-Cư sĩ Liên Hoa
Thỏng tay vào cuộc đời
Tìm ai trong say tỉnh
Tỉnh say một cuộc chơi
Hỏi rằng sanh là mộng ?
Hay tử là bến mơ ?
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng. Tôi không phải là nhà văn hay thi sĩ để diễn tả những mảng hình chung quanh, nhưng cả bầu trời tuyệt đẹp. Có ai đã từng nhặt chiếc lá vàng rơi còn hương nhụy vẫy vùng muốn sống, muốn trở về thân cây mẹ nên tuôn những hương xót xa, lìa cành. Cái mùi hương này thật dễ chịu, thoáng mát. À quên, xin được nói nhỏ, đây chỉ là tưởng tượng cho ra văn vẻ, chứ đừng nên làm như vậy. Còn nếu muốn chứng tỏ mình nhiều thi tính, mộng mơ, nên nhớ đừng cho ai thấy, vì khi thấy mình gom lá nhiều quá, người ta sẽ nghĩ đó là người phu quét rác, hoặc nếu mơ mộng, cứ cầm lá vàng lên ngửi tới ngửi lui, e rằng họ sẽ nghĩ chắc là từ nhà thương … mới ra.
Tôi không nhớ rõ đã quen được con người này bao lâu rồi và trong hoàn cảnh nào. Chỉ biết là khi mới gặp nhau mà đã như thân lắm. Tôi là một thanh niên mới lớn, một sinh viên, sống phong trần, xa cha mẹ, anh em, họ hàng … một thân một mình trên đất Saigon. Saigon của những năm trong thập niên 70, lăn lóc trong hoàn cảnh đất nước đang bị chiến tranh, một xã hội đang bị xáo trộn tận gốc. Mọi giá trị tinh thần đều như đang bị định giá lại, tuổi trẻ không biết được ngày mai ra sao ? Và, tôi đã gặp vị tu sĩ này, cùng học chung lớp với nhau tại Trường Đại học.
Không biết tại sao tôi lại bị quyến rũ bởi dáng dấp thư thái, an nhàn nhưng tôn nghiêm của người này, hay như một nhân duyên nào đó. Thực tình, tôi không muốn làm quen với các vị tu sĩ, vì cảm thấy chán lắm, không có gì để mà sôi động hoặc thích thú cả. Tóc tai thì không có, cái model kỳ lạ. Tôi nghĩ nếu mà đầu mình láng như ông thầy, có nuớc phải chạy trốn hết mấy đứa bạn hoặc phải đội tóc giả quá. Mặt thì lúc nào trang nghiêm, dù hơi cười mỉm. Và ông ta - hình như cũng chẳng mấy quan tâm đến thái độ của mọi người chung quanh đối với mình, “kính nhi viễn chi”.
Bạn bè rất nhiều, nhưng rồi tôi lại lân la làm quen với vị tu sĩ này. Có lẽ, vì tò mò, vì khoảng trống vắng đang nở dần trong tâm hồn, cô đơn trước cuộc đời, bạn bè mỗi ngày thưa dần, đứa bỏ học, bỏ nhà ra đi bụi đời vì chán hoàn cảnh sống, đứa lên đường vì đất nước cần, đứa phơi thây ngoài trận địa. Chung quanh tôi, bóng đen đang dần dần bao phủ, quyện cuộc đời vào tâm trạng khắc khoải, buồn chán, hoang mang của tuổi trẻ thời chiến. Có nhiều lúc tự hỏi đời sống là gì ? Lý tưởng của tuổi trẻ ra sao ? Bấp bênh, vô định .v.v.v.
- Này ông, tôi phải kêu ông như thế nào hả ?
- Anh cứ gọi tôi tự nhiên, Sư hay Thầy gì cũng được.
- Vậy, gọi là Thầy nha. Sao Thầy đi tu vậy, đi tu hồi nào vậy ? Thầy có chán đời hay gì gì đó … không ? Xin lỗi nha, vì hỏi như vậy kỳ quá.
- Anh nói gì là gì hả ? À, anh muốn ám chỉ thất tình, phải vậy không ? Thú thật, tôi đi tu từ còn nhỏ, nên chưa hiểu thất tình là gì. Mà anh có thấy khi nào đứa bé 9-10 tuổi thất tình không há ?
Cả hai chúng tôi đều cười, nhất là câu hỏi nguợc lại dí dỏm của ông Sư này. Như vậy là tốt rồi. Tình thân giữa tôi và ổng càng ngày càng gần, bớt khoảng cách.
- Thầy à ! Mấy thầy tu có bao giờ biết yêu không Thầy ?
Vừa hỏi, tôi nhìn thẳng vào mặt của Thầy, tò mò muốn khám phá một phần nào bí ẩn đời sống của vị tu hành. Sao mặt ổng vẫn thản nhiên, cười cười. Một vẻ cười an nhiên, tự tại.
- Anh nghĩ sao ? Người tu chúng tôi đâu phải là người ngoài hành tinh xuống, hì hì …Tôi cũng là con người, cũng biết xúc cảm, biết rung động trước ngoại cảnh, chẳng hạn như sắc đẹp đổ nước nghiêng thùng. Tuy nhiên, Đạo Phật rất tự do. Khi mình không còn duyên tu hay đúng hơn, nếu mình không thể cuỡng lại những đam mê, ham muốn hay yêu đương của mình, mình có thể cởi áo tu ra, không ai cấm hết. Nhưng nếu đã quyết chí tu, thì do tuơng chao mỗi ngày, nên hì hì … mình sẽ chuyển những tình yêu cá nhân làm cho thăng hoa lên. Từ vị mình dần dần sẽ chuyển hóa thành vị người. Nè, vị người là vô ngã đó nha, chứ không phải vị một người nào đâu - có nghĩa sống cho nhiều người hơn. Khi mình sống vô ngã, mình sẽ thấy con đường rất thênh thang và tâm hồn mở rộng.
Và Thầy chợt đọc bài thơ ngắn …
Sao ta nỡ bắt mùi huơng
Trong đôi tay bé nhốt từng mây hương
Mở tay huơng thoát bay xa
Để hương lan toả, ta-người thảnh thơi
(Minh Thanh)
- Ủa mà Thầy cũng biết làm thơ nữa hả ? Hay thiệt ! Tại sao lại đi tu làm chi cho uổng vậy để phải cạo đầu ? Phải mặc áo nâu ? Phải ăn chay ? Phải tụng kinh ? Phải và phải …? Tu có phải chán đời không ?
Nghe những câu hỏi dồn dập của tôi, ông Thầy cười quá chừng chừng, làm tôi cũng ngượng. Dù gì thì tôi cũng không muốn mất người bạn này.
- Rất nhiều người mang thành kiến giống anh. Cứ thấy mấy ông sư hay ni cô là nghĩ rằng họ là những kẻ chán đời hay thất tình mới đi tu. Có lẽ họ bị ảnh hưởng của câu chuyện cải luơng “Chuyện tình Lan và Điệp” đó. Nếu mình đi tu mà tất cả giống như ở ngoài, thì còn gì để nói. Khi lìa gia (xuất gia) có nghĩa là chấp nhận cuộc sống khác thuờng tình, thì mình mới nương vào hình tướng đơn sơ đó làm khuông giữ mình. Người tu phải cạo đầu để hoại sắc, để không còn bám víu vào những giả tuớng, phải mặc những quần áo tầm thường để khỏi tham đắm, mê nhiễm, và ăn chay là để nuôi dưỡng lòng từ .v.v.v.
Có lẽ vì muốn cho tôi hiểu, ông còn nói về Tam Thường Bất Túc (Ăn, Mặc, Ngủ phải không đủ) của tu sĩ và còn nói, nói nhiều lắm. Ông giảng cho tôi biết cặn kẽ từng chút một để hiểu và để thông cảm với nhau. Tôi thật thán phục lối trình bày, khúc chiết và đồng ý với những lý giải đó.
- Thực ra, nếu phải nói ai là người yêu đời nhất, thì đó chính là người tu sĩ. Tôi không nói suông đâu nha. Anh nghĩ xem. Sống ở đời, hầu hết ai nấy đều lo cho mình, bản thân mình, gia dình mình, người thân mình, những gì liên quan hay thuộc về mình .v.v.v. Người tu sĩ lại khác, biến mỗi người thành người thân của mình. Họ là những người đa tình nhất như Đấng Cha Lành mà họ quy y - sau khi thành Chánh Giác, Ngài đã qua 49 năm lăn lội khắp bao nẻo đường, tiếp cận với tất cả mọi người để hướng dẫn đến bờ Giác. Đó là tấm lòng quá cao cả. Cho nên, người tu sĩ yêu con người và cũng muốn hoàn thiện mọi người, huớng dẫn tất cả đến Chân Thiện Mỹ. Sống và yêu lý tưởng đó theo con đuờng “Phục sự chúng sanh tức là cúng dường Chư Phật”…
- Thầy nghĩ sao về cuộc sống hiện sinh của thanh niên hiện nay ?
Tôi không phải là con người đang đi tìm cho mình một lý tưởng để sống, nhưng muốn tìm hiểu, qua vị sư trẻ này - quan niệm của Phật giáo hay tư tuởng của Thầy như thế nào về hiện sinh. Bởi vì, như nói ở trên, hoàn cảnh đất nuớc tôi bị chiến tranh và tất cả cho chiến tranh. Mạng sống con người vô nghĩa. Luân lý, đạo đức cần phải hỏi lại vì sự chênh lệch giữa mọi giai tầng trong xã hội đang bị giao động mãnh liệt. Thanh niên chán đời, sống hiện sinh. Tóc tai dài thược, quần ống loa, rộng thênh thang và … đó là những nỗi đau lòng da diết, nếu còn chút ý nghĩ về cuộc sống, về xã hội, về con người .v.v.v.
- Tôi muốn chia sẻ cùng anh về con đuờng của Đạo Phật. Anh có biết Phật giáo là con đường Siêu Hiện Sinh không ? Tuy nhiên, hiện sinh của lớp thanh niên hay trí thức .v.v.v. bây giờ khác xa với hiện sinh của Phật giáo.
Hiện sinh của tầng lớp người đang sôi nổi hiện giờ chỉ là một phong trào hay một lối sống bắt chước Tây phương. Sau Đệ nhị thế chiến, con người của xã hội Tây phương bỗng trở nên chán nản, vì thấy đời sống quá vô lý. Sự hoang tàn, chết chóc thê luơng, tàn bạo. Thượng Đế đối với họ đã chết, vì nếu có thì tại sao lại để cho chiến tranh tàn khốc xảy ra, tiêu hoang, hủy diệt biết bao nhiêu sinh mạng con người. Đó không thể cho là mầu nhiệm thử thách hay trừng phạt .v.v.v. Cho nên, để phản kháng lại sự vô nghĩa lý cùng cực này, họ lý luận rằng không cần đến Thần linh, Thượng đế. Họ chính là Thượng đế hay là chủ nhân của con người họ, sống bất cần ngày mai, sống cho mình và vì mình. Đó cũng có thể là một phần trong lý do phát triển của chủ nghĩa cá nhân cực đoan và lan tràn qua nhiếu quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Descartes nói rằng: “Tôi suy tư tức là tôi hiện hữu”. Như vậy, nếu tôi không suy tư thì tôi ở đâu, là gì ? Sự hiện hữu của tôi là hiện hữu có điều kiện, lệ thuộc vào một đối tượng, dù là tinh thần hay vật chất. Câu nói này quá nguy hiểm, đã làm bao nhiêu con thiêu thân lao vào, tạo sự phản kháng dù là tiêu cực để cuộc đời băng hoại, sống cá nhân vị kỷ hay bằng hành động tích cực, như đả phá thần tượng, phản đối cuộc đời, xã hội.
Một Jean Paul Sartre, một Albert Camus, một Francois Sagan và bao lớp nhà trí thức hiện sinh khác nữa .v.v.v. đã đóng góp thêm cho sự sinh động của quan niệm hiện sinh này và hậu quả ra sao thì mọi người đều rõ. Tôi không phê phán mà chỉ muốn chia sẻ với anh hay với họ. Họ rất đáng thương, đáng tội nghiệp vì bị vẫy vùng trong sự cô đơn. Bởi vì chính những gì họ phản kháng, đập vỡ … lại vô tình làm cho họ đau khổ, cô đơn hơn. Tất cả suy tư để hiện hữu chỉ là những vọng tưởng. Ráng nắm bắt vọng tưởng như một thực hữu, chỉ còn lại là khoảng không. Họ ráng đi tìm bản ngã, nhưng lại không dám đối diện hay sờ mó bản ngã, vì nó không thực hữu. Chia cắt nó ra, chỉ còn là tên gọi, họ đâm ra sợ hãi. Cho nên, hiện sinh chỉ là một phương pháp tạm thời để chạy trốn thực tại chứ không phải là cách giải quyết toàn diện khổ đau.
Như tôi đã nói với anh ở trên, người tu sĩ Phật giáo là những con người yêu đời và yêu con người. Những người con của Đức Phật là những người cô đơn chứ không cô độc như con người hiện sinh vị kỷ. Họ cô đơn quán chiếu nội tâm và họ khám phá ra rằng tất cả mọi hiện tượng dù tâm hay vật đều vô thường, đều không có thực ngã, mà do duyên hợp. Cho nên, bám víu vào đó sẽ đưa đến đau khổ.
Và điều hạnh phúc vô cùng của họ, chính là khám phá ra rằng trong tâm họ, Tánh giác thường hằng, rực sáng, dù qua bao lớp sóng vô minh, và tất cả mọi người đều có tánh Phật. Đó chính là lý tưởng tuyệt đẹp mà họ dấn thân. Hoàn thiện con người Giác ngộ của mình và giúp mọi người đều hoàn thiện Tánh giác của họ. Họ có biết bao nhiêu là Bậc Trưởng thượng, Tôn túc, Thầy Tổ .v.v.v. đã làm, đang dấn thân và sau này, sẽ có còn nhiều, nhiều nữa, những con người mang chiếc áo cô đơn tiếp nối, vì đó là sứ mạng của họ.
Chúng sanh nhiều vô kể, con xin thề nguyện độ
Phiền não nhiều vô tận, con xin thệ nguyện đoạn
Pháp môn nhiều vô số, con đều xin được học
Phật đạo rất cao thượng, con xin thệ nguyện thành
Ngài A-nan nguyện rằng: “Xin Đức Phật chứng minh cho con. Nếu ngày nào còn một chúng sanh chưa thành Phật, con sẽ không vào Niết Bàn”.
Ngài Địa Tạng: “Ngày nào còn chúng sanh khổ đau trong địa ngục, con sẽ không thành Phật”.
Đó phải chăng là con đuờng Siêu Hiện Sinh tuyệt vời. Hiện sinh với mình, sống hiện tại với tâm và làm nẩy nở Phật chất trong mình và đồng thời, chia sẻ với mọi người để giúp họ nhìn thấy và sống với Tánh Phật của chính họ. Sống với Tánh giác, đầy đủ suối nguồn từ bi và trí tuệ, biên giới ích kỷ, chia cách giữa người người chấm dứt và mọi người đều chan hòa trong hạnh phúc của cõi Cực Lạc trần gian, biến nơi đây là Tịnh thổ như bản hoài của Đức Phật.
– – – – – – – – –
Tôi vội vàng chạy đến ngôi chùa, nơi vị tu sĩ này đang ở. Nghe văn phòng của truờng học, các vị giáo sư phụ trách lớp và các bạn sinh viên cùng lớp cho biết vị sư đã qua đời, và ngày mai, sẽ đem đi hỏa thiêu. Họ vừa được tin sáng nay, và báo cho tôi, vì ai cũng biết chúng tôi rất thân với nhau. Tôi giật mình, gằn giọng hỏi: Có thật vậy không ? Và hy vọng câu trả lời của mấy đứa bạn là chỉ đùa giỡn. Không được, cả các giáo sư cũng đều cho biết như vậy mà. Nếu mấy tên này không thì còn có thể nói là vui đùa được, vì sự sống chết lúc này rất bất thường đối với mọi người trong thời buổi nhiễu nhương, chiến tranh. Do đó, chúng tôi thường hay vui đùa với nhau, dù rằng có đem cái chết ra nói nữa.
Trong gian phòng của Vãng Sanh Đường, chiếc quan tài nằm im lặng, bất động giữa phòng. Chỗ đầu quan tài, trên cao sát vách tường, có hình vị Phật cầm hoa sen, tay phải buông xuôi xuống như đang tiếp ruớc. Khuông hình long lanh hình ảnh của vị Thầy nằm phía dưới, như đang mỉm cười. Bài vị có tên họ, pháp danh … ngày mất 14.07.1972. Như vậy là đúng rồi ! Thầy chết còn trẻ quá. Ước nguyện làm ích lợi cho Đạo, giúp Đời mà ngày nào Thầy tâm sự cùng tôi còn đó. Từ vị sư này, tôi học được nhiều, nhiều lắm. Cái cách đi, cách nói, đứng, cười, lý giải, cách sống theo sáu nguyên tắc sống hòa thuận .v.v.v. đã bao lần làm tôi bình tĩnh, an tâm trong những lúc hoang mang, cùng quẫn với con đường trước mặt. Tôi không những quý kính Thầy vì là Thầy tu, mà còn là một người bạn thân thiết. Thầy ra đi để lại trong tôi khoảng trống vô biên. Nước mắt tôi rơi xuống, đứng lặng yên thật lâu trước di ảnh của Thầy. Vẫn biết đời sống con người ngắn ngủi, nhưng tình thân thì thật là dài. Và như không dằn được, tôi quỳ xuống. Thầy ! Thầy ơi ! Tôi buột miệng kêu lên và bất động.
Thầy có tuổi trẻ, tôi cũng vậy. Nhưng con đường Thầy chọn nó đẹp và nên thơ, qua cách sống và lý tưởng của Thầy. Tuổi trẻ của tôi là những nổi loạn, bất mãn, chán đời, vì chỉ có những xáo trộn, điên cuồng này mới biểu lộ được sự hiện hữu của chúng tôi. Còn với Thầy thì tuổi trẻ là chia sẻ, ban cho và đi với người để chỉ đến con đuờng an lạc. Thầy thường nói Đạo Phật không phải là các tuợng Phật đang được tôn thờ, là những kinh sách dầy đặc như rừng, mà là phải sống với Tánh Phật của chính mình, mình mới không bị đau khổ và mới có sự an lạc để đem chia sẻ đến mọi người.
Đó là những dấu ấn của tâm linh, nuôi dưỡng tâm tôi trong những sắc màu của Phật giáo. Người ta nói Đạo Phật rất cao siêu, huyền diệu .v.v.v. nhưng đối với tôi, qua một khoảng thời gian dài quen biết vị Thầy này, với những bài Pháp ngắn gọn, thực tế, trẻ trung, cùng những cách chỉ làm sao chăm chút ngôi vườn Tâm, là những dấu ấn tinh thần sinh động. Hiểu Đạo Phật đâu cần phải nơi xa, cao siêu, đâu cần phải triết lý này hay triết lý nọ, nếu chúng ta không dẫm chân trên mặt đất này, với từng giờ phút sống hiện tại. Nếu chúng ta cứ bay bổng trên cao vời vợi, nhưng guơng mặt lúc nào cũng không tươi mát, cau có như …
Tôi không tôn thờ Thầy như một thần tượng, nhưng là một người bạn thân. Thầy đã đến và chia sẻ với tôi như vậy. Trong Phật giáo không có sự tôn thờ thần tượng. Khi chúng ta tôn Đức Phật như một vị thần linh, cầu ban phuớc, mà quên rằng Đức Phật chỉ là vị thầy chỉ đường cho chúng sanh thấy được tánh Phật của mình, rồi chúng ta cầu khẩn, van xin những thứ tầm thường theo uớc vọng của mình, chúng ta đã đi sai đường và làm mất ý nghĩa của Đạo Phật. Khi chúng ta tôn vị Thầy, dù là bất cứ ai lên làm thần tượng, vô tình chúng ta đã biến vị Thầy đó là sở hữu của mình, để biến hóa vị Thầy theo ý mình muốn hay tình cảm của mình. Biến phương trời cao rộng của vị Thầy thành những thứ thường tình, lạt lẻo, vô nghĩa.
Chúng ta rất vui mừng vì hiện nay, Phật giáo đang nở rộ, phát triển mạnh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Phật giáo như một biểu tượng của Tình thương - Trí tuệ sáng suốt và Hoà bình, cùng với những truyền thống tâm linh khác, đóng góp và đem lại niềm an lạc thực sự cho nhân loại. Riêng Việt Nam, suốt dòng lịch sử truyền thừa của Đạo Phật và truớc năm 1975, trong các vị Tơn Đức, Tăng Ni … chỉ có vài vị có được học vị ngoài đời với cấp bằng Tiến sĩ hay Cử nhân .v.v.v. nhưng sức sống tâm linh của Phật giáo qua các vị Thạc đức - cuồn cuộn đi vào cuộc đời, phổ cập ở mọi miền đất nuớc, chia sẻ và đem lại an lạc tinh thần cho biết bao nhiêu người Việt. Đơn giản nhất là khi ăn, mà các Ngài vẫn còn nghĩ đến:
“1- Công khó của người làm ra vật thực. 2- Xem xét đức hạnh của mình. 3- Không được tham đắm. 4- Đây chỉ là lương dược nuôi sức khoẻ. 5- Và quan trọng, phải thành Phật quả.”
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông
(Huyền Không)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét