- Tuân Tử
V
ô
Ư
u
Đón chào Đức Phật, mẹ cầm nhánh hoa
Oai nghiêm voi trắng sáu ngà
Giấc mơ tạ thế trãi hoa sen vàng
Vô Thường bước xuống nhân gian
Ưu Đàm hoa trổ hiện thân ái tình
Sứ điệp của vạn niềm tin
Tôn vinh nhan sắc huyền linh nữ thần
Đóa Vô Ưu trổ nhọc nhằn
Chờ tay thiếu nữ họa hoằn khai hoa
Cảm linh thanh khiết an hòa
Thiện nhân dưới cội Sala ... nguyện cầu !
Danh ngôn (47)
Sự tử tế trong đời sống
- Thích Nhật Từ
Trước nhất, tử tế là sự tốt bụng. Sống tử tế là sống có tấm lòng, từ những cái nhỏ nhặt, bình thường nhưng có khả năng góp phần tạo nên lối sống đẹp. Lòng tử tế hiện hữu trong mỗi con người, trước nhất như một tiềm năng, do vậy, để có nó trong cuộc sống, ta cần khai thác, nuôi dưỡng, chăm sóc và phát triển. Vì là một phẩm chất, sự tử tế không bỗng dưng mà có, cần được huấn luyện, hướng dẫn, học tập, rèn luyện để có được. Khi lòng tử tế đã có mặt, người sở hữu nó phải biết gìn giữ, ứng dụng và nhân rộng. Sau đây là những phẩm chất cao quý tiêu biểu mà người tử tế cần có:
1. Tấm lòng nhiệt huyết
Về bản chất, người tử tế vừa rất nhạy cảm, vừa năng động và thích dấn thân. Nhạy cảm với những bất công, cảm thông với những nỗi đau, năng động với các việc nghĩa, dấn thân vào các công việc đáng làm. Tất cả chỉ vì một tấm lòng không thể thờ ơ, bàng quang, lãnh cảm, an phận thủ thường, hay vô tích sự. Nhờ phẩm chất này, người tử tế luôn chủ động, tìm kiếm các việc nghĩa để góp phần phụng sự tha nhân, xây dựng cuộc sống này ngày càng tốt đẹp hơn.
Nói cách khác, nơi nào có lòng nhiệt huyết, nơi đó xuất hiện nhiều việc nghĩa. Người nào có lòng nhiệt huyết, người đó sẽ không để cuộc sống của mình trôi qua luống uổng và tiếc nuối. Với lòng nhiệt huyết, việc nặng thành nhẹ, việc lớn thành nhỏ, việc khó thành bình thường. Nhiệt huyết vì việc nghĩa là sức sống bùng cháy, mãnh liệt như mặt trời không ngừng sự chiếu soi. Với nhiệt huyết, ta mở ra cho mình các cánh cửa cơ hội của việc nghĩa, việc có ích và giá trị. Nhờ đó, cuộc sống này tăng thêm gia vị tình người.
2. Đức tính cao thượng
Người tử tế nào cũng có trong cuộc sống của họ đức tính cao thượng, bao dung, độ lượng. Người cao thượng không trói tâm mình vào danh vọng, lợi dưỡng, không phục vụ cho cái tôi và phe nhóm mình. Nhờ phẩm chất cao thượng, người tử tế biết quan tâm tha nhân với động cơ trong sáng với hành động cao quý. Trong mọi tình huống, người cao thượng suy nghĩ, quyết định, làm việc trên tinh thần “quang minh, chính đại”, hướng đến công bằng xã hội. Thậm chí có thể hy sinh các quyền lợi cá nhân và lợi ích nhóm để hướng đến đại cuộc.
Nói theo Đức Phật, người tử tế với tâm cao thượng là người “vì phúc lợi, vì an lạc, vì lợi ích cho số đông”. Với phẩm chất cao thượng, người tử tế sống rất dung dị, thiết thân với cuộc sống, không ngừng nỗ lực phụng sự và đóng góp.
3. Biết quan tâm và giúp đỡ nhau
Khi đàn kiến đang vội vã vác trên lưng chúng các thực phẩm to hơn chúng, dầu vất vả và nặng nhọc, chúng đã không quên chào hỏi nhau, thể hiện sự quan tâm dành cho đồng loại. Hành động đó, tưởng chừng như nhỏ lại có ý nghĩa tình người. Trong sự bôn ba, mưu cầu hạnh phúc, đôi lúc chúng ta quên đi sự quan tâm nhau, hỏi han nhau, giúp đỡ nhau. Quan tâm tha nhân làm cho cuộc sống trở nên thân thiết, gần gũi. Lời hỏi han, động viên, góp ý tưởng cho người đang bí lối … để lại ấn tượng tốt đẹp và sự khích lệ cần có.
Vượt lên trên loài vật, sự quan tâm của con người không nên là chủ nghĩa hình thức, qua loa, lấy lệ. Cần có ý thức và trách nhiệm quan tâm đến người thân và tha nhân trong xã hội. Không cần phải quan tâm đến những điều xa vời, cao siêu, phi hiện thực. Từ những cái nhỏ nhặt, bình thương nhưng không tầm thường, sự quan tâm của ta về cuộc đời sẽ giúp cuộc sống có ý nghĩa. Các nghĩa cử như cha mẹ quan tâm chuyện học hành của con cái, con cháu quan tâm đến sức khỏe của cha mẹ, làng xóm quan tâm lẫn nhau, mỗi người quan tâm đến tha nhân trong tương quan xã hội … góp phần tạo nên văn hóa tình người. Quan tâm, chào hỏi không phải là việc gì quá to lớn đến độ không làm được, do đó, đừng để tâm mình trở nên khô khan, chai lì trước những bất hạnh của tha nhân.
Người thiếu quan tâm đến tha nhân chẳng khác nào có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe, có mũi mà không thở, lủi thủi một mình, lầm lỳ, vô cảm. Quan tâm bằng lời thưa hỏi, qua hành động trợ giúp, bằng sự cho đi … đó là những nghĩa cử tạo nên niềm vui và hạnh phúc trong đời.
4. Biết hiến tặng và ban cho
Đối với người tử tế, sự tốt bụng không chỉ dừng lại trong tâm tưởng, mà cần thể hiện qua hành động từ bi, nhân ái, vị tha, vô ngã. Người tử tế biết thống thiết với nỗi đau của kiếp người, nên biết chia sẻ, hiến tặng, ban cho bằng cả tấm lòng. Giúp đỡ người khác thực ra làm cho chính mình trở nên cao thượng. Hiến tặng cho người khác thực ra là đang góp nhặt phúc đức cho bản thân. Phụng sự cho cuộc đời thực ra là đang làm cho cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa.
Không ai nghèo đến nỗi không thể cho người khác một cái gì. Cũng không ai giàu đến nỗi có thể cho tất cả mọi người trên hành tinh này. Ai có tấm lòng đều có thể ban cho. Chia cắt một phần chi tiêu không cần thiết của bản thân và gia đình, tặng cho các mảnh đời kém may mắn hơn, là đang mang lại niềm hạnh phúc với tâm niệm “ban cho như cứu khổ.”
Biết giúp đời, giúp người ta sẽ thấy rõ sống không phải là gom góp cho riêng mình mà là ban tặng, dâng hiến. Như nguồn nước lưu thông, nước chảy đi rồi lại chảy về, mang thêm phù sa bồi đắp… Người ban cho sẽ không mất đi những thứ mình đang có, thực chất là làm cho những thứ mình sở hữu trở nên có ý nghĩa hơn.
Cho người có hoàn cảnh ngặt nghèo một bát cơm, manh áo … là cho các con cá, đôi lúc, không thể trì hoãn. Trong nhiều tình huống, ta không nên mặc cả với sự cho. Trao tặng kiến thức, tư vấn nghề nghiệp, giúp đỡ cơ hội, chỉ dẫn lối đi … là cho những chiếc cần câu, dù đòi hỏi tính công phu nhưng rất cần thiết.
Hiến tặng tạng, mô và hiến xác cho y học là đang trao tặng cho những người hữu duyên cơ hội “được tái sinh” một lần nữa ngay trong kiếp sống hiện tại ngắn ngủi này. Nâng đỡ người có khả năng, giúp đỡ người nghèo khó, dẫn dắt người bí lối, truyền trao kiến thức và kinh nghiệm cho thế hệ sau … đều là những sự cho có giá trị.
Cho một lời khuyên đúng tình huống có thể tạo nên sự lên dây cốt tinh thần. Đưa tay xuống cứu vớt một mảnh đời, tạo cơ hội cho người ngã quỵ đứng thêm một lần nữa … là những sự cho có ý nghĩa xây dựng cuộc sống.
Đừng lỗi hẹn với sự cho. Đừng chậm trễ và chần chừ. Đừng tiếc nuối và vô cảm. Khi chết đi, không ai có thể mang theo bất cứ vật gì. Do đó, khi còn sống, đừng đánh mất cơ hội ban cho. Nói cách khác, người ban cho thì còn hoài. Người giấu diếm, lẫn tiếc tài sản sẽ trở nên bủn xỉn, đôi lúc vô dụng. Hãy tập thói quen ban cho, thay vì chỉ biết gom góp về …
Lòng tử tế còn có nhiều phẩm chất cao quý khác như chánh trực, can đảm, chí công, vô tư, hy sinh, tận tụy … Lòng tử tế như một quặng mỏ, biết khai thác sử dụng sẽ làm cho nó trở nên có giá trị hơn.
Tử tế là mạch sống tình người, đừng làm nó chết đi. Hãy hít thở sự tử tế. Hãy tiêu hóa sự tử tế. Hãy sống với sự tử tế. Hãy trở thành người tử tế để không phải sống cuộc đời trong vô cảm, vô tình, vô tâm, vô ơn, vô nghĩa.
Quán thấy và Chấp nhận
- Đức Dalai Lama
Vu Lan nhớ Mẹ
- Hoàng Duy, Hoàng Mỹ
cũng không bao giờ
nghe hết những lời Mẹ ru
trong trái tim con
Lời Mẹ ru con
êm đềm như suối mát trong lành
để con khôn lớn, đắp xây cuộc đời tươi sáng
mong muốn lòng con từ bi
con thành người tài đức vẹn toàn
Chiều nay, bao lá rơi bên thềm
mỗi khi thu về
ấm áp cõi lòng con
luôn có Mẹ kề bên
Lòng này trào dâng
bao niềm vui quỳ trước Phật đài
mùa Vu Lan đến, áo con cài hoa hồng thắm
vui sướng Mẹ vẫn còn đây
hạnh phúc nào được mãi bên Mẹ
- - -
Đạo làm con, xin người chớ nên hững hờ
Giờ Mẹ vẫn còn đây, hãy thương Mẹ lỡ mai muộn màng
Đừng chờ khi ngày sau Mẹ mất, ghi lời tiếc thương
Bia đá vô tri ... có nghĩa gì đâu
Những ai còn Mẹ, xin đừng … đừng làm Mẹ khóc
Khắp thế gian này, không gì sánh bằng Mẹ đâu
Vu Lan nhớ Mẹ
- Thích Trí Anh
Nhớ Mẹ già dầu dãi nắng mưa
Ngữ ngôn sao nói cho vừa
Tình thương của Mẹ vẫn chưa đáp đền
Mùa báo hiếu lòng con nặng trĩu
Núi ân tình đè nặng đôi vai
Ra đi đã biết bao ngày
Vẫn chưa tỏ ngộ đường ngay lý tà
Lòng chưa sáng ân tình sao trả
Tâm chưa trong biết lấy chi đền
Thẹn mình quả phẩm chưa nên
Nguyện cầu từ mẫu vững bền đạo tâm
Sống thanh thản không còn đau khổ
Cảnh thanh bình tự tại thong dong
Phương xa con trẻ yên lòng
Không môn cảnh tịch, Tâm Không đạt thành
Mùa Vu Lan của những yêu thương
(Theo Pháp luật và Xã hội)
Tháng 7 về cùng những cơn mưa chợt đến, chợt đi ! Có lẽ vợ chồng Ngâu trong truyền thuyết đã quá nhớ thương nhau, nên những ngày gặp mặt hiếm hoi, nước mắt đã làm ướt cả nhân gian. Nước mắt nỗi mừng gặp mặt, nước mắt của sự chia xa ...
Tháng 7 cũng về với những ý nghĩa tâm linh rất sâu sắc trong tâm hồn người Việt. Những hoạt động xã hội trong tháng 7 dường như có chút lắng đọng lại để mỗi người dành thời gian cho gia đình, cho những linh hồn đã mất, nhất là cho những ai còn đang gắn bó bên nhau.
Chẳng phải chỉ trong truyền thuyết Ngưu Lang - Chức Nữ người ta mới thấy được nỗi đau tận cùng của sự xa cách. Cũng không phải ngày lễ Vu Lan về, nhìn thấy trên ngực áo ai có bông hoa hồng màu trắng, người ta mới nhận ra được giá trị của cuộc sống có đầy đủ cha mẹ cùng hai tiếng gia đình. Chỉ là, giữa cuộc sống hối hả bộn bề, thật may, có một ngày để chúng ta nhớ về những điều đã có, đang có trong mối quan hệ gia đình, dòng tộc, và xa hơn nữa … là nhân sinh.
Theo kinh Vu Lan xưa, ngày rằm tháng 7 là ngày nhà sư Mục Kiền Liên cung thỉnh chư tăng mười phương để giải thoát cho vong linh người mẹ đã mất của mình. Từ đó, ngày lễ Vu Lan ra đời - chúng ta gọi là ngày báo hiếu. Trong lễ Vũ Lan, những ai còn mẹ được cài lên ngực áo mình một bông hoa màu hồng. Còn những ai đã không còn mẹ thì cài lên một bông hoa màu trắng. Lễ Vu Lan trở thành văn hóa tâm linh của người Việt để tưởng nhớ nguồn cội, để cầu siêu cho các vong hồn cô quạnh mà sâu xa hơn là nhắc nhở người ta biết trân trọng những gì mình đang có: cha mẹ, gia đình, người thân.
Trân trọng hiện thực chúng ta đang có là thái độ sống rất quan trọng. Đâu đó trong cuộc sống này, có những câu chuyện mãi chỉ là hình thức, người ta chuẩn bị thật nhiều vàng mã lễ nghi cho người đã khuất bóng, nhưng có nghĩa lý gì đâu khi những phút đang sống thực trên đời này chúng ta quên nghĩa tình dành cho nhau, quên sự quan tâm, quên yêu thương và quên cả sự trân trọng khi có nhau trong cuộc sống.
Bởi vậy, nhà thơ Đỗ Trung Quân mới có những câu thơ như những lời nhắc nhở cho hiện thực rằng:
“Con không đợi đến ngày kia mình mất mẹ mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ …”
Tôi cũng có đôi lần bắt gặp một câu thơ khác mà trái tim mình cứ thấy thảng thốt: “Con sợ một ngày kia, trên áo mình là một bông hoa màu trắng …”
Vì vậy, ngày hôm nay, tôi chia sẻ và cảm thông cho những người bạn, những đồng nghiệp và cả những ai tôi không quen khi gia đình đã có những mất mát. Cuộc sống dạy cho chúng ta bài học rất quý giá rằng, nếu chúng ta biết kết nối, biết san sẻ yêu thương và đồng cảm, thì chúng ta sẽ đủ sức mạnh để đi qua những đau thương và mất mát ấy.
Cũng vì vậy, mùa Vu Lan năm nay và các năm sau, tôi nguyện cầu cho các đấng sinh thành khắp nơi hạnh phúc và tự hào với sự trưởng thành của con cái mình nuôi dạy. Có gia đình hạnh phúc thì xã hội mới thực sự hạnh phúc. Có chữ “HIẾU”, chữ “THUẬN” trong nhiều gia đình thì mới làm phạm trù đạo đức xã hội tốt lên. Những chuyện không vui trong các gia đình, mong mọi người nhìn nhận thật thấu đáo trong mùa Vu Lan này, để yêu thương sẽ thay cho những tính toán bon chen nhỏ nhặt trong cuộc sống.
Tôi thầm cảm ơn cuộc sống, vì ít ra đến lúc này tôi vẫn là người hạnh phúc khi trên ngực áo mình có bông hoa màu hồng và cố gắng trân trọng những phút giây quý giá này, như những câu thơ của Hoàng Yến Oanh:
“Bông hồng con cài áo hôm nay là cả một hành trang
Để con biết rằng mình hạnh phúc biết bao vì vẫn còn có Mẹ
Mùa báo hiếu về rồi Mẹ ơi, nơi này con lặng lẽ
Gửi về Mẹ, cả một bầu trời nhung nhớ rộng yêu thương ...”
… Và tôi cũng mong bạn có một mùa Vu Lan thật ý nghĩa.
Xé đau khổ ta đi
- Thích Nhật Từ
Niềm lạc quan rúng động cõi tam thiên
Giữa cơn mê, tâm ta hằng tỉnh thức
Dù ta bà đây cũng chính thiên đường
Hãy vui lên cho đời đạo thắm
Nụ cười thiền xóa đêm tối hoang vu
Hãy an trụ tâm trong từng khoảnh khắc
Sống từng giây trong hiện tại, bây chừ
Danh ngôn (46)
- Cảnh Hành Lục
30 câu nói giúp bạn sống hạnh phúc hơn
- Thích Nhất Hạnh
Những lời dạy của thầy đầy tính chiêm nghiệm, rất gần gũi, thiết thực với đời hằng ngày. Cuối năm ngoái (2014), ở tuổi 88, sức khỏe thiền sư Thích Nhất Hạnh đột ngột đi xuống. Tin này làm Phật tử rất lo lắng. Hiện thầy đã trở về Làng Mai để dưỡng bệnh sau thời gian dài nằm viện do tai biến mạch máu não.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh dành thời gian cả cuộc đời mình cho Phật giáo, với mong muốn mang lại hạnh phúc cho mọi người. Hãy cùng đọc những lời thầy dạy để khiến bạn sống hạnh phúc hơn:
1- Thấu hiểu nỗi đau của người khác là món quà to lớn nhất mà bạn có thể trao tặng họ. Thấu hiểu là tên gọi khác của yêu thương. Nếu bạn không thể thấu hiểu, thì bạn chẳng thể yêu thương.
2- Cũng như một người làm vườn biết cách dùng phân bón để cho ra những bông hoa tươi đẹp, người tu tập biết tận dụng nỗi đau khổ để tạo ra hạnh phúc.
3- Tự do có được nhờ tu tập và thói quen. Bạn phải rèn luyện mình cách bước đi như một người tự do, ngồi như một người tự do và ăn như một người tự do. Chúng ta phải rèn luyện bản thân về cách sống như thế nào.
4- Nói “tôi yêu bạn” có nghĩa là “tôi có thể mang tới cho bạn sự bình yên và hạnh phúc”. Để làm được điều đó, trước tiên, chính bạn phải là người có được những điều đó đã.
5- Một người tức giận là do không giải quyết được những đau buồn của mình. Họ là nạn nhân đầu tiên của sự đau buồn đó, còn bạn là người thứ hai. Hiểu được điều này, lòng từ bi sẽ nảy nở trong tim và sự tức giận sẽ tan biến. Đừng trừng phạt họ, thay vào đó, hãy nói gì đó, làm gì đó để vơi bớt nỗi đau buồn.
6- Chúng ta được tạo ra từ ánh sáng. Chúng ta là những đứa trẻ của ánh sáng. Chúng ta là con cái của thần mặt trời.
7- Tĩnh lặng là điều cốt lõi. Chúng ta cần tĩnh lặng như chúng ta cần không khí, như cái cây cần ánh sáng. Nếu tâm trí chúng ta lúc nào cũng đầy những từ ngữ và suy nghĩ, thì lấy đâu ra không gian cho chính chúng ta.
8- Mỗi người chúng ta nên tự hỏi mình: Tôi thật sự muốn gì ? Trở thành người thành công số một hay đơn giản là người hạnh phúc ? Để thành công, bạn có thể phải hi sinh hạnh phúc của mình. Bạn có thể trở thành nạn nhân của thành công, nhưng bạn không bao giờ là nạn nhân của hạnh phúc.
9- Hãy bước đi như thể bạn đang hôn trái đất bằng bàn chân của mình.
10- Khi một người làm bạn đau khổ, ấy là vì ẩn sâu bên trong, nỗi đau khổ của anh ta đang tràn trề. Anh ta không đáng bị trừng phạt. Anh ta cần sự giúp đỡ.
11- Đôi khi niềm vui mang tới nụ cười. Nhưng cũng đôi khi, chính nụ cười mang tới niềm vui.
12- Hạnh phúc là được là chính mình. Bạn không cần phải được thừa nhận bởi người khác. Chỉ cần chính bạn thừa nhận mình là được rồi.
13- Bởi vì bạn đang sống nên mọi thứ đều có thể thành sự thật.
14- Hãy cười, thở và bước đi thật chậm.
15- Mỗi sáng thức dậy, tôi lại mỉm cười. Hai mươi tư tiếng mới mẻ đang ở trước mắt tôi. Tôi nguyện sống trọn cho từng phút giây và xem xét mọi thứ bằng ánh nhìn từ bi.
16- Những mầm mống khổ đau trong bạn có thể thật mạnh mẽ, nhưng đừng đợi cho đến khi mọi khổ đau đi hết rồi mới cho phép mình được hạnh phúc.
17- Nhiều người cho rằng sự náo nhiệt là hạnh phúc. Nhưng khi quá náo nhiệt, sẽ không có bình yên. Hạnh phúc thật sự dựa trên sự bình yên.
18- Hành động của tôi nói lên tôi là ai.
19- Niềm hi vọng là điều rất quan trọng. Nó giúp cho hiện tại bớt khắc nghiệt. Nếu ta hi vọng rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn, ta sẽ chịu đựng được khó khăn của hôm nay.
20- Nếu bạn yêu ai đó nhưng hiếm khi dành thời gian cho họ thì đó không phải tình yêu thật sự.
21- Tình yêu của bạn phải khiến cho người yêu cảm thấy tự do.
22- Thời khắc hiện tại tràn ngập niềm vui và hạnh phúc. Chỉ cần bạn để tâm, bạn sẽ nhìn thấy chúng.
23- Tôi tự hứa với lòng mình rằng tôi sẽ vui sống từng phút giây mà đời ban cho tôi.
24- Tất cả suy nghĩ, lời nói, hành động của bạn đều mang dấu ấn của riêng bạn.
25- Con người đau khổ là vì các thành kiến. Khi nhìn mọi thứ cởi mở hơn, chúng ta sẽ tự do và chẳng còn khổ đau nữa.
26- Nếu chúng ta bình an, chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể cười. Và mọi người trong gia đình, trong xã hội có thể hưởng niềm vui từ chính sự bình an của ta.
27- Cội nguồn của tình yêu nằm sâu trong mỗi chúng ta. Chúng ta có thể giúp người khác hạnh phúc. Một lời nói, một hành động, một suy nghĩ cũng có thể làm vơi nỗi buồn và tăng hạnh phúc cho người khác.
28- Tôi đã tới. Tôi đang ở nơi cần ở. Điểm đến của tôi nằm trên mỗi bước đi.
29- Chúng ta cần học cách nghỉ ngơi và thư giãn. Nó giúp ta phòng chống bệnh tật và giảm ngừa căng thẳng. Nó giúp ta có tâm trí sáng suốt để tập trung giải quyết các vấn đề.
30- Mỗi hơi thở, mỗi bước đi của chúng ta có thể lấp đầy bởi bình an, hạnh phúc và sự thanh thản.
Thôi kệ !
- Thích Tánh Tuệ
Chỉ là âm điệu thoảng đầu môi
Nghe khen càng thích, chê càng khổ
Thế sự muôn trùng ... vẫn cứ trôi
Thôi kệ, sầu chi chuyện được thua
Tuồng đời thăng giáng lúc tôi, vua
Ai khôn mà chẳng dăm lần dại
Rồi cũng phù vân ... ngọn gió đùa
Muôn sự trên đời do nghiệp duyên
Hiểu ra, thanh thoát mọi ưu phiền
Trong mơ, ai biết đời hư ảo
Thả mồi bắt bóng ... tự truân chuyên
Thôi kệ, đừng than trách thế nhân
Đừng nhìn lỗi họ để ... bâng khuâng
Nhân tình thế thái xưa nay vậy
Thánh thiện thì ai ở dưới trần
Thôi kệ, chi rồi cũng sẽ qua
Giận - Hờn - Ân - Oán … nặng riêng ta
Gỡ cặp kính màu cho bớt khổ
Mắt nhặm trông đời vạn đốm hoa
Sống giữa nhân hoàn mấy chục năm
Nói năng thì dễ, khó là câm
Đời trôi, ta nhọc vì ôm giữ
Vui - Buồn - Sướng - Khổ … tại nơi tâm
Chỉ là một bát cơm
( Sưu tầm )
- Thưa đại sư, chúng con ở phòng làm việc hay bị ức hiếp, quá thống khổ, cầu xin Ngài chỉ bảo, chúng con có nên xin nghỉ việc ở đó hay không ?
Vị đại sư từ từ khẽ nhắm hai mắt lại, giống như đang trầm ngâm. Sau nửa ngày, vị đại sư cuối cùng cũng mở lời, nhưng lại chỉ nói đúng năm từ:
- “BẤT QUÁ NHẤT OẢN PHẠN” - Tạm dịch: “Chẳng qua chỉ là một bát cơm”
Sau đó, vị đại sư liền phất phất tay, ý bảo hai người rời đi.
Sau khi hai người trở lại công ty, một người trong đó lập tức nộp đơn xin nghỉ việc, quyết định trở về quê hương làm ruộng, người còn lại tiếp tục ở lại công ty. Thoáng một cái đã mười năm trôi qua, người trở về quê hương làm ruộng, luôn tích cực học hỏi kinh nghiệm từ những người nông dân đi trước, lấy môi trường thân thiện làm phương thức kinh doanh, kết quả của sự cần cù cố gắng là đã trở thành một chuyên gia nông nghiệp.
Còn vị ở lại công ty thì sao ? Cũng không hề thua kém, anh ta đã tự mình điều chỉnh cho phù hợp, cũng cố gắng thể hiện năng lực, nên dần dần được coi trọng, hiện giờ đã trở thành người quản lý. Đến một ngày, hai người gặp lại nhau. Vị chuyên gia nông nghiệp nói:
- Thật là kỳ lạ, đại sư nói cho chúng ta biết “BẤT QUÁ NHẤT OẢN PHẠN”, năm chữ này tôi nghe xong liền hiểu ngay, chẳng qua cũng chỉ vì một bát cơm thôi, sao phải miễn cưỡng ở lại công ty mà không rời đi ? Cho nên tôi đã xin nghỉ việc ngay.
Sau đó, anh ta hỏi người quản lý:
- Tại sao khi đó anh lại không nghe theo lời nói của đại sư vậy ?
Người quản lý vừa cười vừa nói:
- Tôi nghe xong đại sư nói “Bất quá một bát cơm”, nên mỗi khi phải chịu nhiều sự khinh bỉ, chịu nhiều rắc rối, tôi chỉ cần nghĩ: “Cùng lắm cũng chỉ là để kiếm miếng cơm ăn !”, cho nên dù ông chủ nói bất kể điều gì khó chịu, chỉ cần mình bớt hờn giận, bớt so đo là được rồi. Đại sư không phải là có ý này sao ?
Tâm hoa
- Nguyên Đỗ
Đừng bao giờ buông lơi
Mùa hè oi bức nóng
Mùa đông băng tuyết rơi
Tất cả theo thời cả
Sướng khổ cũng có mùa
Ấm nồng hay băng giá
Đâu cần chi phân bua
Bánh xe luân hồi nhỏ
Xoay vòng trong đời ta
Những buồn vui sướng khổ
Luyện rèn tâm sâu xa
Đừng bao giờ tuyệt vọng
Ánh sáng cuối đường ngầm
Đừng để lòng xao động
Sinh quang phát tự tâm
Dù rừng sâu u tối
Cũng có ánh nắng soi
Dù mình đang hấp hối
Cũng có hồng ân trời
Sen trong đầm vẫn nở
Giữa đồng hôi sình lầy
Mọi sự có căn cớ
Nở hoa lòng đậm say
Tìm kiếm
- Trích: “Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất” - Bạch Lạc Mai
- Chương I - Chỉ vừa gặp gỡ đã quen nhau
- Chương I - Chỉ vừa gặp gỡ đã quen nhau
Người sống trên đời rốt cuộc là vì điều gì ? Những lúc hoang mang túng quẫn, chúng ta luôn kìm lòng chẳng đặng hỏi bản thân như thế. Nhàn du chốn nhân gian là vì sứ mệnh riêng tư của mỗi cá nhân, là vì một tín ngưỡng không thể nói ra, hay vẻn vẹn chỉ là vì một kiểu tồn tại giản đơn ? Đời người mỗi bước đều là ván cờ, người bố trí bàn cờ rốt cuộc là ai, bạn và tôi đều không cách gì biết được. Chúng ta thường chuyển từ một sàn nhảy náo nhiệt này sang một sân khấu tịch mịch kia, diễn tới diễn lui, chẳng qua một mình bạn, chẳng qua một mình tôi. Dưới quang âm sâu lắng, nói mấy câu sáng tối tròn khuyết, uống một chén trà đậm nhạt nóng nguội.
Nhân gian này, phong trần nhất, mênh mang nhất, cũng vô tình nhất, rõ ràng đã cho chúng ta góc khuất nương thân, lòng lại không chốn ở yên. Chúng ta vẫn một lòng tình nguyện trăn trở giữa cõi trần, non một chặng, nước một chặng, đeo hành trang tìm đến phương xa, vì mộng tưởng trong lòng. Chúng sinh vạn tướng, tâm tình khác nhau, tao ngộ đời người khác nhau, nơi chốn hướng về cũng khác nhau. Có người si mê bờ nước Giang Nam, trăng lạnh hoa mai thanh tao, có người tham luyến gió cát đại mạc, đìu hiu sông Dịch thê lương. Có người thích mơ một giấc mộng ẩm ướt dưới nếp nhà cũ, có người lại nguyện ý rời phố xa quê, đi tìm câu chuyện nhân quả chôn giấu trong hoang nguyên.
Mỗi người đều có quê hương thuộc về mình, có quê hương từ nhỏ sinh ra và lớn lên, cũng có quê hương của tâm linh. Quê hương chân thực, có lẽ là non xanh nước biếc, cầu đá liễu rủ, nhà gỗ bình yên. Quê hương của nội tâm, có lẽ là bụi vàng đường cổ, bão tuyết cao nguyên, gió dài lồng lộng. Chúng ta đều là những người bình thường nhất, nhưng vì mộng tưởng khác thường trong lòng, lại cam nguyện làm một lữ khách phiêu bạt chân trời, phóng khoáng vẫy chào quê nhà, đi đánh thức nền văn hóa đã trầm mặc ngàn năm trên mảnh đất xa xưa mà thần bí ấy.
Tây Tạng, nơi ấy cách bầu trời rất gần, cách giấc mơ rất xa, những năm gần đây, vì mảnh đất thần diệu này, biết bao người đã dấn bước trên lộ trình dằng dặc đường gió bụi. Chẳng mấy chốc, cao nguyên hoang vu mênh mông đã trở thành quê hương mà vô số kẻ lãng du hồn mơ lòng nhớ. Nhiều người đối với chân trời xa xăm này đều bội phần xa lạ, thậm chí chẳng biết mảy may, nhưng vẫn nhất mực tình sâu đem linh hồn tá túc tại đây. Chắc chắn là có thứ gì đó khiến chúng ta mê mẩn không rời, có lẽ là bí mật thần kỳ chôn giấu nơi đất Tạng, là kinh phướn phấp phới tỏ rõ luân hồi, là lời nguyền đến từ văn minh viễn cổ.
Có những người không nề hà muôn dặm rong ruổi đến đây, chỉ để múc một hũ nước thánh của hồ Thanh Hải, chỉ để ngắm một thoáng mặt trời lặn trên cung Potala, chỉ để bước trùng lên dấu chân công chúa Văn Thành năm xưa, chỉ để ngâm nga một bài thơ của Tsangyang Gyatso, cũng để tận mắt nhìn thấy một lần mục dân lùa ngựa cừu từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác, tiếp nối câu chuyện này với câu chuyện khác. Hoặc là quan sát một lần thiên táng, xem chim điêu rỉa sạch thi thể, một thân xác chớp mắt đã biến mất, cả chiếc áo xanh cũng chẳng đem đi được. Tất cả chúng sinh đều có tính Phật, kiếp này thành Phật, là vì siêu độ khổ nạn của chúng sinh.
Suốt dọc đường, nhìn thấy người Tạng áo quần lam lũ quỳ gối rạp mình đi về phía trước, trong ánh mắt chứa đầy kiên định không thể lung lay. Họ lựa chọn dùng phương thức thành kính này đi hết hành trình xa xôi, vì niềm tin trong lòng, vì tìm kiếm kiếp trước trong mơ. Tất cả những ai đi qua bên họ đều sẽ cảm động đến đầm đìa nước mắt, cũng muốn vì họ gánh vác chút gì đó, nhưng lại bất lực biết bao. Nhiều người đến đều là để bái yết sinh mệnh, đến cung Potala, tiếp nhận lễ rửa tội thánh khiết nhất. Một mảng bầu trời xanh thẳm ấy, có chim ưng dang cánh chao liệng, mây trôi tản mác, với tay chạm được.
Theo đuổi một giấc mộng, có lẽ chỉ cần dăm ba năm, tìm kiếm một người, rốt cuộc phải mất thời gian bao lâu ? Núi tuyết yên tịnh tựa sát vào nhau trên cao nguyên, hồ thánh hắt bóng trên những đỉnh núi trắng tinh. Ở nơi này, có cách tang(1) nở hoa, cỏ lác đung đưa trong gió, ở nơi này, tình yêu của chúng ta sao mà giản đơn, chỉ vì tình cờ gặp gỡ một đôi mắt linh dương Tạng. Năm tháng luân chuyển, vương triều đổi chủ, bao nhiêu gió mưa nghiệp bá đều âm thầm chôn vùi trong sông dài lịch sử, người và việc có thể khiến chúng ta ghi nhớ lác đác như sao buổi sớm. Mà mảnh đất này, vĩnh viễn không bị quấy nhiễu, biết bao người muốn vén tấm mạng che mặt thần bí dưới làn sương mỏng kia, lại phát giác hóa ra miền đất xem chừng cằn cỗi này lại màu mỡ như vậy. Mặc cho năm tháng vùi dập tuổi tác, sự đời sớm đã đổi thay hoàn toàn, một cỏ một cây, một bụi một cát ở đây đều không hề suy suyển.
Khói lửa ở đây rất thưa thớt, chúng ta đều từ nơi hồng trần sâu nhất đến đất Tạng, đặt xuống tất cả tôn quý và vinh hoa của trần thế, cũng mang đến nhiều bụi đất lẫn lộn và tâm sự ngổn ngang. Núi mây muôn dặm, trăng lạnh gió rét, dù nhiều người không thể thích ứng hoàn cảnh tự nhiên nơi này, nhưng đã chọn đến đây, đều dự định cùng sống chết với đồng hoang đất tuyết ở đây. Trên thực tế, chúng ta đều hiểu rõ, trèo đèo lội suối như vậy, sốt ruột đi gấp, là vì tìm kiếm một con người, một cái tên, một bài thơ tình. Chỉ là trên đời này có nhiều việc không cho phép bạn và tôi dễ dàng nói toạc ra, số mệnh có quá nhiều chân lý huyền diệu không thể tìm hiểu thấu đáo. Dường như vì những huyền cơ này, vạn vật mới có lý do để con người tìm đến ngọn nguồn.
Ở Tây Tạng có nhiều vị Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) chuyển thế như vậy, vì sao người chúng ta ghi nhớ cứ là Tsangyang Gyatso ? Có lẽ những ai từng đến đây và chưa từng đến đây đều hiểu rõ, đó là vì Ngài là một vị tình tăng, một vị tình tăng khiến tâm hồn con người rung động. Thơ tình của Ngài cũng là hoa tình, rải khắp trên mảnh đất hoang vu này, khiến muôn hoa nảy nở, tình duyên bền chặt. Điều chúng ta khó quên cõ lẽ không phải là thân thế biết bao truyền kỳ của vị linh đồng chuyển thế này, không phải là tầm cao Thần Phật khi Ngài được chúng sinh quỳ lễ, mà là mỗi quyến luyến sâu sắc đối với hồng trần và vấn vương không dứt đối với tình yêu của Ngài. Chúng ta cảm động rơi lệ vì thơ tình của Tsangyang Gyatso, những bài thơ tình viết đã ba trăm năm, cũng hát suốt ba trăm năm.
Năm tháng vô tình, thời gian càng dài, nhiều chương tiết của lịch sử đều bị sửa đổi. Năm tháng cũng hữu tình, nó làm người đưa thư cho thời gian, gửi đến câu chuyện của ba trăm năm trước. Đối mặt với tình cảm, bất kể lòng dạ sắt đá đến đâu cũng sẽ biến thành mềm yếu, vì thế những ai từng đọc thơ tình của Tsangyang Gyatso đều sẽ sa vào biển tình cuồn cuộn, khó tự thoát ra. Nhà viết kịch thời Minh Thang Hiển Tổ (1550-1616) từng viết trong vở Đình Mẫu Đơn: - “Người như Đỗ Lệ Nương, quả có thể nói là người có tình vậy. Tình không biết bắt đầu từ đâu, một mực sâu đậm, lúc sống có thể vì tình mà chết, chết rồi lại có thể vì tình mà sống. Sống không nguyện ý chết vì tình, chết mà không thể sống lại, đều chẳng phải là chí tình.” - Chúng ta đều là người sống vì tình, chết vì tình, dù không cắt đứt được danh lợi, không vứt bỏ được vinh hoa, nhưng vẫn bất cẩn chìm đắm trong sông tình, trả giá nặng nề cho cú sẩy chân của mình.
Ngắm tháp Phật đối xứng nơi xa, không biết là vị cao tăng nào vì kiếp trước của mình xây tháp và thề nguyện ở đây. Chúng ta chẳng phải cao tăng, không vì tu hành, không vì truy vấn đời trước, lại tràn đầy hiếu kỳ và nhung nhớ đối với nơi này. Có lẽ chúng ta định sẵn chỉ là khách qua đường, không cho nổi mảnh đất này bất cứ hứa hẹn nào, nhưng cũng không cần dò hỏi nhân quả hợp tan. Nếu thật sự có thể tìm được nhân duyên kiếp trước, thế thì chuyến đi này không hối tiếc, xin Đức Phật phong ấn tôi ở đường cổ A Lạp xa xăm, vĩnh viễn không trở về.
●●●
(1) Cách tang: một loài hoa sinh trưởng trên cao nguyên, thuộc họ thúy cúc. “Cách tang” tiếng Tạng nghĩa là hạnh phúc, người Tạng xem đây là loài hoa thánh khiết tượng trưng cho tình yêu và may mắn.
Người về
- Thích Tánh Tuệ
Quẳng manh áo đã bạc màu phong sương
Tình tan dưới cội vô thường
Soi gương ... bỗng hiện một vầng trăng xưa
15 điều làm mới thế giới quan của bạn
- Nguồn: Đại Kỷ Nguyên VN
Cùng đọc và suy ngẫm …
2. Tôi tin rằng, một tình bạn chân chính sẽ tiếp tục gắn bó và sâu đậm dẫu cho có cách trở về không gian, cũng như tình yêu chân chính vậy.
3. Tôi tin rằng, chúng ta nên nói những lời yêu thương với những người mình yêu mến, vì đó có thể là lần cuối cùng ta gặp họ.
4. Tôi tin rằng, hoặc là bạn kiểm soát thái độ của mình, hoặc là nó kiểm soát bạn.
5. Tôi tin rằng, một mối quan hệ ướt át và đam mê thuở đầu sẽ dần phai nhạt. Nên tốt hơn là có thứ gì đó thay thế vị trí của nó, như tình nghĩa chẳng hạn.
6. Tôi tin rằng, đôi khi người bạn nghĩ rằng sẽ dẫm lên khi mình ngã ngựa, lại chính là người giúp nâng bạn dậy.
7. Tôi tin rằng, thỉnh thoảng tôi có quyền giận dữ, nhưng điều đó không cho tôi quyền trở nên độc ác.
8. Tôi tin rằng, anh hùng là những người làm những gì cần làm khi nó cần được làm, bất kể hậu quả cho bản thân thế nào.
9. Tôi tin rằng, không phải một người không yêu bạn theo cách của bạn có nghĩa là họ không yêu bạn bằng cả tấm lòng của họ.
10. Tôi tin rằng, tha thứ cho người khác bao nhiêu cũng không đủ, nhưng đôi khi bạn phải học cách tha thứ cho chính mình.
11. Tôi tin rằng, dù lòng bạn tan nát thế nào thì thế giới này vẫn không dừng lại vì sự đau buồn của bạn. Vì vậy hãy đứng dậy là bước tiếp thôi.
12. Tôi tin rằng, hoàn cảnh và lý lịch có thể ảnh hưởng đến việc nhận định chúng ta là ai, nhưng chúng ta lại chịu trách nhiệm cho việc chúng ta trở thành người như thế nào.
13. Tôi tin rằng, không phải hai người cãi nhau có nghĩa là họ không thương nhau. Và không phải bởi vì hai người không cãi nhau có nghĩa là họ quý mến nhau.
14. Tôi tin rằng, hai người có thể nhìn vào cùng một vấn đề và nhận định hoàn toàn khác nhau.
15. Tôi tin rằng, cuộc sống của bạn có thể chỉ thay đổi trong vài giờ bởi ai đó thậm chí còn không quen biết bạn.
Lá dỗ
- La Trung
Bờ thiên lương bỗng rực màu tri âm
Chợt thương mấy độ thân tằm
Nhả tơ vàng ủ hạt mầm nguyên sơ
Cái đêm lá dỗ đôi bờ
Ai đem thi phú ra hơ phận người
Mà nghe “tiếng ếch” bên đời
Vọng vào cát bụi cái lời thiên thâu
Cái đêm lá dỗ kinh cầu
Sắc màu tỉnh giấc cúi đầu chào câm
Ngẩn ngơ trước nụ duyên thầm
Lời yêu cõi trược lỗi lầm thâm căn
Cái đêm lá dỗ niềm trăng
Lạ gì giọng điệu ăn năn cõi người
Sáng soi cuối đất cùng trời
Một mình lơ lửng giữa vời vợi xa
Cái đêm lá dỗ ta bà
Mở lòng nghe tiếng khóc và cười đau
Giật mình nhìn trước thấy sau
Thôi thì mấy chuyện đồng thau ấy mà
Cái đêm lá dỗ chính ta
Ngày sinh lạc mất hiểu ra sự tình
Ôm câu lục bát đăng trình
Qua cơn hỉ nộ biết mình là ai
Đi để mà đi
- Trích: “ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG”, Chương I, Thích Nhất Hạnh
Trong bóng me im mát, vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc trong những chiếc am lá nhỏ dựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh.
Bụt hiện đang cư trú trong tu viện này cùng với khoảng gần bốn trăm vị khất sĩ, học trò của Người. Tu viện đông như thế mà vẫn thanh tịnh. Đất của tu viện rộng đến bốn chục mẫu. Những giống tre trồng ở tu viện đều là những giống tre đẹp khỏe, lấy từ khắp nơi trong vương quốc Magadha. Tu viện tọa lạc ở phía bắc thành Vương Xá. Tu viện này do chính vua Bimbisara hiến tặng cho Bụt, và cho giáo đoàn khất sĩ của Người cách đây bảy năm.
Svastika mở mắt. Chú mỉm cười. Hai bắp chân chú đã mỏi. Chú tháo chân ra khỏi tư thế hoa sen và bắt đầu xoa bóp cho máu chạy đều trong hai chân. Svastika năm nay mới hai mươi mốt tuổi. Chú chỉ mới được xuống tóc và thọ giới khất sĩ cách đây ba hôm. Thầy Sariputta, một trong những vi cao đệ của Bụt đã làm lễ truyền giới cho chú.
Svastika quê ở Uruvela gần Gaya, chú được làm quen với Bụt ngay từ hồi Bụt chưa thành đạo, cách đây đúng mười năm. Hồi đó chú mới mười một tuổi. Bụt thương chú lắm, cách đây nửa tháng, Bụt ghé lại làng Uruvela tìm chú. Bụt đưa chú về đây, và Bụt đã bảo thầy Sariputta truyền giới khất sĩ cho chú. Được chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt, Svastika sung sướng lắm. Chú nghe nói trong giáo đoàn của Người có rất nhiều vị khất sĩ xuất thân từ giới quyền quý, như thầy Nanda. Thầy Nanda cũng là hoàng thái tử, em ruột của Bụt. Lại có những vị hoàng thân khác như Bhaddiya, Devadatta, Anuruddha và Ananda. Chú chưa đựơc trực tiếp chắp tay chào hỏi các vị này, tuy chú đã được trông thấy họ.
Các vị này tuy đã đi tu, tuy đã khoác những chiếc áo cà sa bạc màu trên người nhưng dáng điệu vẫn còn mang tính cách thanh lịch và quý phái. Svastika có cảm tưởng là còn lâu lắm chú mới làm quen thân được với các vị. Bụt là một vị hoàng tử con vua thật đấy, nhưng Svastika không còn tìm thấy được sự ngăn cách nào giữa Người và chú. Có lẽ vì chú quen với Bụt lâu rồi và ngày xưa đã từng ngồi với Bụt hàng giờ hoặc trên bờ sông Neranjara hoặc dưới cội bồ đề im mát. Chú thuộc về hạng những người cùng đinh, những người thấp kém và nghèo khổ nhất ở xứ chú. Chú đã làm nghề giữ trâu trên mười năm nay.
Trong vòng nửa tháng vừa qua, chú đã chung đụng với những người tu thuộc giai cấp quý tộc. Những người này đều là khất sĩ và là học trò của Bụt. Tuy họ rất tử tế với chú, tuy họ đã nhìn chú với con mắt có cảm tình và nhiều khi đã mỉm cười với chú, nhưng chú vẫn chưa cảm thấy thật sự thoải mái với họ. Chắc là tại chú chưa quen. Có lẽ phải sống với họ trong nhiều tháng nữa chú mới thực sự cảm thấy đây là thế giới của chú.
Nghĩ tới đây, Svastika lại mỉm cười. Ở đây ngoài Bụt ra, chú còn cảm thấy thoải mới với một người khác nữa. Đó là chú Rahula, con trai Bụt, Rahula năm nay mười tám tuổi, Rahula được theo Bụt tám năm rồi và trên đường tu học, Rahula đã bước được những bước thật dài. Hiện Rahula là bạn thân nhất của chú. Chính Rahula đã chỉ cho chú phương pháp quán niệm hơi thở. Rahula giỏi giáo lý và hành trì hơn chú nhiều nhưng sở dĩ Rahula chưa được thọ giới khất sĩ vì tuổi Rahula chưa đến hai mươi. Muốn được thành khất sĩ, muốn được thọ giới bhikkhu, nghĩa là giới khất sĩ thì ít nhất phải là hai mươi tuổi.
Tháng trước khi Bụt ghé vào làng Uruvela tìm Svastika thì gặp lúc Svastika không có ở nhà, chú đang chăn trâu ngoài ruộng với đứa em trai tên là Rupka. Chỉ có hai đứa em gái của chú là ở nhà. Bala là chị Rupka năm nay lên mười sáu, còm Bhima là đứa em gái út năm nay mười hai tuổi. Bala nhận ra ngay được Bụt. Nó đòi ra bờ sông tìm anh, nhưng Bụt nói là để Bụt tự ý đi tìm. Rồi Người rủ Rahula cùng đi.
Hôm ấy đi với Bụt còn có hai mươi mấy vị khất sĩ nữa, ai cũng theo Bụt đi ra bờ sông. Quả nhiên khi ra tới bờ sông thì Bụt gặp Svastika. Lúc ấy trời đã chiều, và Svastika đang cùng Rupka tắm cho đàn trâu. Đàn trâu của Svastika chăn có tới tám con trâu lớn và một con nghé. Hai anh em Svastika cũng nhận ra Bụt ngay tức khắc. Svastika cùng Rupka vội chạy đến chắp tay búp sen cúi đầu chào Bụt.
- Các con đã lớn quá, Bụt nhìn hai anh em và mỉm cười một cách thân ái.
Svastika đứng ngây người ngắm Bụt. Vẫn khuôn mặt trầm tĩnh và hai con mắt sáng ngời ngày xưa. Vẫn nụ cười bao dung và hiền hậu đó. Vẫn những lọn tóc nhỏ xoắn hình ốc trên đầu. Bụt khoác một chiếc y màu chàm, do nhiều miếng vải may kết lại. Người vẫn còn đi chân đất như thuở nào, Svastika đưa mắt nhìn các vị xuất gia đứng sau lưng Bụt. Chú nhận thấy vị nào cũng đi chân trần như Bụt. Vị nào cũng quấn y màu chàm. Chú để ý thì thấy y của Bụt dài hơn các vị thầy khác độ một tấc. Đứng gần Bụt là một thầy rất trẻ, trạc tuổi Svastika. Vị thầy này cứ nhìn chú mà mỉm cười hoài. Bụt xoa đầu Svastika và Rupka. Người bảo Người đang trên đường về thành Vương Xá, tiện đường chiều này ghé lại thăm mấy anh em. Người bảo Người sẽ đứng trên bờ sông, đợi hai anh em xuống tắm trâu cho xong rồi sẽ cùng về nhà.
Trên đường về làng Bụt giới thiệu chú Rahula với hai anh em. Chú Rahula là vị xuất gia trẻ tuổi nhất hồi nãy trên bờ sông cứ đứng nhìn hai anh em Svastika mà cười hoài. Rahula thua Svastika ba tuổi nhưng cũng đã cao bắng Svastika. Rahula chưa thọ giới khất sĩ, nhưng đã thọ giới xuất gia làm s'ramanera, nghĩa là một vị sa di. Trông chú không khác gì những vị khất sĩ khác. Rahula đi giữa hai anh em. Chú trao chiếc bát cho Rupka giữ, và chú đặt tay trên vai hai người một cách thân ái. Chú đã từng được nghe Bụt nói chuyện về gia đình Svastika rồi, và chú có rất nhiều cảm tình với gia đình này. Cũng vì vậy nên hai anh em Svastika cảm nhận ngay được thân tình mà Rahula bộc lộ.
Về tới nhà, Bụt hỏi Svastika có muốn theo học với Bụt và gia nhập giáo đoàn khất sĩ không. Đây là một điều mà Svastika mong ước từ lâu. Mười năm trước, Svastika đã từng tỏ lộ ước mơ ấy với Bụt. Ngày ấy Bụt cũng đã hứa là sau này sẽ thừa nhận chú làm học trò xuất gia. Và bây giờ đây Người đã trở lại. Người đã không quên lời hứa. Các em của Svastika đã lớn cả rồi. Rupka em trai của Svastika đã có đủ khôn ngoan để một mình chăm sóc bầy trâu. Em gái lớn của Svastika là Bala cũng có đủ sức để làm một người nội trợ rồi.
Bụt ngồi ngoài sân, trên một chiếc ghế đẩu nhỏ. Tất cả các vị khất sĩ đều đứng sau lưng Người. Nhà của mấy anh em Svastika là một túp lều lụp xụp, vách đất, làm gì có đủ chỗ để mời tất cả mọi người vào. Rupka đi lùa trâu về nhà ông chủ trâu, cũng chưa về. Bala nói với Svastika: - Anh cứ đi theo Bụt và các thầy đi. Tụi em ở nhà cũng đủ sức lo. Thằng Rupka nó mạnh lắm, mạnh hơn cả anh hồi xưa. Anh đi chăn trâu nuôi tụi em đã hơn mười năm rồi, không lý bây giờ tụi em không đủ sức để tự lo cho chính mình sao.
Ngồi bên lu nước, con Bhima ngẩng lên nhìn chị, không nói năng gì, Svastika nhìn nó. Con bé năm nay đã lớn. Hồi Svastika mới được gặp Bụt. Bhima còn chưa đầy tuổi thôi nôi. Bala hồi đó mới sáu tuổi, đã phải vừa ẵm em vừa nấu cơm. Rupka hồi đó mới có ba tuổi, cả ngày vọc đất vọc cát chơi ngoài sân. Cha chúng vừa mất được sáu tháng thì mẹ chúng cũng bỏ chúng, ngay sau khi sanh em Bhima. Svastika mười một tuổi mà đã phải làm chủ gia đình. May mắn mà nó được chăn trâu cho gia đình ông Rambhul trong xóm. Nhờ chăn trâu giỏi cho nên nó kiếm đủ thức ăn mỗi ngày cho chính nó và cho các em. Nó còn kiếm được cách xin sữa trâu cho bé Bhima nữa.
Bhima có khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm cười. Nó ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:
- Anh đi với Bụt đi.
Nói xong Bhima quay mặt đi nơi khác, rơm rớm nước mắt. Bhima đã từng nghe anh nói về dự tính đi theo Bụt để tu học. Nó muốn anh nó được đi, nhưng nó lại buồn khi biết anh nó sắp đi. Vừa lúc ấy, Rupka về tới. Rupka nghe được câu nói của em. Nó hiểu tất cả. Nó nhìn Svastika, và nói:
- Anh cứ đi với Bụt đi.
Mọi người im lặng, Rupka nhìn Bụt nói:
- Bụt cho anh con được đi học với Bụt. Con ở nhà đủ sức lo cho chị và cho em con rồi. Và quay sang Svastika, Rupka nháy mắt:
- Nhưng thỉnh thoảng anh phải xin phép Bụt về thăm tụi em.
Thế là vấn đề của Svastika được giải quyết. Bụt đứng dậy xoa đầu Bhima và nói:
- Các con đi ăn cơm và chuẩn bị đi nhé. Sáng mai, ta sẽ trở lại đây đón Svastika cùng lên đường đi Rajagaha. Bây giờ ta và các thầy khất sĩ sẽ đi về cây Bồ Đề và sẽ nghỉ đêm trong ấy.
Ra tới cổng, Bụt quay lại, Người nhìn Svastika và nói:
- Ngày mai, con không cần đem theo gì hết. Chỉ cần áo mặc trên người thôi, con nhé.
Đêm đó, bốn anh em thức khuya. Svastika dặn dò các em đủ điều. Svastika ôm từng đứa em trong vòng tay, thật lâu. Bé Bhima khóc thút thít trong tay anh. Nhưng bé lại ngẩng lên nhìn anh và mỉm cười. Nó không muốn anh nó buồn. Ánh sáng chiếc đền dầu tuy tù mù nhưng vẫn soi rõ được nụ cười của bé. Tối hôm đó không ai nghĩ đến chuyện ăn cơm tối cả, dù Bala đã nấu cơm sẵn cho bốn anh em từ hồi xế chiều.
Sáng tinh sương hôm sau, khi Svastika vừa dậy thì đã thấy chị Sujata đến thăm. Chị đến để chào từ giã Svastika, bởi chiều hôm qua trên đường bờ sông chị đã được gặp Bụt và đã được Bụt báo tin cho biết là Svastika sẽ lên đường theo Bụt. Chị Sujata là con gái của ông hương cả. Chị lớn hơn Svastika hai tuổi, ngày xưa, chị cũng đã được gặp Bụt hồi người chưa thành đạo, và chị cũng từng giúp mấy anh em Svastika nhiều lần trong những cơn ốm đau hoạn nạn.
Sujata đem đến tặng Svastika một lọ dầu, nói là để đánh gió những khi bị nhức đầu. Hai chị em mới nói được vài ba câu chuyện thì Bụt và các thầy tới. Các em của Svastika cũng đã dậy và sửa soạn để tiễn đưa anh. Chú Rahula đến ân cần hỏi thăm từng đứa em của Svastika. Chú hứa trong tương lai nếu có dịp đi ngang qua vùng Gaya thế nào chú cũng sẽ ghé thăm mấy đứa. Chị Sujata và ba đứa em của Svastika đưa Bụt và đoàn khất sĩ ra tới bờ sông. Đoàn người theo con đường ven sông để đi về phía Đông Bắc. Bốn chị em chắp tay chào Bụt, chào các thầy, chào chú Rahula và chào Svastika. Svastika thấy lòng nao nao. Đây là lần đầu tiên chú Svastika rời bỏ quê hương. Nghe nói phải đi đến mười hôm mới tới được thành Rajagaha. Bụt và các thầy khất sĩ đi thật khoan thai. Đi như thế này thì lâu đến là phải. Nhưng Svastika cũng chậm bước lại. Bước chân Svastika cũng trở nên khoan thai. Lòng Svastika bây giờ bình yên hơn. Svastika đã một lòng quay về nương tựa Bụt, nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Svastika đã có đường đi của mình.
Chú quay lại nhìn một lần chót. Bóng của chị Sujata và các em đã khuất sau rừng cây. Svastika có cảm tưởng là Bụt đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Đoàn khất sĩ đi theo nguời cũng vậy. Không ai tỏ vẻ nóng ruột hoặc hấp tấp muốn cho chóng tới Rajagaha. Mọi người bước những bước vững chắc, chậm rãi và thanh thản. Đi như là đi chơi. Không ai tỏ vẻ mỏi mệt. Vậy mà mỗi ngày đoàn người đi được rất xa. Cứ vào khoảng mười giờ sáng thì đoàn khất sĩ lại ghé vào một thôn xóm bên đường để khất thực. Họ đi thành một hàng. Bụt đi đầu, tay phải Người nâng bình bát, Svastika đi chót, ngay sau chú Rahula. Đoàn người trang nghiêm vừa đi vừa theo dõi hơi thở, mắt nhìn phía trước. Thỉnh thoảng đoàn người dừng lại. Có người trong xóm đem thức ăn ra cúng dường. Họ đứng nghiêng mình đổ thức ăn vào trong bình bát của các vị khất sĩ. Có người quỳ xuống bên đường để dâng cúng thức ăn. Các vị khất sĩ sau khi nhận thức ăn thầm lặng hộ niệm cho người thí chủ.
Đoàn khất sĩ sau khi khất thực, từ từ đi ra khỏi thôn xóm và tìm tới dưới một khu rừng hay dưới một bãi cỏ. Họ ngồi xuống thành vòng tròn và chia sẻ thức ăn đã xin được cho những chiếc bình bát chưa có gì. Chú Rahula từ bờ sông đi lên mang theo một bình nước đầy. Chú cung kính mang bình nước tới trước mặt Bụt. Bụt chắp tay lại thành một búp sen. Chú đổ nước trên tay Bụt để Bụt rửa tay. Rồi chú đến trước các vị khất sĩ, cung kính đổ nước trên tay từng vị. Sau cùng chú đến đổ nước cho Svastika rửa tay. Sau đó mọi người chắp tay lại để quán niệm và chú nguyện. Rồi mọi người nâng bát lên ăn. Bữa ăn trang nghiêm và im lặng. Svastika chưa có bát. Chú Rahula đã chia thức ăn cho Svastika trên một tàu lá chuối tươi.
Thọ trai xong, đoàn khất sĩ tìm nơi nghỉ trưa. Có vị tiếp tục đi thiền hành. Có vị ngồi thiền tọa dưới gốc cây. Khi nắng bắt đầu dịu xuống, mọi người lại lên đường. Đoàn người đi cho đến khi bóng chiều ngã thì mới tìm nơi tá túc. Chỗ nghỉ đêm tốt nhất của họ là một khu rừng thưa. Mọi người đều có mang theo tọa cụ. Họ ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen để thiền tọa dưới một gốc cây. Có vị thiền tọa đến quá nửa đêm mới ngả lưng xuống nghỉ trên áo cà sa xếp tư của mình. Các vị khất sĩ thường mang theo mình một chiếc y khác. Họ dùng y này để đắp khi trời trở lạnh. Svastika cũng bắt chước mọi người thiền tọa, và chú cũng học cách ngả lưng ngủ dưới một gốc cây, đầu chú gối trên một chiếc rễ cây.
Buổi sáng thức dậy, Svastika thấy Bụt đã dậy từ hồi nào và đang an nhiên ngồi tĩnh tọa. Dáng điệu của người trầm tĩnh và an lạc lạ thường. Nhìn quanh, Svastika thấy nhiều vị khất sĩ cũng đã dậy và đang thực tập thiền quán. Khi trời đã sáng rõ, mọi người lại xếp y, cầm bát và chuẩn bị lên đường. Ngày đi đêm nghỉ, như thế được mười hôm thì đoàn người tới thủ đô Vương Xá. Đây là lần đầu tiên trong đời Svastika thấy nhà cửa phố xá đông đúc như vậy. Xe ngựa rộn rịp. Tiếng cười tiếng nói vang vang. Tuy nhiên, đoàn khất sĩ vẫn đi khoan thai, nghiêm chỉnh và tịnh lạc như đi trên một bờ sông hoặc một con đường giữa hai cánh đồng lúa nơi thôn dã. Nhiều khách bộ hành dừng lại để ngắm đoàn khất sĩ. Có người nhận ra được Bụt. Họ vội sụp xuống lạy một cách kính cẩn. Đoàn khất sĩ vẫn an nhiên đi. Rồi đoàn khất sĩ về tới tu viện Trúc Lâm.
Tin Bụt về tới Trúc Lâm phút chốc đã được truyền đi khắp tu viện. Chỉ trong chốc lát, gần bốn trăm vị khất sĩ cư trú tại Trúc Lâm đã tề tựu lại tịnh xá của người để thăm hỏi. Bụt không nói chuyện nhiều, người chỉ hỏi thăm mọi người về hiện trạng tu học và hành đạo tại Trúc Lâm và tại thành Vương Xá. Rồi người giao Svastika cho thầy Sariputta. Thầy Sariputta hiện là vị giáo thọ của chú Rahula. Thầy cũng là vị giám viện của tu viện Trúc Lâm. Hiện thầy đang hướng dẫn việc tu học cho gần năm trăm vị khất sĩ tân học, nghĩa là những vị khất sĩ trẻ mới được xuất gia trong vòng vài ba năm. Người đứng đầu tu viện là đại đức Kondanna.
Chú Rahula có phận sự chỉ dẫn cho Svastika về thể thức sinh hoạt hàng ngày trong tu viện: cách đi, cách ngồi, cách đứng, cách chào hỏi, cách thiền hành, cách thiền tọa, và cách quán niệm hơi thở. Rahula cũng chỉ cho Svastika cách khoác y, mang bát, cách khất thực, chú nguyện rửa bát. Nội trong ba hôm, Svastika theo sát chú Rahula để học tất cả những thứ đó. Rahula chỉ dẫn rất tận tình, nhưng Svastika biết rằng để có thể làm được những việc này một cách ung dung và tự nhiên như chú Rahula, chú phải thực tập trong nhiều năm. Cuối cùng thầy Xá Lợi Phất gọi Svastika vào thảo am riêng của thầy. Thầy bảo Svastika ngồi xuống trên một chiếc ghế thấp bên cạnh thầy và bắt đầu giảng cho Svastika về giới luật của người khất sĩ.
Khất sĩ là người từ bỏ đời sống gia đình, nương vào Bụt như người đưa đường chỉ lối cho mình trong cuộc đời, nương vào Pháp như con đường đưa tới sự thành tựu đạo nghiệp giải thoát, và nương vào Tăng như đoàn thể của những người cùng đi trên một con đường chí hướng. Người khất sĩ phải sống đời đạm bạc và khiêm nhường. Đi khất thực là để thực hiện tinh thần ấy mà cũng là để có cơ hội tiếp xúc với dân chúng và hướng dẫn mọi người vào con đường của hiểu biết và của thương yêu mà Bụt chỉ dạy.
Mười năm về trước dưới cây Bồ Đề, Svastika và các bạn đã từng được nghe Bụt nói về đạo giải thoát như con đường của hiểu biết và thương yêu, nên bây giờ chú hiểu rất chóng những điều mà thầy Sariputta đang giảng dạy. Nét mặt của thầy nghiêm trang, nhưng hai mắt và nụ cười của thầy bộc lộ rất nhiều từ ái. Thầy nói sáng ngày mai Svastika sẽ được làm lễ thế phát xuất gia để được gia nhập vào giáo đoàn khất sĩ. Và thầy dạy cho Svastika học thuộc những câu nói và chú phải nói trong lễ thọ giới.
Trong lễ thọ giới của Svastika, chính thầy Sariputta là giới sư truyền giới. Chỉ có khoảng trên hai mươi vị khất sĩ tham dự. Bụt cũng đến tham dự lễ truyền giới này. Rahula cũng có mặt. Svastika rất sung sướng. Thầy Sariputta làm lễ xuống tóc cho Svastika. Tay cầm dao cạo, thầy im lặng một lát để chú nguyện rồi đưa dao cạo một vài đường tóc trên đầu Svastika. Sau đó Rahula nhận trách nhiệm hoàn tất việc cạo đầu cho vị giới tử mới. Svastika được thầy Sariputta trao cho ba chiếc y, một chiếc bình bát và một dụng cụ lọc nước. Đã học cách quấn y với Rahula rồi nên chú mặc y vào người một cách tự nhiên và mau chóng. Chú sụp lạy trước Bụt và đoàn thể các vị khất sĩ để biểu lộ niềm quý kính và lòng biết ơn của chú.
Ngay sáng ngày hôm ấy Svastika được tập sự đi khất thực. Chú đã là một bhikkhu, quấn y, mang bát, chú gia nhập vào đoàn của vị y chỉ sư của mình, tức là thầy Sariputta. Rahula là thị giả của thầy Sariputta nên cũng có trong đoàn của chú. Mấy trăm vị khất sĩ trong tu viện Trúc Lâm chia nhau thành nhiều đoàn, mỗi đoàn đi khất thực trong một con đường khác nhau của thành Vương Xá. Hôm ấy Bụt không đi trong đoàn của Svastika.
Vừa bước ra khỏi tu viện, Svastika thấy ngay rằng đi hóa trai là một phương thức hành đạo. Lập tức chú trở về theo dõi hơi thở. Chú bước từng bước đoan nghiêm, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước. Chú Rahula hiện đi ngay phía sau chú. Tuy Svastika có ý thức rằng mình là một vị khất sĩ thực thụ, chú cũng biết rất rõ là kinh nghiệm tu học của chú còn kém xa kinh nghiệm tu học của Rahula. Và chú thường nguyện nuôi dưỡng đức khiêm cung nơi chú.
Bụt hiện đang cư trú trong tu viện này cùng với khoảng gần bốn trăm vị khất sĩ, học trò của Người. Tu viện đông như thế mà vẫn thanh tịnh. Đất của tu viện rộng đến bốn chục mẫu. Những giống tre trồng ở tu viện đều là những giống tre đẹp khỏe, lấy từ khắp nơi trong vương quốc Magadha. Tu viện tọa lạc ở phía bắc thành Vương Xá. Tu viện này do chính vua Bimbisara hiến tặng cho Bụt, và cho giáo đoàn khất sĩ của Người cách đây bảy năm.
Svastika mở mắt. Chú mỉm cười. Hai bắp chân chú đã mỏi. Chú tháo chân ra khỏi tư thế hoa sen và bắt đầu xoa bóp cho máu chạy đều trong hai chân. Svastika năm nay mới hai mươi mốt tuổi. Chú chỉ mới được xuống tóc và thọ giới khất sĩ cách đây ba hôm. Thầy Sariputta, một trong những vi cao đệ của Bụt đã làm lễ truyền giới cho chú.
Svastika quê ở Uruvela gần Gaya, chú được làm quen với Bụt ngay từ hồi Bụt chưa thành đạo, cách đây đúng mười năm. Hồi đó chú mới mười một tuổi. Bụt thương chú lắm, cách đây nửa tháng, Bụt ghé lại làng Uruvela tìm chú. Bụt đưa chú về đây, và Bụt đã bảo thầy Sariputta truyền giới khất sĩ cho chú. Được chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt, Svastika sung sướng lắm. Chú nghe nói trong giáo đoàn của Người có rất nhiều vị khất sĩ xuất thân từ giới quyền quý, như thầy Nanda. Thầy Nanda cũng là hoàng thái tử, em ruột của Bụt. Lại có những vị hoàng thân khác như Bhaddiya, Devadatta, Anuruddha và Ananda. Chú chưa đựơc trực tiếp chắp tay chào hỏi các vị này, tuy chú đã được trông thấy họ.
Các vị này tuy đã đi tu, tuy đã khoác những chiếc áo cà sa bạc màu trên người nhưng dáng điệu vẫn còn mang tính cách thanh lịch và quý phái. Svastika có cảm tưởng là còn lâu lắm chú mới làm quen thân được với các vị. Bụt là một vị hoàng tử con vua thật đấy, nhưng Svastika không còn tìm thấy được sự ngăn cách nào giữa Người và chú. Có lẽ vì chú quen với Bụt lâu rồi và ngày xưa đã từng ngồi với Bụt hàng giờ hoặc trên bờ sông Neranjara hoặc dưới cội bồ đề im mát. Chú thuộc về hạng những người cùng đinh, những người thấp kém và nghèo khổ nhất ở xứ chú. Chú đã làm nghề giữ trâu trên mười năm nay.
Trong vòng nửa tháng vừa qua, chú đã chung đụng với những người tu thuộc giai cấp quý tộc. Những người này đều là khất sĩ và là học trò của Bụt. Tuy họ rất tử tế với chú, tuy họ đã nhìn chú với con mắt có cảm tình và nhiều khi đã mỉm cười với chú, nhưng chú vẫn chưa cảm thấy thật sự thoải mái với họ. Chắc là tại chú chưa quen. Có lẽ phải sống với họ trong nhiều tháng nữa chú mới thực sự cảm thấy đây là thế giới của chú.
Nghĩ tới đây, Svastika lại mỉm cười. Ở đây ngoài Bụt ra, chú còn cảm thấy thoải mới với một người khác nữa. Đó là chú Rahula, con trai Bụt, Rahula năm nay mười tám tuổi, Rahula được theo Bụt tám năm rồi và trên đường tu học, Rahula đã bước được những bước thật dài. Hiện Rahula là bạn thân nhất của chú. Chính Rahula đã chỉ cho chú phương pháp quán niệm hơi thở. Rahula giỏi giáo lý và hành trì hơn chú nhiều nhưng sở dĩ Rahula chưa được thọ giới khất sĩ vì tuổi Rahula chưa đến hai mươi. Muốn được thành khất sĩ, muốn được thọ giới bhikkhu, nghĩa là giới khất sĩ thì ít nhất phải là hai mươi tuổi.
Tháng trước khi Bụt ghé vào làng Uruvela tìm Svastika thì gặp lúc Svastika không có ở nhà, chú đang chăn trâu ngoài ruộng với đứa em trai tên là Rupka. Chỉ có hai đứa em gái của chú là ở nhà. Bala là chị Rupka năm nay lên mười sáu, còm Bhima là đứa em gái út năm nay mười hai tuổi. Bala nhận ra ngay được Bụt. Nó đòi ra bờ sông tìm anh, nhưng Bụt nói là để Bụt tự ý đi tìm. Rồi Người rủ Rahula cùng đi.
Hôm ấy đi với Bụt còn có hai mươi mấy vị khất sĩ nữa, ai cũng theo Bụt đi ra bờ sông. Quả nhiên khi ra tới bờ sông thì Bụt gặp Svastika. Lúc ấy trời đã chiều, và Svastika đang cùng Rupka tắm cho đàn trâu. Đàn trâu của Svastika chăn có tới tám con trâu lớn và một con nghé. Hai anh em Svastika cũng nhận ra Bụt ngay tức khắc. Svastika cùng Rupka vội chạy đến chắp tay búp sen cúi đầu chào Bụt.
- Các con đã lớn quá, Bụt nhìn hai anh em và mỉm cười một cách thân ái.
Svastika đứng ngây người ngắm Bụt. Vẫn khuôn mặt trầm tĩnh và hai con mắt sáng ngời ngày xưa. Vẫn nụ cười bao dung và hiền hậu đó. Vẫn những lọn tóc nhỏ xoắn hình ốc trên đầu. Bụt khoác một chiếc y màu chàm, do nhiều miếng vải may kết lại. Người vẫn còn đi chân đất như thuở nào, Svastika đưa mắt nhìn các vị xuất gia đứng sau lưng Bụt. Chú nhận thấy vị nào cũng đi chân trần như Bụt. Vị nào cũng quấn y màu chàm. Chú để ý thì thấy y của Bụt dài hơn các vị thầy khác độ một tấc. Đứng gần Bụt là một thầy rất trẻ, trạc tuổi Svastika. Vị thầy này cứ nhìn chú mà mỉm cười hoài. Bụt xoa đầu Svastika và Rupka. Người bảo Người đang trên đường về thành Vương Xá, tiện đường chiều này ghé lại thăm mấy anh em. Người bảo Người sẽ đứng trên bờ sông, đợi hai anh em xuống tắm trâu cho xong rồi sẽ cùng về nhà.
Trên đường về làng Bụt giới thiệu chú Rahula với hai anh em. Chú Rahula là vị xuất gia trẻ tuổi nhất hồi nãy trên bờ sông cứ đứng nhìn hai anh em Svastika mà cười hoài. Rahula thua Svastika ba tuổi nhưng cũng đã cao bắng Svastika. Rahula chưa thọ giới khất sĩ, nhưng đã thọ giới xuất gia làm s'ramanera, nghĩa là một vị sa di. Trông chú không khác gì những vị khất sĩ khác. Rahula đi giữa hai anh em. Chú trao chiếc bát cho Rupka giữ, và chú đặt tay trên vai hai người một cách thân ái. Chú đã từng được nghe Bụt nói chuyện về gia đình Svastika rồi, và chú có rất nhiều cảm tình với gia đình này. Cũng vì vậy nên hai anh em Svastika cảm nhận ngay được thân tình mà Rahula bộc lộ.
Về tới nhà, Bụt hỏi Svastika có muốn theo học với Bụt và gia nhập giáo đoàn khất sĩ không. Đây là một điều mà Svastika mong ước từ lâu. Mười năm trước, Svastika đã từng tỏ lộ ước mơ ấy với Bụt. Ngày ấy Bụt cũng đã hứa là sau này sẽ thừa nhận chú làm học trò xuất gia. Và bây giờ đây Người đã trở lại. Người đã không quên lời hứa. Các em của Svastika đã lớn cả rồi. Rupka em trai của Svastika đã có đủ khôn ngoan để một mình chăm sóc bầy trâu. Em gái lớn của Svastika là Bala cũng có đủ sức để làm một người nội trợ rồi.
Bụt ngồi ngoài sân, trên một chiếc ghế đẩu nhỏ. Tất cả các vị khất sĩ đều đứng sau lưng Người. Nhà của mấy anh em Svastika là một túp lều lụp xụp, vách đất, làm gì có đủ chỗ để mời tất cả mọi người vào. Rupka đi lùa trâu về nhà ông chủ trâu, cũng chưa về. Bala nói với Svastika: - Anh cứ đi theo Bụt và các thầy đi. Tụi em ở nhà cũng đủ sức lo. Thằng Rupka nó mạnh lắm, mạnh hơn cả anh hồi xưa. Anh đi chăn trâu nuôi tụi em đã hơn mười năm rồi, không lý bây giờ tụi em không đủ sức để tự lo cho chính mình sao.
Ngồi bên lu nước, con Bhima ngẩng lên nhìn chị, không nói năng gì, Svastika nhìn nó. Con bé năm nay đã lớn. Hồi Svastika mới được gặp Bụt. Bhima còn chưa đầy tuổi thôi nôi. Bala hồi đó mới sáu tuổi, đã phải vừa ẵm em vừa nấu cơm. Rupka hồi đó mới có ba tuổi, cả ngày vọc đất vọc cát chơi ngoài sân. Cha chúng vừa mất được sáu tháng thì mẹ chúng cũng bỏ chúng, ngay sau khi sanh em Bhima. Svastika mười một tuổi mà đã phải làm chủ gia đình. May mắn mà nó được chăn trâu cho gia đình ông Rambhul trong xóm. Nhờ chăn trâu giỏi cho nên nó kiếm đủ thức ăn mỗi ngày cho chính nó và cho các em. Nó còn kiếm được cách xin sữa trâu cho bé Bhima nữa.
Bhima có khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm cười. Nó ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:
- Anh đi với Bụt đi.
Nói xong Bhima quay mặt đi nơi khác, rơm rớm nước mắt. Bhima đã từng nghe anh nói về dự tính đi theo Bụt để tu học. Nó muốn anh nó được đi, nhưng nó lại buồn khi biết anh nó sắp đi. Vừa lúc ấy, Rupka về tới. Rupka nghe được câu nói của em. Nó hiểu tất cả. Nó nhìn Svastika, và nói:
- Anh cứ đi với Bụt đi.
Mọi người im lặng, Rupka nhìn Bụt nói:
- Bụt cho anh con được đi học với Bụt. Con ở nhà đủ sức lo cho chị và cho em con rồi. Và quay sang Svastika, Rupka nháy mắt:
- Nhưng thỉnh thoảng anh phải xin phép Bụt về thăm tụi em.
Thế là vấn đề của Svastika được giải quyết. Bụt đứng dậy xoa đầu Bhima và nói:
- Các con đi ăn cơm và chuẩn bị đi nhé. Sáng mai, ta sẽ trở lại đây đón Svastika cùng lên đường đi Rajagaha. Bây giờ ta và các thầy khất sĩ sẽ đi về cây Bồ Đề và sẽ nghỉ đêm trong ấy.
Ra tới cổng, Bụt quay lại, Người nhìn Svastika và nói:
- Ngày mai, con không cần đem theo gì hết. Chỉ cần áo mặc trên người thôi, con nhé.
Đêm đó, bốn anh em thức khuya. Svastika dặn dò các em đủ điều. Svastika ôm từng đứa em trong vòng tay, thật lâu. Bé Bhima khóc thút thít trong tay anh. Nhưng bé lại ngẩng lên nhìn anh và mỉm cười. Nó không muốn anh nó buồn. Ánh sáng chiếc đền dầu tuy tù mù nhưng vẫn soi rõ được nụ cười của bé. Tối hôm đó không ai nghĩ đến chuyện ăn cơm tối cả, dù Bala đã nấu cơm sẵn cho bốn anh em từ hồi xế chiều.
Sáng tinh sương hôm sau, khi Svastika vừa dậy thì đã thấy chị Sujata đến thăm. Chị đến để chào từ giã Svastika, bởi chiều hôm qua trên đường bờ sông chị đã được gặp Bụt và đã được Bụt báo tin cho biết là Svastika sẽ lên đường theo Bụt. Chị Sujata là con gái của ông hương cả. Chị lớn hơn Svastika hai tuổi, ngày xưa, chị cũng đã được gặp Bụt hồi người chưa thành đạo, và chị cũng từng giúp mấy anh em Svastika nhiều lần trong những cơn ốm đau hoạn nạn.
Sujata đem đến tặng Svastika một lọ dầu, nói là để đánh gió những khi bị nhức đầu. Hai chị em mới nói được vài ba câu chuyện thì Bụt và các thầy tới. Các em của Svastika cũng đã dậy và sửa soạn để tiễn đưa anh. Chú Rahula đến ân cần hỏi thăm từng đứa em của Svastika. Chú hứa trong tương lai nếu có dịp đi ngang qua vùng Gaya thế nào chú cũng sẽ ghé thăm mấy đứa. Chị Sujata và ba đứa em của Svastika đưa Bụt và đoàn khất sĩ ra tới bờ sông. Đoàn người theo con đường ven sông để đi về phía Đông Bắc. Bốn chị em chắp tay chào Bụt, chào các thầy, chào chú Rahula và chào Svastika. Svastika thấy lòng nao nao. Đây là lần đầu tiên chú Svastika rời bỏ quê hương. Nghe nói phải đi đến mười hôm mới tới được thành Rajagaha. Bụt và các thầy khất sĩ đi thật khoan thai. Đi như thế này thì lâu đến là phải. Nhưng Svastika cũng chậm bước lại. Bước chân Svastika cũng trở nên khoan thai. Lòng Svastika bây giờ bình yên hơn. Svastika đã một lòng quay về nương tựa Bụt, nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Svastika đã có đường đi của mình.
Chú quay lại nhìn một lần chót. Bóng của chị Sujata và các em đã khuất sau rừng cây. Svastika có cảm tưởng là Bụt đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Đoàn khất sĩ đi theo nguời cũng vậy. Không ai tỏ vẻ nóng ruột hoặc hấp tấp muốn cho chóng tới Rajagaha. Mọi người bước những bước vững chắc, chậm rãi và thanh thản. Đi như là đi chơi. Không ai tỏ vẻ mỏi mệt. Vậy mà mỗi ngày đoàn người đi được rất xa. Cứ vào khoảng mười giờ sáng thì đoàn khất sĩ lại ghé vào một thôn xóm bên đường để khất thực. Họ đi thành một hàng. Bụt đi đầu, tay phải Người nâng bình bát, Svastika đi chót, ngay sau chú Rahula. Đoàn người trang nghiêm vừa đi vừa theo dõi hơi thở, mắt nhìn phía trước. Thỉnh thoảng đoàn người dừng lại. Có người trong xóm đem thức ăn ra cúng dường. Họ đứng nghiêng mình đổ thức ăn vào trong bình bát của các vị khất sĩ. Có người quỳ xuống bên đường để dâng cúng thức ăn. Các vị khất sĩ sau khi nhận thức ăn thầm lặng hộ niệm cho người thí chủ.
Đoàn khất sĩ sau khi khất thực, từ từ đi ra khỏi thôn xóm và tìm tới dưới một khu rừng hay dưới một bãi cỏ. Họ ngồi xuống thành vòng tròn và chia sẻ thức ăn đã xin được cho những chiếc bình bát chưa có gì. Chú Rahula từ bờ sông đi lên mang theo một bình nước đầy. Chú cung kính mang bình nước tới trước mặt Bụt. Bụt chắp tay lại thành một búp sen. Chú đổ nước trên tay Bụt để Bụt rửa tay. Rồi chú đến trước các vị khất sĩ, cung kính đổ nước trên tay từng vị. Sau cùng chú đến đổ nước cho Svastika rửa tay. Sau đó mọi người chắp tay lại để quán niệm và chú nguyện. Rồi mọi người nâng bát lên ăn. Bữa ăn trang nghiêm và im lặng. Svastika chưa có bát. Chú Rahula đã chia thức ăn cho Svastika trên một tàu lá chuối tươi.
Thọ trai xong, đoàn khất sĩ tìm nơi nghỉ trưa. Có vị tiếp tục đi thiền hành. Có vị ngồi thiền tọa dưới gốc cây. Khi nắng bắt đầu dịu xuống, mọi người lại lên đường. Đoàn người đi cho đến khi bóng chiều ngã thì mới tìm nơi tá túc. Chỗ nghỉ đêm tốt nhất của họ là một khu rừng thưa. Mọi người đều có mang theo tọa cụ. Họ ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen để thiền tọa dưới một gốc cây. Có vị thiền tọa đến quá nửa đêm mới ngả lưng xuống nghỉ trên áo cà sa xếp tư của mình. Các vị khất sĩ thường mang theo mình một chiếc y khác. Họ dùng y này để đắp khi trời trở lạnh. Svastika cũng bắt chước mọi người thiền tọa, và chú cũng học cách ngả lưng ngủ dưới một gốc cây, đầu chú gối trên một chiếc rễ cây.
Buổi sáng thức dậy, Svastika thấy Bụt đã dậy từ hồi nào và đang an nhiên ngồi tĩnh tọa. Dáng điệu của người trầm tĩnh và an lạc lạ thường. Nhìn quanh, Svastika thấy nhiều vị khất sĩ cũng đã dậy và đang thực tập thiền quán. Khi trời đã sáng rõ, mọi người lại xếp y, cầm bát và chuẩn bị lên đường. Ngày đi đêm nghỉ, như thế được mười hôm thì đoàn người tới thủ đô Vương Xá. Đây là lần đầu tiên trong đời Svastika thấy nhà cửa phố xá đông đúc như vậy. Xe ngựa rộn rịp. Tiếng cười tiếng nói vang vang. Tuy nhiên, đoàn khất sĩ vẫn đi khoan thai, nghiêm chỉnh và tịnh lạc như đi trên một bờ sông hoặc một con đường giữa hai cánh đồng lúa nơi thôn dã. Nhiều khách bộ hành dừng lại để ngắm đoàn khất sĩ. Có người nhận ra được Bụt. Họ vội sụp xuống lạy một cách kính cẩn. Đoàn khất sĩ vẫn an nhiên đi. Rồi đoàn khất sĩ về tới tu viện Trúc Lâm.
Tin Bụt về tới Trúc Lâm phút chốc đã được truyền đi khắp tu viện. Chỉ trong chốc lát, gần bốn trăm vị khất sĩ cư trú tại Trúc Lâm đã tề tựu lại tịnh xá của người để thăm hỏi. Bụt không nói chuyện nhiều, người chỉ hỏi thăm mọi người về hiện trạng tu học và hành đạo tại Trúc Lâm và tại thành Vương Xá. Rồi người giao Svastika cho thầy Sariputta. Thầy Sariputta hiện là vị giáo thọ của chú Rahula. Thầy cũng là vị giám viện của tu viện Trúc Lâm. Hiện thầy đang hướng dẫn việc tu học cho gần năm trăm vị khất sĩ tân học, nghĩa là những vị khất sĩ trẻ mới được xuất gia trong vòng vài ba năm. Người đứng đầu tu viện là đại đức Kondanna.
Chú Rahula có phận sự chỉ dẫn cho Svastika về thể thức sinh hoạt hàng ngày trong tu viện: cách đi, cách ngồi, cách đứng, cách chào hỏi, cách thiền hành, cách thiền tọa, và cách quán niệm hơi thở. Rahula cũng chỉ cho Svastika cách khoác y, mang bát, cách khất thực, chú nguyện rửa bát. Nội trong ba hôm, Svastika theo sát chú Rahula để học tất cả những thứ đó. Rahula chỉ dẫn rất tận tình, nhưng Svastika biết rằng để có thể làm được những việc này một cách ung dung và tự nhiên như chú Rahula, chú phải thực tập trong nhiều năm. Cuối cùng thầy Xá Lợi Phất gọi Svastika vào thảo am riêng của thầy. Thầy bảo Svastika ngồi xuống trên một chiếc ghế thấp bên cạnh thầy và bắt đầu giảng cho Svastika về giới luật của người khất sĩ.
Khất sĩ là người từ bỏ đời sống gia đình, nương vào Bụt như người đưa đường chỉ lối cho mình trong cuộc đời, nương vào Pháp như con đường đưa tới sự thành tựu đạo nghiệp giải thoát, và nương vào Tăng như đoàn thể của những người cùng đi trên một con đường chí hướng. Người khất sĩ phải sống đời đạm bạc và khiêm nhường. Đi khất thực là để thực hiện tinh thần ấy mà cũng là để có cơ hội tiếp xúc với dân chúng và hướng dẫn mọi người vào con đường của hiểu biết và của thương yêu mà Bụt chỉ dạy.
Mười năm về trước dưới cây Bồ Đề, Svastika và các bạn đã từng được nghe Bụt nói về đạo giải thoát như con đường của hiểu biết và thương yêu, nên bây giờ chú hiểu rất chóng những điều mà thầy Sariputta đang giảng dạy. Nét mặt của thầy nghiêm trang, nhưng hai mắt và nụ cười của thầy bộc lộ rất nhiều từ ái. Thầy nói sáng ngày mai Svastika sẽ được làm lễ thế phát xuất gia để được gia nhập vào giáo đoàn khất sĩ. Và thầy dạy cho Svastika học thuộc những câu nói và chú phải nói trong lễ thọ giới.
Trong lễ thọ giới của Svastika, chính thầy Sariputta là giới sư truyền giới. Chỉ có khoảng trên hai mươi vị khất sĩ tham dự. Bụt cũng đến tham dự lễ truyền giới này. Rahula cũng có mặt. Svastika rất sung sướng. Thầy Sariputta làm lễ xuống tóc cho Svastika. Tay cầm dao cạo, thầy im lặng một lát để chú nguyện rồi đưa dao cạo một vài đường tóc trên đầu Svastika. Sau đó Rahula nhận trách nhiệm hoàn tất việc cạo đầu cho vị giới tử mới. Svastika được thầy Sariputta trao cho ba chiếc y, một chiếc bình bát và một dụng cụ lọc nước. Đã học cách quấn y với Rahula rồi nên chú mặc y vào người một cách tự nhiên và mau chóng. Chú sụp lạy trước Bụt và đoàn thể các vị khất sĩ để biểu lộ niềm quý kính và lòng biết ơn của chú.
Ngay sáng ngày hôm ấy Svastika được tập sự đi khất thực. Chú đã là một bhikkhu, quấn y, mang bát, chú gia nhập vào đoàn của vị y chỉ sư của mình, tức là thầy Sariputta. Rahula là thị giả của thầy Sariputta nên cũng có trong đoàn của chú. Mấy trăm vị khất sĩ trong tu viện Trúc Lâm chia nhau thành nhiều đoàn, mỗi đoàn đi khất thực trong một con đường khác nhau của thành Vương Xá. Hôm ấy Bụt không đi trong đoàn của Svastika.
Vừa bước ra khỏi tu viện, Svastika thấy ngay rằng đi hóa trai là một phương thức hành đạo. Lập tức chú trở về theo dõi hơi thở. Chú bước từng bước đoan nghiêm, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước. Chú Rahula hiện đi ngay phía sau chú. Tuy Svastika có ý thức rằng mình là một vị khất sĩ thực thụ, chú cũng biết rất rõ là kinh nghiệm tu học của chú còn kém xa kinh nghiệm tu học của Rahula. Và chú thường nguyện nuôi dưỡng đức khiêm cung nơi chú.
Danh ngôn (45)
- Ngạn ngữ Pháp
Mộng
- Sưu tầm
Thực hư cũng là mộng
Say mộng hay tỉnh mộng
Đều là mộng mà thôi …”
Đi trong cõi mộng ta đừng mộng
Đứng giữa đất trời chẳng ngóng trông
Ngồi đây soi bóng mình qua lại
Nằm ngủ mơ màng nhớ tánh không
Sống trong cõi mộng ta đừng mộng
Ở chốn vô thường ta vẫn thường
Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất
『 Trích lời tựa 』 Bạch Lạc Mai
Dòng chảy thời gian ngày càng sâu, nhiều sự việc đã mơ hồ không rõ. Chúng ta luôn nói rằng, nếu không gặp nhau, chưa biết chừng cuộc sống trôi qua phần nào yên ả, nhưng lại tĩnh lặng bình an. Số mệnh, nhân quả của thế gian đã sớm có an bài, mỗi người đều có một quyển sách số mệnh định sẵn, không cho phép bạn và tôi tùy ý thêm bớt, sửa đổi.
Chúng ta nên tin tưởng rằng vạn vật trên đời đều có tình duyên. Dù là đá cứng đất cằn, cỏ khô cây mục, chỉ cần ban cho chúng nắng rạng mưa lành, cho từ bi yêu thương, không vật nào không khiến ta cảm nhận được sự thần kỳ của tạo hóa thiên nhiên và sứ mệnh mà cao xanh trao cho chúng. Do đó ở Tây Tạng, chúng ta đều nguyện ý thừa nhận cách nói của các tín đồ nơi này, tin rằng mỗi một con bò, con cừu đều có tình cảm, mỗi một ngọn cỏ gốc cây đều có linh hồn, mỗi một đám mây đang lờ lững trôi đều có nước mắt, còn núi non sông ngòi, chim chóc, sâu kiến đều có tính Phật và tôn nghiêm không thể nói thành lời của chúng.
Tsangyang Gyatso cũng là một hạt bụi nhỏ trong vạn vật, nhưng Ngài là một hạt bụi khiến chúng sinh cảm động. Đọc thơ tình của Ngài, tựa như gặp gỡ dịu dàng thương cảm, chúng ta bị tình yêu êm ái làm tổn thương, nhưng vẫn một lòng hướng đến, không hề hối hận. Hàng ngày, đều có người trèo đèo lội suối tìm kiếm Ngài, chỉ bởi một lời hứa tình nguyện. Hàng ngày, đều có người vì Ngài thắp sáng một ngọn đèn bơ, quỳ mãi không dậy trước Đức Phật. Dường như nhất định phải dùng phương thức si tình ấy mới có thể đổi được một lần lướt vai, một cái ngoảnh nhìn.
Nhưng lại không biết, vị Phật sống nhân gian Tsangyang Gyatso sớm đã hóa thành cát bụi, chỉ để cùng chúng sinh gặp lại chốn hồng trần sâu nhất. Còn chúng ta, không cần túc trực nơi bến đò hoang vu hay dưới cây bồ đề lúc mặt trời lặn, si ngốc đợi Ngài nữa. Đã tin vào nhân quả, nên biết đời người duyên khởi duyên diệt, đến đến đi đi, ly ly hợp hợp, không thể cưỡng cầu.
Mộng như nước chảy, khắp nơi xuân xa. Khi gác bút, viết một bài thơ nhỏ, chẳng vì hững hờ tiễn biệt, cũng chẳng bởi cố ý nhớ đến ai. Chỉ là trong năm tháng ngắn ngủi, muốn trân trọng một cách khoan dung. Sự đời mênh mang rộng lớn, mong vạn vật sinh linh giữa nhân thế đều có thể gặp sao yên vậy.
Tất cả thành ra quá khứ rồi
Gặp chàng trong ký ức mà thôi
Ở chốn hồng trần sâu thẳm nhất
Gió nhạt mây nhòa, vội chia phôi
Em vẫn là em thuở ban đầu
Chàng vẫn là chàng, dẫu bể dâu
Bỗng một ngày kia trong thời loạn
Vui mừng, nghe hơi thở của nhau
Đợi được trùng phùng thật gian nan
Đắm chìm trong khói lửa nhân gian
Em nhận lời chàng, em xin hứa
Sẽ chẳng dễ dàng nói ly tan
Đường xưa
- Quang Minh
Gió reo cười phương xa
Trên đường đi hái trái
Hạnh phúc niệm Di Đà
Suối về nguồn tươi mát
Hoa nở nụ cười duyên
Mây buồn thôi giã biệt
Trăng lên khắp mọi miền
Hải triều vang tiếng niệm
Linh Thứu một trời trong
Hoa Sen truyền một đóa
Tào Khê chảy một dòng
Bèo tan, mai vẫn nở
Chim hót tiếng reo vang
Ngàn xưa một âm hưởng
Ngàn sau một con đường
Bốn điều không thể cứu vãn
- Sưu tầm
(There are four things that we can not recover)
1- Viên đá ... đã ném khỏi tầm tay
(the stone ... after shot)
2- Lời nói ... đã thốt ra khỏi miệng
(the word ... after pronounced)
3- Cơ hội ... đã đánh mất
(the ocasion ... after lost)
4- Thời gian ... đã qua đi
(the time ... after gone)
Dùng ba bát mì để dạy con bài học sâu sắc
- Nguồn: Đại Kỷ Nguyên
- Lâm Minh Triết biên dịch
- Lâm Minh Triết biên dịch
- Bát có trứng. Cậu chỉ vào bát và nói.
- Nhường cho bố đi, Khổng Dung 7 tuổi đã biết nhường lê, con 10 tuổi rồi.
- Khổng Dung là Khổng Dung, con là con, con không nhường !
Bố hỏi dò, không nhường thật à ?
- Không nhường !
Cậu bé kiên quyết trả lời, rồi lập tức cắn lấy một nửa miếng trứng, biểu thị bát mì đã thuộc về mình. Người bố đối với động tác và tốc độ của cậu con hết sức kinh ngạc nhưng nhẫn nại hỏi lần cuối:
- Con không hối hận chứ ?
- Không hối hận.
Và để biểu thị quyết tâm không gì lay chuyển, cậu ta ăn luôn miếng trứng còn lại.
Người bố lặng lẽ nhìn con ăn xong bát mì, ông quay sang bắt đầu ăn bát mì không trứng của mình, thì ra dưới đáy bát mì của người bố có hai cái trứng, cậu con cũng trông thấy rõ ràng. Ông chỉ vào hai cái trứng trong bát mì, dạy cậu con rằng:
“GHI NHỚ - NGƯỜI MUỐN CHIẾM TIỆN NGHI, SẼ KHÔNG BAO GIỜ CHIẾM ĐƯỢC TIỆN NGHI !”
Cậu con cảm thấy xấu hổ.
Lần thứ hai. Buổi sáng chủ nhật, bố lại làm hai bát mì trứng, cũng là một bát trứng nằm bên trên và một bát bên trên không có trứng. Ông vô tư hỏi:
- Con ăn bát nào ?
- Con 10 tuổi rồi, con sẽ kính nhường cho bố. Vừa nói vừa lấy bát mì không trứng.
- Không hối hận chứ ?
- Không ạ !
Cậu kiên quyết trả lời rồi ăn rất nhanh, nhưng ăn gần hết cũng không thấy trứng đâu, còn người bố bắt đầu ăn bát mì của mình, điều không ngờ là bát mì của ông ngoài cái trứng nằm mặt trên còn có thêm một cái trứng nằm dưới đáy bát. Ông chỉ vào cái trứng nói:
“GHI NHỚ - NGƯỜI MUỐN CHIẾM TIỆN NGHI CÓ THỂ PHẢI CHỊU THIỆT THÒI LỚN !”
Lần thứ ba. Trải qua vài tháng, bố lại nấu hai bát mì và hỏi con:
- Ăn bát nào vậy con ?
- Khổng Dung nhường lê, nhi tử nhượng diện. Bố là bậc bề trên, bố chọn trước đi ạ.
- Vậy bố không khách sáo nhé.
Ông chọn lấy bát mì có trứng, cậu con lần này thần thái bình tĩnh không vội như hai lần trước, lấy bát mì không trứng mà ăn. Cậu ăn một lúc thì bất chợt phát hiện trong bát mì của mình cũng có trứng. Người bố ý vị thâm trầm nói với con:
“GHI NHỚ - NGƯỜI KHÔNG MUỐN CHIẾM TIỆN NGHI, CUỘC SỐNG SẼ KHÔNG ĐỂ CHO HỌ CHỊU THIỆT THÒI !”
Chú thích:
1. Chiếm tiện nghi: chiếm lấy phần tiện lợi cho mình, tham lam không biết nhường nhịn san sẻ với mọi người.
2. Khổng Dung nhường lê: Khổng Dung là cháu đời thứ 20 của Khổng Tử, 7 tuổi đã biết nhường những quả lê ngon cho bố mẹ và anh em, còn mình lấy quả lê nhỏ và xấu nhất. Chuyện này có ghi trong sách Tam Tự Kinh là sách vỡ lòng của trẻ con thời xưa.
3. Nhi tử nhượng diện: nhi tử là con cái, diện là cái mặt. Ý nói con cái có lòng hiếu kính với người lớn thì biểu hiện ra bên ngoài phải có hình thức lễ nghi.
Danh ngôn (44)
- Orison Swett Marden
TÂM
- Sưu tầm
Tâm không hay hờn giận
Chẳng oán trách thù ai
Lòng khoan dung rộng rãi
Ấy là cảnh bồng lai
Khi tiếng niệm Di Đà
Vang vọng trong tâm ta
Rơi đi những phiền não
Cho Bồ Đề nở hoa
Đừng nhỏ nhen ghen tỵ
Chớ đố kỵ hận thù
Không ấm ức hậm hực
Tức là mình đang tu
Chẳng oán trách thù ai
Lòng khoan dung rộng rãi
Ấy là cảnh bồng lai
Khi tiếng niệm Di Đà
Vang vọng trong tâm ta
Rơi đi những phiền não
Cho Bồ Đề nở hoa
Đừng nhỏ nhen ghen tỵ
Chớ đố kỵ hận thù
Không ấm ức hậm hực
Tức là mình đang tu
Cái Tâm
- Nguồn: saigonecho.com
Trên sân ga, người qua lại tấp nập. Ai đi qua người phụ nữ ấy đều ném về phía chị những cái nhìn ái ngại và thương cảm. Không ai có ý định dừng lại để giúp đỡ chị. Đặc biệt là những người ăn mặc sang trọng, họ đều đi qua chị với tốc độ rất nhanh, dường như là họ nghĩ nếu đi chậm lại thì chắc chắn người đàn bà đó cũng kéo họ lại để lạy lục, nhờ vả việc gì đó.
- “Anh để ý đấy nhé, không biết chừng chị ta sẽ nài nỉ xin tiền hoặc sẽ hồ hởi kết bạn với mình để bị chị ta tra tấn trên suốt chuyến đi bằng những câu chuyện vừa dài vừa vô duyên, hoặc như chị ta sẽ mượn mình chiếc khăn mùi xoa để lau mồ hôi mà lau xong thì mình không dám xin lại, hay như mượn bình nước uống rồi tu ừng ực thì vài ngụm đã hết veo. Đúng là người nhà quê” - Một người phụ nữ ăn mặc trông có vẻ sang trọng bĩm mồm đánh thượt một cái và nói với người đàn ông cũng có vẻ sang trọng bên cạnh mình.
- Xin chào ... xin ...
Quả nhiên người phụ nữ tiến lại gần đám đông đang đứng đợi tàu. Nhưng dường như không đợi chị nói hết câu, mọi người đều xua tay và lắc đầu và nhanh chóng lảng ra chỗ khác. Không nản chí, người phụ nữ này lại men theo các cánh cửa sổ của các toa tàu rồi nhảy hẳn lên các toa chưa đến giờ xuất phát. Đi đến toa nào chị cũng mang một khuôn mặt như muốn cầu cứu, trông thật đáng thương và câu duy nhất thốt ra từ miệng người phụ nữ đáng thương này là: “Xin mọi người giúp đỡ cho tôi !”
Những người ngồi trên tàu tỏ ra rất khó chịu với người phụ nữ này. Có người thì xua tay ra hiệu xua đuổi, có người vừa thấy bóng dáng chị ở đầu toa vội lấy tờ báo che mặt giả vờ ngủ. Trên khuôn mặt của người đàn bà ấy lộ rõ vẻ thất vọng, chán nản. “Mình đâu phải là thằng ăn trộm mà sao mọi người lại xử sự như thế nhỉ ?” - Người phụ nữ xót xa nghĩ.
Chị ta lại đi qua các toa tàu nhưng không ai muốn nghe chị trình bày hoàn cảnh của mình. Đúng lúc đó, chị nhìn thấy một chàng trai có dáng vẻ rất thư sinh đang ngồi đọc báo. Chàng trai đang đọc báo rất chăm chú và dường như cậu ta không để ý đến mọi thứ xung quanh. Nhẹ nhàng đi về phía chàng thanh niên, người phụ nữ cất tiếng nói.
- Xin lỗi cậu, cậu có thể giúp đỡ tôi được không ?
Chàng trai bỏ tờ báo xuống, nhìn quanh một lúc rồi nhìn người phụ nữ nông thôn nọ:
- Xin lỗi, chị đang hỏi tôi ạ ?
Người phụ nữ gật đầu.
- Xin anh giúp đỡ tôi với, tôi lên thành phố để tìm người bà con, nhưng tìm không ra, tiền bạc lại bị kẻ gian móc hết rồi. Muốn về quê nhưng không biết làm thế nào, cậu có thể mua giúp một tấm vé để tôi về quê không ?
Sau khi nghe người phụ nữ đáng thương nói xong, nét mặt chàng thanh niên trông rất lưỡng lự. Dường như anh ta vừa muốn giúp, vừa lại không muốn giúp người đàn bà đáng thương đó. Sau một thời gian im lặng, chàng trai bèn đưa tay vào túi quần của mình, khó khăn lắm mới móc ra được một đống tiền lẻ, ngại ngùng đưa cho người phụ nữ.
- Chị cầm lấy đi. Tôi … tôi chỉ còn có chừng này, không biết đủ hay không. Tôi cũng vừa mua vé để về quê nên không còn nhiều. Tôi lên thành phố này để kiếm việc, hy vọng tìm được một công việc kiếm được kha khá, nhưng khi lên thành phố, với tấm bằng trung cấp trong tay thì tôi không thể tìm ra được một việc gì để làm. Chị cầm tạm vậy.
Người phụ nữ rưng rưng cầm lấy những đồng tiền lẻ của chàng trai, khó khăn lắm chị mới thốt lên được hai tiếng “Cám ơn”.
Vừa quay gót đi về phía cuối toa thì chị nghe tiếng gọi với theo của chàng thanh niên nọ. Cậu ta hớt hải đi về phía chị và nói:
- Như thế này vậy, chị cùng quê với em, hay chị lấy tấm vé của em đi vậy.
- Thế còn cậu thì sao ? Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
- Số tiền em vừa đưa cho chị có thể mua đủ tấm vé xuống ga thứ ba xuất phát từ ga này, như vậy cách nhà em cũng không xa lắm, em có thể đi bộ mà. Chị cứ cầm lấy vé đi, em là con trai, thế nào mà chẳng được. Còn phụ nữ như chị thì không thể đi bộ về nhà trong đêm tối được. Thôi, chúc chị thuận buồm xuôi gió. Nào, đưa cho em đống tiền lẻ nào !
Nói xong, không kịp để người phụ nữ phản ứng gì, chàng trai vội cầm lại số tiền lẻ trong tay người phụ nữ và đưa lại cho chị tấm vé của mình. Sau đấy anh vội vàng đi ra khỏi tàu và đến quầy bán vé. Rất nhanh sau đó, chàng thanh niên lại lên tàu. Người phụ nữ tiến lại gần phía chàng trai và cất tiếng hỏi:
- Sao cậu lại làm như thế, cậu không hối hận à ?
Chàng trai lắc đầu:
- Không, chị ạ.
Trong ánh mắt của người phụ nữ đáng thương nọ ánh lên một niềm vui khôn xiết. Chị cầm tay chàng trai và nói:
- Anh bạn trẻ, xuống đây với tôi một lát.
Người phụ nữ kéo chàng trai ra khỏi nhà ga, vẫy một chiếc taxi, tự động mở cửa xe và quay lại nhìn chàng trai:
- Cậu lên xe đi. Hôm nay cậu chính thức là nhân viên của tôi.
Hoá ra, người phụ nữ này là con gái của một ông chủ tập đoàn sản xuất đồ chơi nổi tiếng. Để đi tìm một người trợ lý đáng để tin cậy, chị đã phải hoá trang và đứng ở sân ga suốt ba ngày qua. Chị nói rằng:
- “Các bạn cho rằng tôi thật ngốc nghếch khi phải làm khổ mình như thế, nhưng thật ra nó thật sự xứng đáng. Khi đứng ở sân ga trong ba ngày đó, tôi mới nhận ra rằng, tìm được một người thực sự tốt trong cuộc sống xô bồ này quả là khó. Có thể, chàng thanh niên đó không có trình độ, hiểu biết nhiều như những người tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn nữa. Nhưng điều đáng quý nhất và đáng trân trọng nhất là cậu ấy có cái “tâm”. Có cái “tâm” trong cuộc sống thì mới có cái “tâm” trong công việc được. Đấy là thứ mà công ty tôi cần !”
Các bạn thấy đấy, một tấm vé để đổi lấy cả một sự nghiệp xán lạn. Có thể nhiều người nghĩ đây chỉ là việc ngẫu nhiên, nhưng thực ra trong sự ngẫu nhiên đó lại có tính tất yếu của nó. Rất nhiều người đã có mặt ở trên sân ga, nhưng chỉ có chàng trai đó mới nhận được niềm hạnh phúc bất ngờ như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà anh ta có được một cơ hội tốt đẹp đến như thế, mà điều quan trọng là anh đã biết chia sẻ chữ “tâm” của mình cho mọi người xung quanh.
Đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật mà tôi đã nghe được từ giám đốc của tôi.
○●○
Đọc câu chuyện trên nghe vọng lại lời thơ của thi hào Nguyễn Du: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Trong trường đời, trái tim lại quan trọng hơn cái đầu. Sống ở đời và giao tiếp với người đời, “được việc” mà thôi chưa đủ, còn phải “được người” nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.
Tâm nói lên nhân cách của một con người. Tâm xấu xa sản sinh ra những suy nghĩ xấu, chọn lựa xấu, lời nói xấu, hành động xấu.Tâm lệch lạc thì cuộc sống nghiêng ngã đảo điên. Tâm gian dối thì cuộc sống bất an. Tâm ghen ghét thì cuộc sống hận thù. Tâm đố kỵ thì cuộc sống mất vui. Tâm tham lam thì cuộc sống dối trá …
Tâm tốt lành luôn nở hoa nhân đức. Tâm nở hoa yêu thương nên không có bóng dáng hận thù nào. Tâm nở hoa bác ái nên luôn quan tâm giúp đỡ người khác. Tâm nở hoa phục vụ nên nhiệt thành làm việc thiện nguyện vô vị lợi. Tâm nở hoa khiêm nhường nên luôn biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình. Tâm nở hoa tha thứ nên không cầm giữ bất cứ một xúc phạm nào người khác gây ra cho mình. Tâm nở hoa hòa bình nên chỉ biết kiến tạo sự hiệp nhất, vun trồng tình thuận hòa. Tâm nở hoa xây dựng nên không khi nào phá đổ các công trình chân thiện mỹ của những người thành tâm thiện chí. Tâm nở hoa công chính nên can đảm khước từ những gì đi ngược với công bình bác ái, không tham lam những của bất chính. Tâm nở hoa chân thật nên dứt khoát loại bỏ các thứ dối trá, gian tà. Tâm nở hoa ánh sáng nên cố gắng bước ra khỏi bóng tối của tội lỗi, không ẩn mình trong cám dỗ của ma quỷ, không để chúng giam hãm, nô lệ hóa mình. Tâm nở hoa cao thượng nên biết nâng mình lên trên mọi ti tiện tầm thường, không tính toán nhỏ nhen, không cư xử theo lối tiểu nhân. Tâm nở hoa vui mừng nên biết đem lại niềm vui an ủi cho những kẻ buồn sầu, tủi phận, khóc than cho định mệnh nghiệt ngã, cho tương lai đen tối, cho đường đời thử thách.Tâm nở hoa hạnh phúc nên luôn sống bình an và chan chứa niềm vui.
Sự thánh thiện hệ tại nơi cái tâm. Chúng ta phải tu tâm dưỡng tánh để luôn có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, tôn trọng công lý, yêu thương mọi người. Khi đã có cái tâm tốt, những việc làm sẽ tự nhiên đẹp lòng người.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)