- Trích: “Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất” - Bạch Lạc Mai
- Chương II - Hoa rơi còn đa tình hơn nàng
- Chương II - Hoa rơi còn đa tình hơn nàng
Lại nằm mơ, trong mơ tôi đã đến cung Potala, trong ảo ảnh giấc mơ, tôi nhìn thấy hải thị thần lâu(1). Rất nhiều người thành kính quỳ lạy dưới chân Phật Đà. Kinh phướn phấp phới, lay động tín ngưỡng kiếp này, kinh luân chuyển động, thức tỉnh ký ức kiếp trước. Cả tòa cung điện dưới nắng nóng hầm hập của cao nguyên, thật là tráng lệ huy hoàng, thật là độc đáo vô song. Tòa cung điện này ngưng tụ lịch sử loang lổ tang thương, cất giữ những câu chuyện tự cổ chí kim, rơi đầy bụi trần mù mịt của năm tháng. Thế nhưng nó trong sạch, thanh bạch đứng sững trên Hồng Sơn mênh mang. Lại rất mực khoan dung, tấm lòng bao la có thể thu nạp vạn vật trên đời.
Khi tỉnh lại, mới phát hiện người ở trong cung Potala là Tsangyang Gyatso. Một thiếu niên xuất thân từ địa phương nhỏ Monyu, nào đã thấy cung điện to đẹp đàng hoàng như vậy. Trong cuộc sống của Ngài, xưa nay chỉ có đất lề quê thói chất phác, chỉ có bãi cỏ, khe suối, nhà tranh, bờ cừu. Mở mắt ra, Ngài không nhìn thấy bạn bè thuở nhỏ cùng khôn lớn, không nhìn thấy cô gái đã nguyện lời hẹn ước làng bên, không nhìn thấy mẹ hiền tha thiết yêu thương Ngài. Cảnh tượng trước mắt giống như giấc mộng kê vàng(2), lầu gác cung điện, nhà vàng thềm ngọc, mang một khí thế khoan thai và quý phái không thể diễn tả thành lời. Cung Potala chính là một kho báu văn hóa dân tộc Tạng cực lớn, cất giấu quá nhiều văn vật lịch sử và báu vật. Còn Tsangyang Gyatso cứ thế rơi vào trong một giấc mơ hoa lệ của kiếp trước, không ngừng không nghỉ mơ tiếp, chẳng biết tới ngày nào mới có thể hoàn toàn tỉnh lại.
Tháng 10 năm 1697, một điển lễ tọa sàng long trọng đã tổ chức ở Lhasa, Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi chính thức vào làm chủ nhân của cung Potala, trở thành Đạt Lai Lạt Ma thứ 6. Ngài được nâng lên tầm cao của Thần Phật, được muôn người quỳ bái dù khi đó Ngài vẫn mơ hồ, vẫn bất lực, và cả một chút kinh ngạc vui mừng. Ngài dập đầu cảm thán: “Làm trái lệnh của Thượng Sư(3), thật cảm thấy hổ thẹn” . Lúc đó, Ngài cảm giác bản thân thật sự là Phật, chúng sinh dưới chân là con dân của Ngài, sứ mệnh của Ngài chính là độ hóa họ, dốc hết tất cả, vì họ tiêu trừ khổ nạn. Thế nhưng Ngài thật sự có pháp lực vô biên của Phật chăng ? Chẳng lẽ chỉ cần vừa ngồi lên ngai Phật cao ngất, Ngài liền thật sự thành Phật, có thể khiến tất thảy khiếm khuyết của thế gian biến thành trọn vẹn ?
Không, không phải như vậy. Mãi đến sau này, Tsangyang Gyatso mới biết, trên con đường dẫn đến cõi Phật này, Ngài cô độc, không có người đồng hành và người xướng họa, con đường này đầy rẫy chông gai, khiến Ngài vết thương chồng chất. Đó là vì trái tim của Ngài trước sau vẫn mang tình yêu chân thật nhất của nhân gian, không vượt qua được rào cản của tình yêu hồng trần, cho nên dù Ngài có linh tính của Phật, cuối cùng chỉ là rước thêm tiếc nuối. Thế gian này xưa nay không có sự việc hoàn mỹ, giống như trăng tròn trăng khuyết, hoa nở hoa tàn, tụ hợp ly tan. Khi bạn dốc lòng lao vào, muốn bất chấp tất cả vì một người, vì một việc, tất nhiên phải tiếp nhận sự trừng phạt của vận mệnh.
Vị Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi anh tuấn - Tsangyang Gyatso - ngồi trên ngai Phật ngất ngưởng, ngay cả Đệ Ba Sangye Gyatso và Ban Thiền đương thời đều đối với Ngài rất mực cung kính. Ngài thầm nhủ với bản thân, từ đây Ngài chính là vua của cung Potala, nắm giữ từng cành cây ngọn cỏ, từng viên gạch viên ngói của nơi này. Ngài thật sự quá ngây thơ, Ngài không biết rằng bản thân chẳng qua là một vị vua hữu danh vô thực, đừng nói không thể thống trị chúng sinh, ngay cả vận mệnh của mình cũng không thể làm chủ. Theo quy định điều lệ chuyển thế của Phật sống, linh đồng chuyển thế phải tròn mười tám tuổi mới có thể đích thân chủ trì chính sự. Lúc đó Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi, cho nên Ngài nhất thiết phải đợi đến ba năm sau mới có thể tự mình chấp chính. Trước lúc đó, tất cả chính sự sẽ đều do Đệ Ba và Ban Thiền cùng xử lý.
Tsangyang Gyatso giữ địa vị thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, sống ở cung điện cao nhất của cung Potala, được nhiều sư sãi bao quanh. Thế nhưng Ngài cô độc, thậm chí sống rất vất vả và mệt mỏi. Vì thân phận của Ngài đặc biệt, linh đồng chuyển thế trước đây từ bốn năm tuổi trở đi đã tọa sàng tiếp nhận giáo dục chính thức. Còn mười lăm năm này của Tsangyang Gyatso đều sống nơi làng quê nhỏ bé xa xôi, bầu bạn cùng dòng suối hoa núi, cỏ dại bò cừu, những bản tình ca xao xuyến lòng người, và nụ cười khoe hàm răng trắng bóng của cô gái làng bên. Dù Ngài cũng từng học kinh văn ở tu viện Basang, nhưng thầy dạy kinh lúc đó quản thúc Ngài không nghiêm, hơn nữa đó là học tập định kỳ, không thuộc chế độ cả ngày. Lúc đó Tsangyang Gyatso còn chưa biết thân phận của mình, chỉ nghĩ là cha mẹ sắp đặt, muốn Ngài học kinh, tham thiền, đọc hiểu từ bi.
Giờ đây Tsangyang Gyatso hàng ngày phải đối mặt với sự đốc thúc nghiêm khắc của thầy dạy kinh, tất cả thời gian của Ngài đều là ngồi yên đọc kinh, rất nhiều kinh văn liên miên không dứt bày trước mặt Ngài, khiến Ngài cảm thấy mệt mỏi chưa từng có. Lúc đó Sangye Gyatso bắt đầu hơi sốt ruột, y biết rõ thiếu niên này đã bị gió hoang cao nguyên thấm nhuộm, muốn triệt để gột bỏ tính buông thả trên người Ngài, không phải là chuyện có thể làm được trong một sớm một chiều. Ba năm, y phải dùng thời gian ba năm, thuần phục đứa trẻ đã bỏ bê mười lăm năm này, khiến đứa trẻ đó trở thành một vị Đạt Lai thứ 6 hoàn hảo, lãnh tụ chính trị vĩ đại. Chỉ là sau ba năm, Sangye Gyatso thật sự nỡ đem chính quyền cả đời khổ tâm vun vén, hai tay dâng cho Tsangyang Gyatso hay sao ? Không ai có thể đưa ra một câu trả lời khẳng định, bao gồm bản thân Sangye Gyatso.
Thật ra, chúng ta đều là nô lệ của danh lợi, biết rõ đời người chẳng qua nổi trăm năm, vẫn phải chém giết tranh đoạt, liều mạng đến nỗi máu chảy đầu rơi. Hôm nay bạn giẫm lên hài cốt người khác ngồi hưởng thiên hạ, ngày mai ai sẽ vì bạn thu thập ván cờ tàn của giang sơn ? Các bậc vua chúa lúc có thiên hạ, liền tìm kiếm thuốc tiên khắp nơi, tu luyện đan dược, hy vọng có thể trường sinh bất tử, e sợ giang sơn cực khổ giành được sẽ theo sự kết thúc của sinh mệnh, chớp mắt hóa thành số không. Họ biết rõ trên đời này không hề có phương thuốc bất tử, nhưng vẫn nghĩ đủ mọi cách kiếm tìm. Có lẽ đó là vì không cam tâm, không cam chịu tâm huyết một đời của mình phó mặc cho dòng nước cuốn trôi. Thế nhưng sức người thật sự có thể làm gì được số trời ? Vua chúa được tôn xưng là con trời (thiên tử), nhưng con trời và người thường cũng chẳng có phân biệt. Còn Đạt Lai Lạt Ma được tôn xưng là Phật sống, họ cũng là xương phàm thai tục, dù có linh hồn không chết, lại chẳng có thể xác không già.
Có lẽ Tsangyang Gyatso trước giờ đều chưa từng nghĩ phải ngồi ôm thiên hạ, hô mây gọi gió. Từ khi vào ở trong cung Potala, Ngài mới biết, cuộc sống ở đây còn lâu mới tốt đẹp như tưởng tượng trong lòng, nhìn thấy trong mắt. Ngài như một chú chim sẻ lông vàng, bị nhốt vào chiếc lồng đẹp đẽ sang trọng, mỗi ngày đợi người chủ cho ăn, thỉnh thoảng cùng y đi dạo trước lầu sân vắng, ngắm phong cảnh mênh mông vô biên phương xa, muốn bay lượn, lại phát giác sớm đã bị vận mệnh chặt đứt lìa đôi cánh. Ngài khát vọng tự do, ngày ngày cô độc ngóng nhìn ngoài cửa sổ, hy vọng sẽ có người đi qua, sinh lòng thương xót giúp Ngài trốn thoát. Lúc đó, Ngài hầu như quên mất, bản thân là Phật, quên rằng sứ mệnh Ngài vào ở trong cung Potala là để cứu rỗi chúng sinh, để họ không phải chìm đắm trong bùn lầy trần thế.
Đúng vậy, chìm đắm, giờ đây người thật sự chìm đắm là Ngài. Hàng ngày đọc kinh văn khô khan, tham ngộ Phật pháp phức tạp. Thầy dạy kinh của Tsangyang Gyatso đối với Ngài đặc biệt nghiêm khắc, vì chỉ cần một chút lơi lỏng là sẽ bị Đệ Ba trừng phạt khắc nghiệt. Sangye Gyatso bận rộn xong chuyện chính sự, có lúc còn đích thân giảng bài cho Tsangyang Gyatso, điều này khiến Ngài càng thêm lo sợ không yên. Chúng ta dường như có thể tưởng tượng được tình cảnh ba trăm năm trước, một thiếu niên mười lăm tuổi bị nhốt trong cung điện phồn hoa của cung Potala: tay ôm sách kinh, ngồi nằm không yên, Ngài luôn nghĩ cách làm sao để có thể thoát ly khỏi trói buộc, trở lại cảnh tiêu dao ngày xưa của mình.
Trên thực tế, Phật sống các đời đều từ lúc thơ ấu đã được chỉ định là linh đồng chuyển thế, kiếp này của họ cũng chỉ là đứa trẻ bình thường, lại phải gánh vác trách nhiệm của kiếp trước mà họ không hề hay biết. Bất kể họ có bằng lòng hay không, nhất định phải có sự khác biệt với những đứa trẻ khác. Không thể trưởng thành thuận theo tự nhiên, không thể sống tự do tự tại, khi họ còn rất nhỏ đã bị nhốt vào chiếc lồng tu hành, tiếp nhận phán xét của số mệnh. Suốt đời này, ngay cả quyền lợi chọn lựa họ cũng không có, định sẵn phải dùng hạnh phúc bình thường đổi lấy kính ngưỡng của muôn dân. Cô độc ngồi trên ngai Phật, sách kinh là tri âm, tràng hạt là giai nhân, Phạn(4) âm là tình ca, đèn bơ là ánh sáng duy nhất.
So ra, Tsangyang Gyatso bay nhảy ngang dọc mười lăm năm chốn phàm trần, chẳng phải may mắn hơn các linh đồng chuyển thế khác ư ? Ít nhất Ngài từng có thời gian tự tại an nhàn, từng tắm trong gió núi trăng sáng dịu dàng, từng cùng cô gái xinh đẹp đa tình nói chuyện yêu đương. Chỉ chẳng qua hết thảy những điều tốt đẹp này như hạc vàng đi xa, không trở lại nữa. Đào hồng rụng rồi vẫn sẽ có khi lại nở, trăng sáng lặn xuống phía Tây rồi sẽ có lúc mọc lên, người yêu ly biệt vẫn còn có ngày gặp lại, nhưng Tsangyang Gyatso thì mãi mãi vĩnh biệt cõi hồng trần rối rắm.
Không kịp rồi, tất cả đã quá muộn. Anh Túc thật sự rất đẹp, nhưng khi bạn ăn vào mới biết đó là một loại thuốc chứa kịch độc. Sau khi hiểu rõ thì đã trúng độc quá nặng. Bạn muốn trở thành vua của cung Potala, thì tất nhiên phải trải qua dày vò người thường không thể chịu đựng. Tsangyang Gyatso không quản nóng lạnh, vất vả học tập Phật pháp ở đây, dù trong lòng Ngài ít nhiều không tình nguyện, thậm chí nóng nảy không yên, nhưng Ngài rốt cuộc vẫn là linh đồng chuyển thế, trong cốt cách có tính Phật và linh tuệ. Trong thời gian ngắn ngủi, việc học tập của Tsangyang Gyatso đã tiến bộ vượt bậc, điều đó khiến Sangye Gyatso cảm thấy an ủi, đôi khi lơ đãng, sẽ mỉm cười với Ngài.
Nụ cười đó đối với Tsangyang Gyatso thật nhợt nhạt yếu ớt. Mỗi khi màn đêm buông xuống cung Potala, mọi người tản hết, mỗi một đồ vật ở đây đều tẩy hết lớp trang điểm phấn son ban ngày, tỏ ra yên tĩnh vô cùng. Lúc này lòng Tsangyang Gyatso bị nỗi cô độc gặm nhấm, Ngài nhớ làng nhỏ triền núi đã cho Ngài tất cả những điều tốt đẹp. Nhớ màu bầu trời đêm ở đó, nhớ hương thơm của hoa dại, nhớ hình ảnh người dân Monpa uống rượu ca hát bên đống lửa, nhớ người mẹ khâu vá da chồn dưới đèn, càng nhớ tình cảm dịu dàng khi Ngài cùng ý trung nhân hò hẹn dưới trăng.
Trong kiếp này ngắn ngủi
Được sủng hạnh vô cùng
Kiếp sau thời thơ ấu
Phải chăng lại tương phùng ?
Sau khi tỉnh mộng, Ngài đã lệ rơi đầm đìa, cả cung Potala rộng lớn này chỉ có ánh trăng hắt xuống giường Phật của Ngài. Muốn gọi một con chim, nhờ nó đưa tin đến phương xa, tiếng hót nghẹn ngào của nó dường như cho Ngài biết, nó sống chẳng hề tự do dù nó có một đôi cánh bay lượn, vậy mà vẫn thân bất do kỷ. Vạn vật trên đời đều đang sống, đều đang hô hấp, và cũng đều thân bất do kỷ.
---
(1) Hải thị thần lâu: hiện tương quang học trong tự nhiên, tia sáng khúc xạ sinh ra ảnh ảo ở cự ly xa hoặc trên bầu trời.
(2) Giấc mộng kê vàng: Theo “Chẩm trung ký” của Trầm Ký Tế đời Đường, có chàng Lư Sinh, gặp vị đạo sĩ Lữ Ông trong quán trọ Hàm Đan, Lư Sinh than nghèo khó, đạo sĩ cho chàng mượn một chiếc gối, bảo chàng gối lên mà ngủ. Bấy giờ chủ quán đang nấu một nồi cơm kê vàng. Trong mơ Lư Sinh hưởng trọn một đời vinh hoa phú quý, khi tỉnh dậy, cơm kê vàng vẫn chưa chín. Sau dùng để ví với sự vỡ mộng, chuyện tốt muốn thực hiện rốt cuộc xôi hỏng bỏng không.
(3) Thượng Sư: dịch từ tiếng Phạn “guru”, nghĩa là Đại Sư, Đạo Sư, Đại sĩ, đối ứng với “Lạt Ma” trong tiếng Tạng.
(4) Phạn âm: chỉ tiếng đọc kinh.