo Phật hoàn toàn không có chỗ nào dành cho vấn đề thần bí hay mê tín dị đoan cả.

Cuộc sống là một quy luật của vô thường, không có cái gì tồn tại vĩnh viễn. Có sinh tức có dị, có dị ắt có diệt. Mà để hiểu được nó thì ta phải chú ý đến nội tâm, tức là phải nội quan chính bản thân mình trên bệ đỡ của trí tuệ. Vì tâm nhờ có tuệ thì tâm mới trong sạch. Nếu tâm mà không tuệ thì dễ dàng trôi nổi vào bến bờ dị đoan mê tín, hại mình hại người. Đi chùa là tìm cái thanh tịnh chứ không phải đi tìm những ngôi chùa to lớn sang trọng để cúng dường cầu phúc cầu lợi hay để được vinh danh trong giấy khen, sổ vàng gì cả. Vì theo Phật giáo, một khi vật chất càng bề thế to lớn thì càng làm cho tâm hồn con người teo lại. Mà tâm hồn bị teo lại thì con người dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân. Lòng tin bị khủng hoảng, chướng ngại chất chồng. Lúc ấy tín đồ lẫn giáo hội chính là những kẻ đào mồ chôn tôn giáo của mình. Người ta gọi là thời kỳ mạt pháp vậy. Vì con người phải chịu nhiều đau khổ nên mới tìm đến đạo để giải thoát những đau khổ ấy, chứ không phải tìm đến đạo để bị thêm những ràng buộc, bị lệ thuộc vào những quy định này kia, vì như thế sẽ làm cho trí tuệ bị bào mòn và đóng cứng. Đạo Phật luôn hướng con người đến với tự do trí tuệ (không phải tự do vô tổ chức), phải biết mềm dẻo và nhẫn chịu để xua đuổi diệt trừ dục vọng thấp hèn, tham sân si …

Đức Phật nói, Ta là Phật đã thành còn chúng sinh là Phật sẽ thành. Có nghĩa là vạn vật đều hội đủ thanh tịnh, từ bi. Mà muốn khai triển nó để cứu mình cứu người thì phải xuất phát từ trí tuệ sáng suốt, xuất phát từ gốc tâm của chính mỗi con người. Cái đó là tự mình, do mình chứ không ai mang đến để cho mình cả. Nên vào chùa cầu xin là làm chuyện không có nền tảng. Và phải luôn hiểu rằng cứu cánh của Phật giáo là giải thoát khỏi những phiền não để con người thêm tinh tấn mà sống cho đẹp và có ích cho mình cho người, chứ Phật không dạy ta trở thành những con cừu chỉ biết phục tùng một cách thụ động đến mức ngu muội trong tăm tối.

Ngày nay không ít chư Tăng lại tự sa vào dị đoan thần quyền, kêu gọi vong linh, trục hồn, bày vẽ ra đủ trò cúng bái … điều đó thật tai hại. Người đi chùa thì bẻ nhánh bẻ cành cầu phúc cầu lộc một cách hết sức vô duyên, xả rác vô tội vạ trong khuôn viên chùa … Niềm tin, giá trị bị đảo lộn gần như thoái hóa. Có thể ví một câu, làm thầy không giỏi thì dắt trò vào ngõ cụt, làm Tăng mà không thông tuệ mọi yếu lý, yếu nghĩa của Phật thì dẫn chúng sinh vào đường mê, cõi ác.

Đạo Phật lấy từ bi làm đầu, lấy trí tuệ làm gốc. Tinh thần của Phật giáo là hòa giải, không xung đột, chiến tranh. Mấy ngàn năm nay Phật giáo luôn đồng hành với vận mệnh của dân tộc Việt, nó là một phần lớn hiện hữu trong tổng thể văn hóa Việt. Mà đã là văn hóa và Phật giáo thì không bao giờ có chuyện cầu xin để được này nọ. Vào chùa là đi tìm chính cái tâm trong sạch của ta để hòa vào cái tâm trong sạch của người trên cơ sở trí tuệ Phật mà giải trừ phiền não ác nghiệp, những dục vọng thấp hèn, những ganh đua hơn kém … để sống tốt, cùng nhau đi đến bến bờ của hạnh phúc viên mãn.

Vào chùa

- Thích Tánh Tuệ



Vào chùa là đi tìm lại chính mình, đi tìm lại cái tâm thất lạc của mình trong chốn bụi bặm xô bồ ngoài kia, chứ không phải vào chùa để cầu xin, để đạt được điều này điều nọ …

Vào chùa là ta đi tìm cái bản thể Chân Như, đi tìm cốt lõi của bản chất tốt đẹp sâu xa nhất của chính bản thân mình. Đi tìm cái trí tuệ Bát-nhã để vén đám mây mù u tối che đậy cái thân tâm sáng suốt của mình. Hình tượng Đức Phật mang ý nghĩa bao hàm cho ánh sáng của trí tuệ soi tới chúng sinh. Và nhờ chính trí tuệ tuyệt luân vô nhiễm đó mà xóa đi mọi mầm mống của tội ác.

Người đến chùa cốt yếu nhất là để nương nhờ giáo Pháp của Phật mà xây dựng điều thiện trên nền tảng trí tuệ Phật chứ không nên nhằm mục đích khác. Vì triết lý của nhà Phật là dạy cho chúng sinh về vũ trụ quan, nhân sinh quan, giải thoát quan, chứ không hề dạy cho chúng sinh đi cầu xin, nô lệ thần thánh bên ngoài.

Vào chùa để biết yêu thương
Vào chùa để biết con đường quy chân
Vào chùa gội rửa tham, sân
Chắp tay nhìn Phật buông dần chấp mê

Vào chùa là để trở về
Biết tâm và Phật không hề cách xa
Vào chùa để sống bao la
Ta và sanh chúng một nhà Như Lai

Quay về sống giữa trần ai
Ba nghiệp thanh tịnh chùa ngay tại lòng
Đi chùa tập sống thong dong
Về đời phiền não hóa không nhẹ nhàng

Tâm an vạn sự đều an
A Di Đà Phật - Lạc bang đây là !

Pháp ngữ (12)

- Hòa Thượng Tuyên Hóa



Lòng cung kính sẽ biến tánh cang cương ngang ngạnh thành tánh ôn hòa, nhũn nhặn. Lạy Phật là lạy Phật trong tự tánh, thành Phật cũng là thành Phật của tự tánh.

Không bao giờ vứt vỏ cam đi nữa

( Theo Phunugiadinh|Chuyên mục: Thuốc hay tại nhà )

Chúng ta đều biết rằng cam rất tốt cho sức khỏe, chủ yếu là do hàm lượng Vitamin C cao. Chúng cũng chứa nhiều Vitamin A, B, canxi, magiê, cali, phốt pho, chất xơ hòa tan và các chất dinh dưỡng khác.

Sau khi thưởng thức loại trái cây thơm ngon này, hầu hết chúng ta đều vứt vỏ đi, nhưng làm như vậy đồng nghĩa với việc chúng ta đã bỏ lỡ nhiều lợi ích, vì vỏ cam có tác dụng tốt đối với sức khỏe, sắc đẹp, và nhiều công dụng khác. Bạn thậm chí có thể dùng vỏ cam để nấu ăn. Vì vậy, hãy tận dụng các lợi ích dinh dưỡng của vỏ cam thông qua vô số cách khác nhau. Dưới đây là chín cách tận dụng vỏ cam cực hay mà bạn cần biết.


1. CẢI THIỆN TÔNG MÀU DA









Những đốm tàn nhang và những nhược điểm trên da có thể giảm bằng cách sử dụng vỏ cam, chúng hoạt động như một chất tẩy trắng tự nhiên giúp cải thiện độ sáng của làn da bạn. Hơn nữa, hàm lượng Vitamin C duy trì độ đàn hồi của da, giúp da hồng hào khỏe mạnh, nó thậm chí bảo vệ da khỏi tia cực tím có hại (UV).

- Trộn hai muỗng cà phê bột vỏ cam và sữa chua không đường cùng với một muỗng cà phê mật ong.

- Đắp mặt nạ này lên mặt và cổ, và mát-xa nhẹ nhàng theo hình tròn.

- Chờ khoảng 20 phút, sau đó rửa sạch bằng nước ấm.

- Đắp mặt nạ này 2 - 3 lần một tuần.

Để làm bột vỏ cam, hãy phơi khô vỏ dưới ánh nắng mặt trời trong khoảng ba ngày.

2. CHỐNG LẠI CÁC DẤU HIỆU LÃO HÓA SỚM

Các chất chống oxy hóa mạnh mẽ trong vỏ cam có tác dụng chống lại các gốc tự do, các gốc tự do này có thể gây tổn thương cho các tế bào da khỏe mạnh, làm tăng quá trình lão hóa da, thúc đẩy các nếp nhăn và khiến da chảy sệ. Hơn thế nữa, vỏ cam có tác dụng tuyệt vời trong việc làm sáng da nhờ đặc tính giúp se khít lỗ chân lông.

- Trộn một thìa bột vỏ cam và bột yến mạch, với một lượng mật ong vừa đủ.

- Bôi hỗn hợp này lên mặt và cổ.

- Đợi trong 30 phút rồi rửa sạch bằng nước lạnh.

- Sử dụng loại mặt nạ chống lão hóa này một lần trong một tuần để có kết quả tốt nhất.

3. LOẠI BỎ MỤN ĐẦU ĐEN và ĐẦU TRẮNG

Bột vỏ cảm có tác dụng như một chất tẩy tế bào chết tự nhiên giúp loại bỏ các chất bẩn và tế bào chết ra khỏi da của bạn. Điều này giúp ngăn ngừa hình thành mụn đầu đen và đầu trắng, nó thậm chí làm giảm sự xuất hiện của mụn trứng cá.

- Chuẩn bị một hỗn hợp với một lượng bột vỏ cam và một lượng sữa chua không đường bằng nhau.

- Bôi lên mặt và cổ, mát-xa nhẹ nhàng theo đường tròn.

- Đợi khoảng từ 15-20 phút.

- Dùng tay ướt nhẹ nhàng bóc lớp mặt nạ này ra.

- Dùng biện pháp này mỗi ngày để giảm bớt mụn đầu đen và đầu trắng, sau đó thực hiện mỗi tuần một lần để phòng ngừa.

4. LÀM TRẮNG RĂNG

Vỏ cam tươi cũng có tác dụng giảm vết ố trên răng của bạn. Vỏ có chứa một hợp chất được gọi là d-limonene giúp giảm tình trạng ố răng, đặc biệt là do hút thuốc.

- Đơn giản chỉ cần chà phần cùi bên trong vỏ cam (phần trắng) lên răng trong hai đến ba phút, sau đó súc miệng bằng nước ấm. Thực hiện hai lần mỗi ngày cho đến thu được kết quả đáng hài lòng.

- Ngoài ra, trộn một ít bột vỏ cam và một ít nước để tạo ra một hỗn hợp sền sệt, chải răng bằng hỗn hợp này hai lần một ngày trong vòng vài tuần.

5. HỖ TRỢ GIẢM CÂN

Vỏ cam có thể giúp bạn giảm cân, vỏ có chứa nhiều thành phần dinh dưỡng, đặc biệt là Vitamin C, loại Vitamin chống oxy hóa này giúp đốt cháy mỡ thừa trong cơ thể bạn. Hãy uống trà vỏ cam thay vì cà phê và soda trong thời gian ăn kiêng. Cách làm trà vỏ cam:

- Phơi khô vỏ cam

- Cho một muỗng canh vỏ khô vào một cốc nước nóng

- Ủ khoảng 10 phút

- Vớt vỏ ra và cho thêm một chút mật ong nguyên chất

- Uống hai chén trà thảo dược này hằng ngày

Lưu ý: hãy chắc chắn rằng bạn sử dụng vỏ cam hữu cơ và rửa sạch trước khi phơi khô.

6. GIẢM CHOLESTEROL CÓ HẠI

Vỏ cam thậm chí có thể giúp làm giảm các lipo-protein mật độ thấp (cholesterol có hại) trong cơ thể. Những chất này làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Một lượng lớn pectin (chất xơ hòa tan tự nhiên) trong vỏ giúp giảm cholesterol cũng như huyết áp. Một nghiên cứu năm 2004 được công bố trên tạp chí “Hóa Học Nông Nghiệp và Thực Phẩm” cho thấy các flavone polymethoxylated trong vỏ cam có đặc tính giảm cholesterol mà không gây ra tác dụng phụ.

- Uống trà vỏ cam mỗi ngày hai lần.

- Bạn thậm chí có thể cho thêm vỏ cam để tạo màu cho đồ ăn và đồ uống.

7. HỖ TRỢ ĐƯỜNG RUỘT

Vỏ cam thậm chí còn có tác dụng cải thiện sức khỏe tiêu hóa. Hàm lượng chất xơ cao giúp điều chỉnh hoạt động của hệ tiêu hóa, giúp ngăn ngừa táo bón. Vỏ cam cũng giúp điều trị các rối loạn tiêu hóa khác nhau, bao gồm: khó tiêu, đầy hơi, hội chứng ruột kích thích, đầy bụng và ợ chua. Ngoài ra, pectin trong vỏ cam cũng có lợi cho sự phát triển của vi khuẩn có ích trong ruột già. Sau bữa ăn, hãy uống một tách trà vỏ cam để cải thiện tiêu hóa.

8. CHẤT LÀM SẠCH KHÔNG KHÍ

Hương thơm ngọt ngào, thơm ngát của vỏ cam có tác dụng như một chất làm sạch không khí tuyệt vời. Bạn có thể sử dụng chúng để che giấu những mùi khó chịu ở các khu vực khác nhau trong nhà hoặc văn phòng của bạn, bao gồm cả nhà bếp, phòng tắm, phòng ngủ và phòng khách.

- Cho một nắm vỏ cam tươi, một ít nước chanh và vài thanh quế cùng với hai cốc nước, đun sôi trong mười phút. Lọc, để nguội, và đổ chất lỏng vào một chai xịt. Sử dụng khi cần.

- Để một ít bột vỏ cam trong các túi nhỏ và đặt chúng ở các khu vực khác nhau quanh nhà để khử mùi hôi.

- Đặt vài vỏ cam khô ở đáy thùng rác để hút mùi.

9. XUA MUỖI và KIẾN

Mùi của vỏ cam ngăn chặn kiến và cũng có tác dụng xua đuổi muỗi, ruồi, thậm chí cả mèo. Côn trùng không thích limonene (chất tạo nên mùi của cam quýt) - một chất có nhiều trong vỏ cam và các loại quả có múi khác.

- Xay một ít vỏ cam và rắc bột ở những nơi có kiến, ruồi, và các loại côn trùng khác.

- Để ngăn ngừa muỗi đốt, chà vỏ cam tươi lên khắp người bạn.

- Đặt vỏ cam quanh cửa sổ, cửa ra vào để tránh mèo lạc vào nhà.

LỜI KHUYÊN:

* Rửa vỏ cam càng sạch càng tốt để loại bỏ thuốc trừ sâu trước khi phơi chúng dưới ánh nắng mặt trời.

* Phơi vỏ thật khô trước khi xay thành bột.

* Cất trữ bột khô trong hộp kín.

* Không để vỏ tươi trong tủ lạnh

D.P.A (18)

- Tuệ Sỹ

Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về



Hãy sống với trái tim lương thiện, bao dung

- Quỳnh Chi



Gia đình cặp vợ chồng giáo sư nọ có ba cô con gái vô cùng xinh đẹp và khá nhiều chàng trai theo đuổi, nhưng cuối cùng khi phát hiện ra ba cô gái bị câm, họ đều bỏ đi. Vợ chồng giáo sư cảm thấy rất lo lắng và đau khổ nên họ quyết định nghe lời bạn bè đi tìm một vị cao tăng, không ngờ khi gặp được một vị cao tăng, Ngài đã hỏi về một câu chuyện cuộc đời 25 năm trước của vị giáo sư, đồng thời vị cao tăng cũng nói với ông giáo sư: “bất cứ sự việc gì cũng đều có nhân quả, cho dù là ông có tin hay không, chúng ta đều đang sống trong những mối quan hệ nhân quả đó …”

Cặp vợ chồng giáo sư năm nay 55 tuổi, họ có ba cô con gái nhan sắc xinh đẹp, tuổi đời lần lượt là 20, 22, 25. Tuy cả ba cô đã lớn nhưng đều chưa có bạn trai, cặp vợ chồng cảm thấy rất phiền não. Mỗi khi có chàng trai nào tới tán tỉnh, chỉ cần phát hiện con của họ bị câm, chàng trai đó đều viện cớ nhanh chóng rút lui.

Vợ chồng giáo sư từ trước tới giờ không tin vào nhân quả luân hồi. Tuy nhiên, vợ ông liên tục sinh ra ba cô con gái đều bị câm, tình cảnh này đã gây ra một cú sốc lớn về tinh thần đối với họ, họ cảm thấy đau đớn, buồn phiền lo nghĩ tới mức trông già hẳn đi. Lúc này họ mới ngộ ra được một điều, tiền bạc giàu có không mang đến cho họ sự hạnh phúc, ba cô con gái có khiếm khuyết bị câm khiến họ cảm thấy sợ hãi, lo lắng và bất lực. Một thời gian dài tinh thần đau khổ, không có thuốc nào có thể điều trị. Vào một ngày cuối tuần, họ được một người bạn giới thiệu đi tới một ngôi chùa ở ngoài thành phố nghe một vị cao tăng giảng Pháp.

Vị cao tăng giảng quy luật “thiện hữu thiện báo, ác giả ác báo” luôn tồn tại, cho dù có tin hay không, chúng ta vẫn luôn đang sống trong luật nhân quả. Mỗi chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với những hành vi tốt hay xấu đã làm, mỗi người tự tạo cho mình số mệnh. Nếu như việc ác do chính bạn gây ra, vậy tương lai bạn sẽ phải gánh chịu quả đó. Những lời nói này như một hồi chuông cảnh tỉnh, trực tiếp ngấm sâu vào trong lòng của ông giáo sư, ông cảm thấy như ánh mắt của vị cao tăng đang hướng về phía mình.

Sau khi bài giảng của vị cao tăng kết thúc, ông giáo sư chủ động đi tìm Ngài cao tăng, không ngờ tới, cao tăng vừa gặp ông đã hỏi: “25 năm trước con đã từng làm gì, trong lòng con chắc biết rõ ?”, ông giáo sư giật mình nhớ lại, 25 năm trước, ông đã từng làm một việc khiến cả đời ông khó có thể quên.

Năm đó, sau khi hai vợ chồng ông mới kết hôn được hai tháng, vợ ông có thai, ông rất vui mừng vì điều này, do đó mỗi cuối tuần, ông đều ngồi trên chiếc xe sang trọng cùng vợ đi ngắm cảnh, du ngoạn. Có một lần ông tham gia vào một buổi lễ, chiếc xe đỗ trong một đền thờ. Khi ông vừa mở cửa xuống xe, liền có một đám trẻ con lang thang ùa tới xin tiền. Ông lại là người ghét những đứa trẻ ăn xin, không những không cho chúng tiền, không những thế, ông còn ngăn cản những người khác cho tiền và nói như vậy sẽ tạo thành thói quen xấu, lũ trẻ sẽ lười nhác không chịu đi làm việc, sẽ gây tổn thất cho xã hội. Đám trẻ lang thang sau khi nghe thấy vậy liền tự động rời đi.

Khi hai vợ chồng giáo sư vào tham gia buổi lễ, khi quay trở về chỗ đỗ xe phát hiện chiếc xe sang trọng của mình bị ai đó cố tình làm xước suốt từ đầu xe tới cuối xe, trong lòng ông cảm thấy vô cùng tức giận, ông nghĩ chắc chắn là do đám trẻ ăn xin gây ra. Ông đưa mắt nhìn xung quanh, phía xa dưới gốc một cây xoài, có khoảng năm đứa trẻ tầm 13, 14 tuổi đang chơi đùa. Ông lập tức đi tới, không cần biết rõ đầu đuôi, ông lấy tay tát vào má mỗi đứa, sau đó ép chúng nói ra ai là kẻ làm xước xe của ông.

Khi thấy không có đứa trẻ nào chịu nhận tội, ông liền đe doạ sẽ đưa chúng tới đồn cảnh sát. Lũ trẻ bị ép buộc không có cách nào phản kháng, một trong những đứa lớn nhất liền chỉ vào thằng bé ăn mặc rách rưới ở phía xa đang xin tiền của mấy người nước ngoài và nói đó chính là thủ phạm. Ông giáo sư tức giận vô cùng vội chạy tới, lôi cổ đứa trẻ tới gần chiếc xe của ông, còn lũ trẻ kia nhân cơ hội liền chạy mất.

Ông giáo sư đã tát vào mặt cậu bé hai cái, đồng thời chất vấn vì sao cậu bé lại cố tình làm xước xe của ông. Hỏi đi hỏi lại không thấy cậu bé trả lời, chỉ khua chân múa tay, nước mắt chảy ròng ròng, lộ rõ vẻ hoảng sợ, thì ra cậu bé đó bị câm. Ông giáo sư không hiểu những hành động múa tay múa chân của cậu bé có ý nghĩa gì, vì vậy ông cho rằng cậu bé do ôm hận không được ông cho tiền nên đã làm như vậy, do đó ông phẫn nộ lấy hết sức đạp vào ngực cậu bé câm, cậu bé câm ngã sụp xuống, miệng phun ra máu. Những người xung quanh khi trông thấy liền ngăn cản ông, đồng thời lôi cậu bé câm đi tránh không cho nó tiếp tục bị đánh oan uổng.

Cậu bé câm khi được đưa đi, còn quay đầu lại nhìn với ánh mắt đầy bi thương. Sau đó cậu bé câm vì bị ông đánh mà bị ốm mấy năm trời, rồi bị liệt và chết trong đền thờ. Mọi người khác đều biết cậu bé câm tính tình lương thiện, chiếc xe không phải do cậu bé làm xước, ông giáo sư đã đổ oan cho cậu bé.

Vào cuối năm đó, vợ ông giáo sư đã sinh hạ một bé gái, mặt mũi thanh tú, nhưng mãi đến hai tuổi cũng vẫn không biết nói. Sau đó, vợ ông lần lượt sinh ra con gái thứ hai, thứ ba, các bé cũng đều không biết nói. Vợ ông sợ nếu sinh tiếp, các con cũng sẽ đều bị câm, nên đã đến gặp bác sĩ làm phẫu thuật triệt sản.

- Cao tăng … Ngài biết mọi chuyện ư ? - mặt ông giáo sư tỏ vẻ nhận lỗi, ân hận.

- Hãy chăm tích đức hành thiện, trả nợ cho nghiệp chướng đã gây ra - vị cao tăng nói xong rồi lẳng lặng rời đi.

Có lẽ ông giáo sư không ngờ rằng hành động năm đó của mình đã khiến đứa trẻ bị câm phải chịu oan uổng, cho nên giờ liên lụy đến các con của ông. Chỉ có thể nói, mọi việc tốt xấu đều có quan hệ nhân duyên. Hãy sống với trái tim lương thiện, bao dung, biết nghĩ cho người khác, như vậy cuộc sống sẽ ý nghĩa và tươi đẹp hơn.

Đừng (23)

- Marc(Thủy Nguyệt dịch)

Làm việc gì đó rồi mắc sai lầm còn hiệu quả gấp mười lần so với không làm gì cả. Mỗi thành công đều có một vệt dài những thất bại đằng sau nó, và mỗi thất bại đều dẫn đường tới thành công. Suy cho cùng, bạn sẽ hối hận về những điều mình không làm nhiều hơn là về những điều mình đã làm. ╰▶ ĐỪNG SỢ MẮC SAI LẦM



Nhẹ bước về thảnh thơi

- Thích Tánh Tuệ



Nhiều người làm không nói
Lắm kẻ nói không làm
Tu là thường quán chiếu
Cẩn ngôn lúc nhàn đàm

Thật giàu thì không khoe
Khoe vì ... che nghèo khó
Chân nhân thường bất lộ
Lộ - thường có vấn đề

Lời thật thường mất lòng
Được lòng, chưa chắc thật
Ai không vì được, mất
Ắt nói lời trung ngôn

Làm trăm nghìn việc tốt
Đời chưa nhớ một lần
Một chút ta lầm lỗi
Đà trở thành tội nhân

Vui đời, vui trong khổ
Khổ đạo, khổ thành vui
Hết mơ màng vui, khổ
Nhẹ bước về thảnh thơi

Khẩu đức quyết định vận may

- Sưu tầm

Người xưa nói: “miệng có thể nói lời đẹp như hoa hồng, miệng cũng có thể nói lời độc như gai ma vương”, tu dưỡng khẩu đức cũng tức là tu luyện trường năng lượng của bản thân, người mà toàn thân tràn đầy năng lượng tốt đẹp mới có thể gặp nhiều may mắn.

Khẩu đức tốt mới có thể gặp vận may tốt, vận may tốt mới có thể ít đi đường vòng, thành tựu nhiều hơn. Không nói lời ác độc, không nghe lời thô lỗ. Đây là cách tu dưỡng mà chúng ta nên có.

Xuất ngôn bất cẩn, tứ mã nan truy (nghĩa: “nói ra lời bất cẩn, lấy lại không còn kịp”), hại người hại mình, vận may chắc chắn càng ngày càng kém. Bỏ được mười cách nói chuyện tệ hại dưới đây, có được sự tu dưỡng này, bạn sẽ có thể hóa thảm cảnh thành thần kỳ, phong thủy sinh khởi vận may đến.


1. BỎ ĐA NGÔN (nói nhiều)

Bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra. Nói chuyện không nên nói quá nhiều, nói nhiều là bị thiệt. Trong Mặc Tử có ghi, học sinh của Mặc Tử là Cầm, hỏi Mặc Tử: “Nói nhiều có ích lợi không ?”, Mặc Tử trả lời: “Con cóc, con ếch, cả ngày lẫn đêm đều kêu không ngừng, kêu đến khô mồm mỏi lưỡi, nhưng không có ai để tâm đến tiếng kêu của nó cả. Sáng sớm nhìn thấy con gà trống đó, gáy đúng giờ vào lúc bình minh, trời đất đều chấn động (mọi người đều thức dậy sớm). Nói nhiều thì có ích lợi gì chứ ? Chỉ có lời nói được nói ra trong tình huống hợp thời cơ mới có tác dụng thôi.”

Mặc Tử muốn nói với chúng ta, lời không cần nhiều, người biết nói chuyện luôn nói những lời thích đáng vào thời cơ thích đáng.

2. BỎ KHINH NGÔN (lời nói dễ dãi)

Lời nói không thể nói dễ dàng, nếu thay đổi lời đã nói, chi bằng không nói. Lời không được hứa dễ dàng, nếu hứa rồi lại thay đổi, chi bằng đừng hứa. Gặp chuyện đừng tùy tiện phát ngôn, nếu không sẽ mang họa vào thân, cũng đừng dễ dàng hứa hẹn với người khác, nếu không sẽ mất chữ tín.

3. BỎ CUỒNG NGÔN (lời nói ngông cuồng)

Không nên không biết nặng nhẹ, mà nói bậy nói càn. Nói bậy nói càn, thường xuyên phải hối hận. Sơn m Kim tiên sinh thời nhà Thanh từng nói: “Làm người hành sự đừng ngông cuồng, họa phúc sâu dày tự gánh chịu”. Ngông cuồng hay khiêm tốn, điều này trực tiếp liên quan đến họa-phúc của một người. Cái mà con người thể hiện trước mặt người khác không gì khác là lời nói và hành vi, mà lời nói thì lại trực tiếp nhất, cho nên nói chuyện kỵ nhất là lời ngông cuồng. Cuồng gây chú ý, cuồng gây căm ghét, rất dễ gây ra chuyện tai họa.

4. BỎ TRỰC NGÔN (lời nói thẳng thừng)

Không nên nói thẳng không che đậy mà không nghĩ đến hậu quả, nếu không sẽ gây ra phiền toái. Lời thẳng thắn, phải nói vòng vo một chút, lời nói lạnh lùng như băng, phải tăng thêm nhiệt khi nói, nghĩ đến sự tự tôn của người khác, đặt sự tự tôn của người khác lên vị trí số một.

5. BỎ TẬN NGÔN (nói lời cạn kiệt)

Nói chuyện phải súc tích, đừng nói mà không chừa đường lui. Biết hết cũng không cần nói hết, chừa chút đường lui cho người khác, để chút khẩu đức cho chính mình. Trách người không cần trách khắt khe, khoan dung với người khác một chút cũng chính là cho mình một phần linh động, một đường lui.

6. BỎ LẬU NGÔN (nói lộ chuyện)

Không được tiết lộ cơ mật. Sự dĩ mật thành, ngôn dĩ lậu bại (chuyện thành do giữ bí mật, nói lộ chuyện dễ gây ra thất bại). Đối với chuyện của người khác, tuyệt đối không được tiết lộ, đây là vấn đề nhân phẩm và nguyên tắc làm người, nó cũng dễ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Khi sự việc vẫn chưa thể chắc chắn, cũng không được nói những lời quả quyết, để tránh tạo ra ảnh hưởng không tốt, làm người khác cảm thấy phù phiếm và hà khắc.

7. BỎ ÁC NGÔN (lời nói ác độc)

Không nói những lời vô lễ và độc ác để làm tổn thương người khác. Người xưa nói: “đao cắt dễ lành, ác ngôn khó tan”, sự tổn thương bạn gây ra trong tâm gan người khác còn đau đớn hơn vạn lần vết thương gây ra trên thân thể.

8. BỎ CĂNG NGÔN (lời nói kiêu căng)

Căng chính là tự đại, tự cho mình là đúng. Lão Tử nói: “tự phạt giả vô công, tự căng giả bất trưởng”. Người tự mình khoe tài ngược lại mất hết công lao, người tự đề cao bản thân sẽ không có tiến triển. Người nói lời kiêu căng, không phải kiêu ngạo thì là vô tri, dù là loại nào thì cũng đều bất lợi với sự trưởng thành của chính mình, và cũng dẫn đến sự chán ghét của người khác. Thần Hàm Quang cuối nhà Minh đầu nhà Thanh sở dĩ nói: “Tự khiêm tắc nhân dũ phục, tự khoa tắc nhân tất nghi” (tự khiêm tốn người khác phải phục, tự khen mình người khác chắc chắn nghi ngờ). Nói chuyện, không nên kiêu ngạo tự mãn, tự cho mình là đúng. Tự kiêu tự khen, là biểu hiện của thiếu bồi dưỡng phẩm tính.

9. BỎ SÀM NGÔN (lời nói bịa đặt)

Sàm ngôn chính là nói những lời chê bai, những lời không tốt sau lưng người khác gây ly gián, nghi kỵ. Người xưa cho rằng, người nói lời sàm ngôn, đều là tiểu nhân. Triết học gia Vương Sung của Đông Hán từng nói: “sàm ngôn thương thiện, thanh dăng ô bạch” có nghĩa là không nên nói xấu sau lưng người khác bởi nó sẽ làm cho thiên hạ đều không được yên ổn.

10. BỎ NỘ NGÔN (lời nói tức giận)

Lúc tức giận không nên nói gì cả, vì lời nói được nói ra vào lúc này thường không được suy xét kỹ lưỡng nên sẽ làm tổn thương mình và người khác.

Khẩu đức quyết định vận may, người thông minh không nói mười câu này. (Lời Phật dạy)

Danh ngôn (103)

- Roger Munsch



Đọc sách nhiều mà đụng đâu đọc đó là hủy hoại tinh thần. Đọc ít nhưng đọc kỹ ta sẽ tìm ra được chân lý cho cuộc đời.

Tĩnh

- Chúc Anh



Lòng dặn lòng dành dỗ
Cõi tạm này sẽ xa
Đớn đau gì cũng qua
Buồn cỡ gì cũng hết

Nắm chi thêm mỏi mệt
Buông bỏ nhẹ từ tâm
Mai đây ta âm thầm
Hồn nhiên gối lên cỏ

Lời xưa từng bỏ ngỏ
Người xưa từng thương yêu
Muôn kiếp vẫn thương nhiều
Bởi vì thương . . . buông bỏ

Đường đời muôn cửa ngõ
Ung dung mặc tơ trời
Yêu thương không nhiều lời
Buông bỏ tùy người chọn

An nhiên nghe vị ngọt
Nước mắt biết bao dung
Đúng - Sai giữa muôn trùng
Thứ tha là hạnh phúc

Pháp ngữ (11)

- Hòa Thượng Tuyên Hóa



Học Phật thì cần phải học từ bi, đạo đức, biết tha thứ cho kẻ khác. Chẳng nên sinh lòng so sánh hơn thua, chẳng nên cùng người tranh chấp, cãi vã.

Bông sen duyên kiếp

- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương XXXVI, Thích Nhất Hạnh

Một hôm công nương Yasodhara thỉnh Bụt, đại đức Kaludayi và thầy Nagasamala tới thọ trai ở cung điện riêng của mình. Bà cũng đã mời hoàng hậu. Sau buổi cúng dường, bà đã thỉnh Bụt và hoàng hậu đi ra ngoại thành thăm những xóm nghèo nơi bà đã làm việc cứu tế xã hội trong những năm qua. Các thầy Kaludayi và Nagasamala cũng cùng đi với người, Rahula cũng được đi theo Bụt.

Khi Bụt tới nơi, người thấy trẻ con tập hợp đông có tới hàng trăm đứa, thì ra công nương Yasodhara đã triệu tập chúng từ những xóm làng quanh đó. Chỗ tập hợp là gốc cây hồng táo năm xưa, nơi mà Bụt đã ngồi thiền định lần đầu lúc người mới lên chín tuổi. Mới đó mà hai mươi bảy năm trời đã trôi qua. Cây hồng táo đã lớn lên gấp bội. Yasodhara cho Bụt biết là những đứa trẻ Bụt gặp năm xưa nay đã là những người chủ gia đình. Những đứa trẻ mà Bụt được gặp cách đây tám năm bây giờ cũng đã trở thành những chàng trai cao lớn và những cô gái duyên dáng. Phần lớn bọn trẻ mà Bụt gặp hôm nay đều từ bảy tới mười hai tuổi, hầu hết là con cái nhà nghèo.

Bọn trẻ đã được bà Yasodhara dạy cách đón mời Bụt. Khi thấy Bụt tới, chúng bỏ cuộc chơi, đứng dậy, dàn thành hai hàng để Bụt có lối đi tới gốc cây hồng táo. Nơi đây chúng đã đặt một cái ghế đặc biệt cho Bụt ngồi. Chúng đã trải chiếu để mời những vị quan khách khác như bà Gotami, Yasodhara, và các thầy đi theo Bụt.

Bụt rất hài lòng được ngồi giữa bầy trẻ và giảng dạy giáo pháp cho chúng. Người nhớ những buổi tập họp của bọn trẻ em nhà nghèo ở Uruvela. Người kể cho các em nghe về chú bé chăn trâu tên Svastika và cô bé mang sữa tên Sujata. Người dạy các em về cách nuôi dưỡng lòng thương yêu và mở rộng tầm hiểu biết. Người lại kể cho các em nghe câu chuyện tranh nhau con chim thiên nga giữa người với Devadatta hồi người mới lên bảy tuổi. Bọn trẻ con được nghe giảng dạy bằng những câu chuyện hấp dẫn này rất lấy làm vui sướng.

Cuối cùng Bụt bảo Rahula ra ngồi trước mặt Người, rồi Bụt kể cho tất cả các em bé nghe một câu chuyện tiền thân. Người nói:

❝Ngày xưa có một chàng trai trẻ tên là Megha, thông minh, đức hạnh, hiếu thuận và học giỏi. Chàng sống ở miền chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Chàng muốn đi về miền đồng bằng để học hỏi thêm. Không có tiền, nhưng chàng cũng can đảm ra đi. Chàng mang theo một cái gậy, một cái nón, một cái bình đựng nước uống và một chiếc áo choàng. Trên con đường về kinh đô, mỗi ngày chàng ghé lại làm việc cho những nhà nông dân bên đường để được có cơm ăn, và để tiếp tục đi nữa. Có khi chàng còn được trả tiền. Khi đến thủ đô Divapati, chàng đã để dành được năm trăm đồng trong túi áo. Vào đến cửa thành chàng thấy dân chúng đang mở hội rất vui. Chàng không biết người ta đang mở hội ăn mừng việc gì nên có ý muốn tìm người để hỏi. Vừa lúc ấy có một cô thiếu nữ xinh đẹp, mặt mày thật sáng sủa, đi ngang. Cô cầm trong tay một bó sen. Bó sen có tất cả bảy bông sen hàm tiếu. Chàng hỏi cô:

- Có việc gì vui mà dân chúng mở hội thế cô ?

Thiếu nữ đáp:

- Chắc anh không phải là dân địa phương cho nên mới không biết hôm nay dân chúng mở hội gì. Số là hôm nay tại thủ đô Divapali có một bậc giác ngộ xuất hiện tên là Dipankara. Người là bó đuốc soi đường cho tất cả chúng sanh, Ngài là con của vua Areimat, đã đi tu và đã thành đạo. Đạo của Ngài sáng chói cả thế gian. Hôm nay, để mừng Ngài, dân chúng tại đây mới mở hội.

Nghe nói có một vị giác ngộ xuất hiện trên thế gian. Megha rất lấy làm sung sướng. Chàng rất muốn được cúng dường Ngài, được tới làm lễ Ngài và học đạo với Ngài. Chàng hỏi cô thiếu nữ:

- Cô mua bảy bông sen này bao nhiêu tiền thế, thưa cô ?

Thiếu nữa đưa mắt nhìn người con trai lễ phép và có dáng dấp thông minh. Nàng trả lời:

- Em chỉ mua có năm bông thôi. Hai bông kia là của em đem theo. Em hái hai bông ấy ở ao nhà.

Megha nói:

- Vậy năm bông kia cô mua bao nhiêu, thưa cô ?

- Em mua hết năm trăm đồng.

Megha khẩn khoản cầu xin thiếu nữ để lại cho anh ta năm bông sen ấy để anh có thể có hoa đem cúng Bụt Dipankara. Thiếu nữ không chịu. Nàng nói:

- Em mua để cúng Bụt chứ không phải để bán lại.

Megha hết lòng khẩn khoản. Anh nói:

- Cô cúng dường hai bông cũng được rồi mà. Xin cô vui lòng cho tôi lại năm bông để tôi cũng có dịp được cúng dường bậc giác ngộ với. Thưa cô, được gặp một bậc giác ngộ trên đời là quý hóa lắm. Tôi quyết tâm cùng đi với cô để tới gặp Ngài. Tôi muốn được học hỏi đạo lý do Ngài chỉ dạy. Nếu cô vui lòng nhượng cho tôi năm bông hoa ấy, tôi sẽ nhớ ơn cô suốt đời.

Thiếu nữ nhìn xuống đất, không nói. Megha lại năn nỉ:

- Nếu cô cho tôi mua lại năm bông hoa, tôi sẽ làm bất cứ điều gì cô sai bảo để trả ơn cô.

Thiếu nữ không dám ngẩng đầu lên. Hai người im lặng đi bên nhau rất lâu. Cuối cùng cô lên tiếng:

- Anh ơi, không biết tại vì duyên nợ nào từ những kiếp trước mà khi gặp anh, em đem lòng thương anh liền. Em đã gặp nhiều người con trai, nhưng chưa bao giờ trái tim của em rung động như hồi nãy khi em mới gặp anh. Em muốn tặng không cho anh năm bông sen này để anh cúng đức giác ngộ, nếu anh hứa với em là trong kiếp này cũng như trong những kiếp khác em được làm vợ của anh, hoài hoài và mãi mãi.

Nàng nói một mạch những điều trên, và nói xong nàng thấy gần như hụt hơi. Megha im lặng một lát rồi nói:

- Cô là người rất dễ mến. Và cô lại là một con người rất chân thật. Mới đầu gặp cô, tôi cũng thấy có cảm tình với cô ngay, nhưng tôi là người chí tu đạo giải thoát. Cưới vợ thì bị ràng buộc, làm sao sau này tôi có được tự do mỗi khi có dịp ra đi tìm đạo ?

Thiếu nữ nói:

- Anh cứ hứa với em đi. Em xin nguyện rằng mỗi khi anh muốn ra đi tìm đạo thì em sẽ không dám tìm cách ngăn cản anh. Trái lại, em sẽ tìm cách giúp anh thực hiện được hoàn toàn chí nguyện.

Nghe thiếu nữ nói như thế, Megha vui vẻ nhận lời. Hai người tìm tới đức giác ngộ Dipankara. Quần chúng đông đảo đang vây quanh Người. Thấy sắc diện của vị đạo sĩ Dipankara, Megha biết ngay đó là một bậc giác ngộ chân thực. Chàng rất sung sướng. Chàng phát nguyện phải tu học cho đến khi đạt tới quả vị giác ngộ cao tột như đức giác ngộ này. Chàng muốn tiến tới gần để dâng lên Dipankara năm bông sen, nhưng quần chúng vòng trong vòng ngoài đang vây phủ lấy Người, chàng không tài nào tiến tới được. Cuối cùng chàng dùng hết sức của hai cánh tay chàng tung năm bông hoa sen vào cho Đấng giác ngộ. Lạ thay, cả năm bông sen đều bay tới và rơi đúng vào trong hai cánh tay Ngài. Megha thấy thế mừng rỡ. Chàng biết là lòng thành của chàng đã cảm ứng được Đấng toàn giác. Vừa lúc ấy thiếu nữ trao cho chàng hai bông sen còn lại, ra hiệu cho chàng tung vào cho Bụt. Chàng nhận hai bông hoa và tung lên. Mầu nhiệm thay, cả hai bông hoa này cũng đều rơi vào giữa tay đức giác ngộ Dipankara. Vừa lúc ấy, đức toàn giác Dipankara lên tiếng gọi người cúng dường hoa sen tới bên cạnh người. Quần chúng hé lối cho Megha đi vào. Megha cầm tay thiếu nữ kéo nàng theo đến trước mặt Bụt, Megha và thiếu nữ quỳ xuống. Đức giác ngộ Dipankara nói với Megha:

- Ta biết được tâm thành của con. Ta cũng biết rằng con có chí lớn muốn tu học để đạt tới quả vị giải thoát và cứu độ cho loài chúng sanh. Con hãy an lòng. Ta biết con sẽ trở nên một bậc giác ngộ hoàn toàn trong tương lai.

Rồi nhìn thiếu nữ đang quỳ bên Megha, Ngài nói:

- Còn con, trong kiếp này và trong những kiếp tới con sẽ là người bạn đường của Megha. Con hãy nhớ lời nguyện của con, lo tác thành cho chí hướng của chồng mà không tìm cách ngăn cản chàng mỗi khi chàng ra đi tìm đạo.

Megha và thiếu nữ rất cảm xúc được nghe lời dạy chỉ bảo của bậc toàn giác. Từ đó về sau, cả hai người đều chăm chỉ tu học theo đạo lý giải thoát của đức giác ngộ Dipankara.

Các con nghe không, từ kiếp ấy về sau, trong kiếp nào chàng Megha và cô thiếu nữ cũng đều được gặp nhau và cũng đã trở nên vợ chồng, và mỗi khi người con trai đến tuổi ra đi tu đạo, người con gái lại tìm cách giúp đỡ người con trai. Chẳng bao giờ nàng tìm cách cản ngăn chí nguyện của chàng. Vì vậy, chàng rất biết ơn nàng. Cho đến một kiếp nọ, chàng thực hiện được chí nguyện lớn của chàng và trở thành một bậc giác ngộ, sáng suốt không kém gì bậc giác ngộ Dipankara kiếp trước. Các con nên biết, tiền của và danh vọng không phải là những vật quý nhất trên đời. Tiền của và danh vọng có thể tiêu tan rất mau chóng, nhưng sự hiểu biết và lòng thương yêu mới thật sự là những gì quý nhất trên đời. Có hai thứ ấy thì chắc chắn là con người có hạnh phúc. Chàng Megha và cô thiếu nữ đã sống hạnh phúc với nhau trong nhiều đời nhiều kiếp, đó cũng nhờ hai người đã có sự hiểu biết và lòng thương yêu. Đã hiểu và đã thương thì không có gì mà ta không thực hiện được trên cõi đời này.❞


Yasodhara chắp hai tay trước ngực hướng về phía Bụt. Bà rất cảm động về câu chuyện tiền thân này. Bà biết tuy Bụt kể chuyện này cho bọn trẻ nghe nhưng Người cũng đã kể chuyện này với bà. Bụt đã nói lên lời cảm ơn của Bụt đối với bà một cách tế nhị. Bà cảm động đến muốn khóc. Hoàng hậu Prajapati nhìn bà. Hoàng hậu cũng hiểu lời Bụt như bà hiểu. Bà đặt một bàn tay lên vai người con dâu. Rồi bà lên tiếng nói với lũ trẻ:

- Các con biết chàng Megha trong tiền kiếp xa xưa đó là ai không ? Chính là Bụt đấy. Trong kiếp này, chàng đã thành một bậc giác ngộ sáng suốt hoàn toàn, và các con có biết cô thiếu nữ trong tiền kiếp xa xôi đó là ai không ? Đó chính là lệnh bà Yasodhara của các con vậy. Nhờ lệnh bà có hiểu biết cho nên lệnh bà đã không ngăn cản thái tử Siddhatta. Thái tử đã đi tu và đã thành đạo. Các con nên cảm ơn lệnh bà.

Bọn trẻ đã sẵn có lòng quý mến Yasodhara từ lâu. Nay nghe hoàng hậu nói, chúng đều hướng về bà, chắp hai tay lại trước ngực và cúi chào bà rất kính cẩn. Thấy cảnh tượng ấy, Bụt rất vui. Người đứng dậy, và cùng các đại đức Kaludayi và Nagasamala trở về tu viện.

Trăng tròn Tháng Tư

- Chúc Linh



Từ vườn Lâm Tỳ Ni, Đấng Thế Tôn đản sanh
Hoa Vô Ưu tươi nở ngát hương thơm mười phương
Thành Ca Tỳ La Vệ, gió reo vui trời bừng sáng
Người người hân hoan loan tin vui
Tất Đạt Đa thái tử ra đời

Ánh sáng Như Lai
Diệt tham sân si
(Xóa tan mê lầm)
Sáng soi đạo vàng
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin lạy Người

Đạo vàng hương từ bi đem đến cho mọi người
Xóa tan đi ưu phiền sống vui trong Lục Hòa
Lòng con nguyện tinh tấn quyết đi theo đường chân lý
Dù gặp bao nguy nan oan khiên
Vững lòng tin dưới bóng cha lành

Tiếng chuông ngân vang
Thành tâm chúng con cúi xin lạy Ngài
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin quỳ kính

Mừng Phật Đản sanh

- Trần Minh Hiền



Đêm khuya tĩnh lặng
Câu kinh vĩnh hằng
Hồn con im ắng
Ngập tràn ánh trăng

Mừng Phật Đản sanh
Đến cho nhân thế
Cho đời phước hạnh
Bầu trời trong xanh

Từ bi hiền lành
Tùy duyên hỷ xả
Thương người cô quạnh
Ân tình vị tha

Trần gian ta bà
Ơn Phật đã đến
Ghi lòng tạc dạ
Ngàn đời không quên

Gập ghềnh sông mê

- Thích Tánh Tuệ



Có người đứng giữa đôi bờ
Bao lần tự hỏi ... biết giờ về đâu ?
Quay qua ngó lại, bạc đầu
Ngập ngừng, bịn rịn, chìm sâu giữa đời

Đôi dòng, kẻ ngược người xuôi
Đôi bờ lận đận, tới lui muộn phiền
Tay này muốn vịn cửa Thiền
Tay kia dệt mộng ... trần duyên sa đà

Lên rừng, nhớ tưởng phồn hoa
Ngồi nơi phố mộng trăng ngà đầu non
Lắm khi gối mỏi chân mòn
Mà hồn chưa mỏi, đời còn mê say

Mắt vừa hướng tới nẻo mây
Vội che khuất bởi bàn tay nhân tình
Dùng dằng trong chốn tử sinh
Khi ni, lúc nọ … Hỏi mình về mô ?

Dưới lòng nôi, một nấm mồ
Biết rồi sao vẫn lửng lơ nẻo về ?
Cây Si với Cội Bồ Đề
Nghiêng đôi bóng đổ nặng nề cõi đêm

Chợt vô thường đến gọi tên
Chỉ còn dư lệ trên miền ăn năn
Xưa kia nếu chẳng dùng dằng
Biết đâu thanh thản nhọc nhằn tử-sinh

Trầm luân vì nợ thế tình
Mong manh hồn nhỏ, gập ghềnh sông mê

Danh ngôn (102)

- Phương ngôn



Nói sự thật cho người khác nghe đã khó, nhưng khó hơn nữa là tự mình nói sự thật với chính mình.

Giấc mơ tự tại

- Hùng Thanh

Qua bao nhiêu năm tham ái nay con đã về
tìm lại tánh Giác không
như hư vô trong cõi mộng
tâm Bồ Đề con sám hối
biết bao lỗi lầm
tìm về bến Giác xưa
không si mê trong lầm lạc

Nay trong hư vô
con thấy ôi sao diệu kỳ
Mẹ hiền Quán Thế Âm
cho con xin được nguyện cầu
cho nhân gian kia vui sống an trong Chánh Niệm
tìm về tánh Giác không, đưa con qua bao muộn phiền
(Mẹ dìu dắt chúng con đi qua bao nỗi muộn phiền)

Hà ha hà há ha ...

Ta ngắm bao hoa tàn mùa thu rơi
lòng mong yên bình cho khắp thế gian
mong ước mai khi đông tàn mùa xuân sang
cho người nhân thế vơi hận sầu khóc than
chinh chiến qua bao điêu tàn người vương mang
sầu đau muôn đời trên chốn thế gian
ta hát vang ý niệm từ tâm ta
ta sẽ hóa thành ngàn cánh sen ngát hương cho đời

Um Mani Pad Me Hum ...





Đừng (22)

- Marc(Thủy Nguyệt dịch)

Trong cuộc sống, rồi bạn sẽ nhận ra rằng mỗi người bạn gặp đều có ý nghĩa riêng cho bản thân bạn. Một số người sẽ thử thách bạn, một số người sẽ lợi dụng bạn, và một số khác sẽ dạy dỗ bạn. Nhưng điều quan trọng nhất là, một số người sẽ giúp bạn thể hiện được khía cạnh tốt đẹp nhất của mình.╰▶ ĐỪNG TỪ CHỐI NHỮNG MỐI QUAN HỆ MỚI CHỈ BỞI VÌ CÁC MỐI QUAN HỆ CŨ KHÔNG ĐEM LẠI KẾT QUẢ TỐT ĐẸP



Duyên phận là việc của trời cao

- Sưu tầm



(Lời Phật dạy) - Trên đời này nếu có thứ không thể cưỡng cầu thì chính là duyên phận, mọi thứ muốn tốt đẹp hãy cứ để tùy duyên …

Người xưa có câu: “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”, vì vậy, mọi sự đến và đi trong cuộc đời đều là duyên phận, không cần phải cưỡng cầu.

Người tin tưởng vào duyên phận, một khi duyên đến sẽ thản nhiên đón nhận, còn khi duyên đi cũng sẽ không cố gắng níu giữ. Từ trong cảnh giới “thuận theo tự nhiên”, họ tìm được sự điềm tĩnh và thản nhiên. Bởi vì họ hiểu rõ, mọi sự đều là tùy duyên mà đến, tùy duyên mà đi, cũng chính là điều mà người ta gọi là mọi sự tùy duyên.

Kỳ thực, trong cuộc đời mỗi người có rất nhiều điều là không thể lý giải. Chính bởi điều này mà khiến cho con người ta lúc nào cũng tràn đầy suy tưởng. Con người sống trên thế gian dường như là theo sự an bài sẵn vậy. Một người, trong cuộc đời của mình, đến thời điểm nào sẽ gặp ai, sự tình gì đều là đã được định sẵn.

Cổ nhân có câu: “mệnh lý hữu thì chung tu hữu, mệnh lý vô thì mạc cưỡng cầu”, có ý rằng, khi điều gì đó đã được sắp đặt sẵn thì nó sẽ đến đúng thời điểm. Còn nếu điều gì không được sắp đặt trước rồi thì không ai có thể làm nó xảy ra, vậy cần gì phải cố sức để thay đổi nó ? Con người gặp nhau là bởi chữ duyên, sống và yêu nhau là bởi chữ nợ. Cuộc sống con người chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy luân hồi. Mỗi người đều có những cuộc gặp mà suốt đời này không thể nào quên, có những cuộc gặp là mãi mãi, nhưng cũng có những cuộc gặp sớm “đứt gánh giữa đường”. Tất thảy mọi thứ trên đời đến và đi đều là duyên phận, đừng cưỡng cầu.

Duyên phận là điều gì đó rất kì lạ, không ai có thể thực sự nói rõ về nó. Có thể hữu duyên vô tình quen biết nhưng lại hiểu thấu nhau, có thể hài hòa với nhau, nhưng lại không thể ở gần nhau. Không cố ý theo đuổi thì lại có, bỏ tâm cố gắng tìm kiếm thì lại chẳng thành. Như người xưa có câu “có lòng trồng hoa, hoa chẳng nở|vô tình cắm liễu, liễu lại xanh”.

Có một loại tôm khi còn nhỏ, chúng thường kết đôi chui vào trong khe đá. Hang đá nhỏ này đối với chúng chính là một thiên đường, cho đến khi trưởng thành chúng lại không cách nào theo khe đá nhỏ đó mà đi ra. Chúng ngay từ khi bắt đầu, đã lựa chọn một tình yêu độc nhất, không có đường trở lại, không cám dỗ, chỉ một lòng tới chết. Đối với chúng mà nói, nửa kia của chúng chính là cả thế giới.

Bạn phải hiểu, thứ bạn yêu không phải đoạn thời gian kia, không phải người ấy khiến bạn nhớ mãi không quên, cũng không phải yêu cái khoảng thời gian đã từng trải qua, bạn yêu chỉ là cái phần non trẻ nhưng vẫn chấp mê bất ngộ của chính mình.

Buông không có nghĩa là bỏ cuộc, cố chấp không đồng nghĩa với kiên trì

Bình thản hơn một chút, cuộc sống sẽ hạnh phúc thêm vài phần. Người bình thản, sẽ không quá cao hứng khi khách quý chật nhà, cũng không ấm ức trong tâm khi người cuối cùng rời đi. Khi thành công không quá đắc ý mà ngạo mạn, lúc thất bại cũng không nản lòng thoái chí. Bình thản có thể khắc chế cái tâm bốc đồng, loại bỏ tư tưởng hỗn tạp. Bình thản là một loại tu dưỡng, một loại cảnh giới, một loại tâm thái ẩn chứa nội hàm sâu sắc, có thể khiến người ta trong gian khổ mà vẫn thong dong tự tại.

Nếu như chia tay người yêu vẫn còn có thể làm bạn, hoặc là chưa từng yêu, hoặc vẫn đang yêu

Lúc còn trẻ, chúng ta vì một người nào đó, vì yêu hoặc chỉ vì cô đơn mà đến với nhau, nhưng sau những khổ não, chúng ta vì sao không cố chịu đựng để vượt qua mà lại lựa chọn đồng hành cùng người khác. Tại mỗi thời điểm, tại từng ngã rẽ đều có những ám hiệu được đưa ra, nhưng khi đó chúng ta lại mờ mịt không biết. Lúc quay đầu nhìn lại, bỗng phát hiện mọi thứ đều rõ ràng trước mắt, mới mỉm cười mà lĩnh ngộ sự thống khổ, bi thương.

Hết thảy vấn đề, sau cùng nhất đều là vấn đề thời gian. Hết thảy phiền não, kỳ thực đều là tự tìm phiền não

Đối với cuộc sống của bạn, người có sức ảnh hưởng lớn nhất là chính bạn. Người quyết định bạn hạnh phúc hay khổ đau cũng chính là bản thân bạn. Nếu không có sự cho phép của bạn, bất kể thứ gì cũng không thể khiến bạn đau buồn hay vui vẻ. Học cách bình thản với đời, chuyện duyên phận hãy cứ để trời cao. Không ai cướp đi niềm hạnh phúc của bạn. Người có thể cướp đi điều đó là chính bạn, bởi vì bạn giao niềm vui của mình cho người khác nắm giữ. Bạn không cách nào ngăn chặn được cơn lũ, nhưng bạn có thể học cách kiến tạo một con thuyền.

Mặc kệ mọi người trên thế giới nói gì, ta đều nhận thức việc làm của bản thân mình mới là đúng đắn

Nếu như đứng trước người mà bạn yêu mến, điều bạn cần làm là bày tỏ lòng mình. Nếu bạn kết hôn với một người, điều bạn cần làm chính là tỏ ra yếu thế.

Cuộc sống của chúng ta, không phải vì lấy sự ưa thích của người khác mà tồn tại, chúng ta là tự do tự tại, không cần phải đòi hỏi ai yêu thích mình, có thể vui vẻ mà lưng đeo đại địa, mặt hướng trời xanh. Chỉ cần bạn hiểu được điều này, gông xiềng đã bị phá bỏ, bạn có thể tự do mà hít thở. Trước đây tôi cứ luôn cho rằng kiên trì sẽ khiến chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, nhưng sau khi lớn lên mới phát hiện, buông bỏ mới khiến chúng ta mạnh mẽ. Khi nhìn lại hết thảy những phiền não, chợt nhớ tới câu chuyện của một ông lão, trước khi lâm chung từng nói, trong cả cuộc đời phiền não quá nhiều, nhưng đại bộ phận những điều lo lắng lại chưa từng xảy ra.

Dù lựa chọn như thế nào, chỉ cần là bản thân lựa chọn, thì không tồn tại hối hận, đúng sai

Mỗi người đều có một góc tử mà chính mình không đi ra được, người khác cũng không tiến vào được, ta đem bí mật sâu thẳm nhất đặt ở chỗ đó, bạn không hiểu ta, ta không trách bạn. Khi bạn cảm thấy thua kém người khác về mọi thứ, đừng tự ti, hãy nhớ rằng bạn chỉ là một người bình thường.

Tôi và bạn vốn không quen biết, định mệnh cũng không gắn bó với nhau. Yêu một người, nhưng kỳ thực là yêu chính mình, khi bản thân phát hiện mình mong muốn thứ gì đó nhưng không đạt được, sẽ sinh lòng khao khát.

Hận một người, thực ra là hận chính mình, khi bản thân phát hiện điều mình mong muốn nhưng không đạt được, sẽ cảm thấy giận dữ. Kỳ thực, trên đời không có tình yêu vô cớ, cũng không có oán hận vô cớ, yêu và hận, đều là tự đấu tranh và đối thoại với chính mình.

Nếu như yêu nhau, hãy dắt tay nhau đến khi bạc đầu, nếu lỡ mất nhau, hãy chúc nhau hạnh phúc. Nếu bạn yêu tôi, hãy sát gần một chút, một chút nữa, nếu như không yêu, hãy rời xa hơn một chút, một chút nữa.

Yêu một người không yêu, tựa như chờ đợi một chiếc thuyền ở sân bay. Bạn phải tin rằng trên thế giới nhất định có người dành cho bạn, cho dù giờ phút này bạn đang bị ánh sáng vờn quanh, bị tiếng vỗ tay bao phủ, hay lúc đơn độc đi trên đường phố ướt lạnh, nhưng người ấy nhất định sẽ xuyên việt thế giới này, đi về phía bạn. Người ấy nhất định sẽ tìm được bạn, bạn phải đợi.

Đừng để tương lai bạn phải chán ghét chính mình. Tôi đang cố gắng để trở thành chính mình. Cố gắng cường đại chi bằng sống bình thản hơn một chút. Duyên hợp, duyên tan đều lưu lại một điều gì đó tốt đẹp và một chút tiếc nuối. Trong sinh mệnh mỗi người, điều gì là của bạn thì sẽ không mất, còn như điều gì không là của bạn thì cuối cùng cũng không thuộc về bạn. Mọi sự tùy duyên, điều gì qua đi thì hãy buông bỏ để nó qua đi, nên bình tĩnh đối diện, quý trọng hết thảy những gì đang có ở hiện tại, như vậy mới sống được tự nhiên, thản đãng. Còn nếu như cố gắng níu giữ thì chỉ khiến bạn sống triền miên trong vô vọng và tâm bị đè nặng mà thôi.

D.P.A (17)

- Sưu tầm

Đáng khâm phục nhất của đời người là biết vươn lên sau khi ngã.



Là thế chuyện đời

- Thích Tánh Tuệ



Cuộc đời chẳng lợi thì danh
Không danh thì lợi - Chẳng tranh mới nhường
Lòng người không ghét thì thương
Không thương thì ghét, không buồn thì vui
Đường đời không tới thì lui
Không thăng thì giáng, không lùi thì lên
n tình không nhớ thì quên
Không thân, không thế - Không tiền, không yêu

Tình đời nắng sớm mưa chiều
Mang lòng Thị Nở, Thúy Kiều ngoài da
Tâm hồn không Phật thì Ma
Vòng vo trăm kiểu nào qua Tình, Tiền
Trường đời không chức, không quyền
Không trên thiên hạ, không yên trong lòng
Sự đời mới chuộng cũ vong
Không thương, ai giận, ai mong, ai chờ

Sang giàu không hết bơ vơ
Nghèo xơ xác, vẫn biết Cho, không nghèo
Nhân tình thế thái eo sèo
Tấm thân tứ đại bọt bèo sắc không
Thiên thu vẫn thế lòng vòng
Nghêu ngao điệp khúc bềnh bồng, đổi thay
Mênh mang hư thực kiếp này
Hai bờ buông xuống, là đây lối về

Sắc, thinh ... bỏ lại bên lề
Ngồi yên lặng lẽ tràn trề thái hư
Người về trong cõi Như Như
Thương người ôm mộng khư khư ... cũng đành